Một thai phụ tai Anh đă hạ sinh đứa con của ḿnh chỉ trong ṿng 3 phút khi đang thư giăn trong pḥng tắm. Cô chia sẻ rằng không hề cảm thấy đau đớn ǵ và việc sinh nở diễn ra khá nhanh. Sau khi biết được sự việc này th́ nhiều người đă rất bất ngờ.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=972764&stc=1&d=1481887457
Mới đây, một bà mẹ đă kể lại quá tŕnh sinh con ḱ diệu trong bồn tắm kéo dài chỉ 3 phút trên báo Daily Mail.
Mẹ Kat đă sinh bé Ryder trong buồng tắm mà không hề đau đớn
Y tá trẻ Kat Smith, 36 tuổi, sống ở Gloucester, nước Anh, vừa trở về nhà sau ca làm việc và quyết định đi tắm th́ sinh con. Cô khẳng định không hề cảm thấy đau đớn trong 3 phút sinh con bất ngờ hồi tháng 9. Theo Kat, đây có lẽ là ca sinh nở nhanh nhất và nhẹ nhàng nhất.
Kat rất bất ngờ v́ cô đă phải trải qua 15 tiếng và 18 tiếng trong pḥng sinh với 2 lần sinh nở trước. Cô nói: "Tôi ở trong pḥng tắm để thư giăn và bước ra khỏi pḥng tắm với một em bé. Tôi không thể tin được. Không có chút đau đớn nào cả, Tôi chỉ rặn hai lần và đột nhiên con tôi chào đời”.
Theo Kat, đây có lẽ là ca sinh nở nhanh nhất và nhẹ nhàng nhất.
Kat và chồng Neil Smith mong chờ đứa con thứ 3 của họ sinh ra vào ngày 18.9. Thế nhưng, vào sáng 14.9, Kat đang làm việc tại một khu trông trẻ th́ cảm thấy hơi khó chịu trong bụng. Do đó, cô trở về nhà nghỉ ngơi. Kat về nhà lúc 10:45 và quyết định đi tắm. Kat vào buồng tắm lúc 11:05 và chỉ 5 phút sau, cô cảm thấy một sự thôi thúc cần phải rặn. Kết quả là, đầu em bé bắt đầu chui ra. Kate nhớ lại: "Tôi không cảm thấy ǵ. Tôi lấy điện thoại và gọi điện cho chồng. Anh nói anh sẽ gọi xe cứu thương cho tôi”.
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=972765&stc=1&d=1481887457
Cả hai mẹ con đều khỏe mạnh và được ra viện ngay hôm đó. Bé trai, được đặt tên là Ryder, nặng 3 kg.
Ngay sau khi cô đặt điện thoại xuống, cô lại cảm thấy ḿnh cần phải rặn lần thứ hai, và đó chính là thời điểm em bé chào đời. V́ dây rốn và nhau thai vẫn chưa được cắt, Kat đợi trong bồn tắm để được giúp đỡ. Sau khi xe cứu thương đến nơi, Kat đă tự cắt dây rốn. Khi mẹ và em bé được dưa đến bệnh viện, các bác sĩ mới tiến hành cắt nhau thai. Cả hai mẹ con đều khỏe mạnh sau ca sinh và được ra viện ngay hôm đó. Bé trai, được đặt tên là Ryder, nặng 3 kg.
hoalyly@vietbf sưu tầm
laughster
12-18-2016, 18:59
ai cũng nói mẹ tṛn con vuông nhưng khi tui nh́n mấy con ra đời nó giống mẹ tṛn hết, không có đứa nào vuông là sao lobster????
Trong sự truyên đạt tư tưởng con người phải dùng nhiều phương cách., trong đó ba phương cách thường dùng nhất : h́nh vẽ ( h́nh tượng) – ngôn ngữ – chữ viết. Trong câu chúc:” Mẹ tṛn con vuông” Ông bà chúng ta vừa dùng ngôn ngữ vừa dung h́nh tượng : Vuông, Tṛn Trong Dịch học hai h́nh biểu tưởng quan trọng nhất là Tṛn=Trời =Càn = Dương và Vuông.=Đất-= Khôn =Âm
Tṛn biểu tượng cho Trời , hay Dương tính ( nói theo dân gian là Đực là trai, đàn ông )
Vuông biểu tượng cho Đất hay Âm tính ( theo cách nói dân gian là Cái , là Gái. Đàn bà)
Vậy lời chúc “ Mẹ Tṛn Con Vuông” mang ư nghĩa : Cầu chúc cho Âm Dương thuận ḥa , Đực Cái tṛn vẹn. Cũng là cầu chúc cho Mẹ Con được an b́nh hạnh phúc trong công việc cùng hợp tác với sự quan pḥng và sáng tạo Thiên Chúa trong việc duy tŕ ḍng giống
Theo tôi đây là lời cầu chúc đẹp và hay nhất trên cơi đời này dành cho một cuộc sinh nở của con người, củng là biểu tượng cho cuộc sinh nở của đất trời vạn vật.
http://www.huongtinhque.net/?p=4031
H́nh như sự tích bánh dầy (tṛn) bánh chưng (vuông) cũng liên quan đến chuyện tṛn vuông của trời và đất, càn và khôn
Bài viết này hơi dài ḍng ,ḷng ṿng một chút ,nhưng ư th́ ḿnh thấy rất đầy đủ ,nên post lại đây để mọi người đọc thêm .
Khái Niệm “Vuông Tṛn” Trong Văn Hóa Việt
Tác Giả: Thành Văn
Hàm ư “Một trường hợp sinh sản tốt đẹp b́nh thường, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh. Đứa nhỏ không bị dị tật ǵ. Một kết quả đúng như người ta trông đợi.” Câu thành ngữ này nếu đem dịch nguyên văn ra tiếng nước ngoài, nhất là các ngôn ngữ Tây phương sẽ rất khó truyền đạt được cái ư nghĩa “tốt lành” của nó đến người nghe. Đơn giản là v́ người Tây phương họ không có chung nhiều khái niệm về văn hóa và triết lư với chúng ta. Đối với họ, “vuông tṛn” không mang một ư nghĩa hảo hợp, nếu không nói là c̣n không dung nạp được nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những h́nh thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ư tương phản. Đặt vào nhau không khớp.
Trái lại, trong văn hóa Việt Nam, hai h́nh thể đó trong nhiều trường hợp đi đôi, gắn liền với nhau lại biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời, và cho ra một kết quả tốt lành.
V́ sao vậy? Đương nhiên, điều nghịch lư đó phải mang một ư nghĩa tích cực có thể giải thích được. Nó phải bắt nguồn từ những khái niệm cơ bản xuất phát từ trong dân gian; được người đời chấp nhận như những yếu tố cấu thành tốt đẹp. Cái “thiện căn” ấy khi được kết hợp sẽ cho ra những thành tố thiện. Thật vậy, sinh hoạt văn hóa Việt ảnh hưởng sâu đậm của ba tôn giáo lớn hiện hữu từ lâu đời trong đời sống dân chúng. Ảnh hưởng của “Tam giáo” (Phật, Lăo, Khổng) tiềm tàng trong nền nếp sinh hoạt, trong ngôn ngữ dân gian. Thấm vào da thịt, luân lưu trong huyết quản người Việt chúng ta. Tam giáo có tiến tŕnh thâm nhập từ hàng ngàn năm. Lư nhân quả trong nhà Phật được chấp nhận như một tiền đề của nhiều quan niệm sống trong dân gian. Do đó, từ những nhân tố được thừa nhận là tốt đẹp dẫn đến thành tố tốt lành theo định luật nhân quả: Cây nào quả nấy, hay cha nào con nấy là điều tất nhiên.
Vậy th́ khái niệm vuông tṛn dựa trên cái ǵ để trở thành các yếu tố “cơ bản thiện” trong triết lư cũng như văn hóa Việt? Trước hết, tưởng không cần phải đi truy tầm đâu cho xa. Ta hăy lấy ngay những câu chuyện mô tả sinh hoạt văn hóa để t́m hiểu nguồn gốc những khái niệm cơ bản này. Chứng cứ đầu tiên có thể rút ra từ câu chuyện bánh chưng bánh dày. Sự tích mang tính lịch sử này rất nhiều người đă biết. Nó xuất phát từ câu chuyện một vị Vua Hùng, ḍng vua đầu tiên của giống Việt. Câu chuyện kể lại việc nhà vua “ra đề thi” cho các con để chọn người kế vị. Một trong những người con, vốn cảnh nhà đạm bạc, không có cao lương mỹ vị để dâng vua cha, nên mới sáng chế ra hai thứ bánh chưng bánh dày để làm quà dâng cha mẹ. Hai thứ bánh đơn sơ và đầy tính dân dă ấy đă được nhà vua nhiệt liệt khen ngợi tán thưởng. Và ông hoàng bé được vua cha truyền ngôi. Dĩ nhiên để được vua cha chấp nhận, ông hoàng con phải mặc cho hai món bánh đơn sơ ấy một ư nghĩa nào đó mà vua cha nghe chẳng những “lọt tai” mà c̣n đồng ư là nó mang một ư nghĩa cao đẹp tuyệt vời mới mong được thừa nhận và truyền ngôi cho.
Ai cũng biết, bánh chưng có h́nh vuông, bánh dày h́nh tṛn. Bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời. Theo quan niệm cổ, từ Đông sang Tây, người ta vẫn tin rằng trái đất là một phiến phẳng h́nh vuông. C̣n trời là một cái quả tṛn rỗng như cái chuông chụp lên cái phiến đất h́nh vuông, trong đó vạn vật gồm cả con người sinh sống. Theo quan niệm đó, khi ta đi bộ hay đi thuyền, nếu cứ đi măi, có lúc người ta sẽ tới cùng trời cuối đất và rơi vào khoảng không vô tận. Trời đất là hai khái niệm đầu tiên về thế giới quan.
Chẳng những thế, trời đất c̣n mang ư nghĩa của nguồn gốc sự sống, sinh vật. Những câu nói như “Trời đất sinh ra ta”, “Ông Trời” vừa nhân cách hóa hai thực thể tự nhiên vừa hàm ư giải thích nguồn cội con người. Trời là cha, Đất là mẹ. Gặp nguy biến, lúc đau khổ người ta nghĩ đến hai đấng sinh thành. Họ kêu lên “Trời đất ơi!” Hoặc đôi khi cả Trời đất lẫn cha mẹ “Trời đất cha mẹ ơi!” Trong vũ trụ quan của người Á Đông, khái niệm vuông tṛn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, bao giờ cũng là những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Ngoài những đường thẳng cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa những đường cong, những ṿng tṛn vào, để tạo nên một tổng thể hài ḥa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong, cái cửa sổ tṛn. Trong kiến trúc Tây phương ít khi ta gặp những đường nét tṛn như thế. Nhà cửa theo kiến trúc Tây phương phần lớn có dạng h́nh hộp là vậy. Dưới thời phong kiến, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn chẳng hạn có h́nh dáng mang ư nghĩa của càn khôn. Đồng tiền kẽm h́nh tṛn, chính giữa có cái lỗ h́nh vuông, bốn góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi cạnh h́nh vuông. Cái lỗ vuông là để người ta xỏ dây xâu thành từng xâu khi cất giữ hoặc mang trong người cho tiện. Mua bán ǵ th́ cởi đầu dây, lấy ra từng đồng mà chi trả. Khi thiết kế mẫu tiền có thể người ta đă gửi gấm vào h́nh thể đồng tiền cái ngụ ư công ơn của triều đ́nh, tức như cha mẹ, đối với thần dân. Quan đă là cha mẹ dân rồi, nói chi vua. Hoàng hậu được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, và hai tiếng “con dân” chẳng phải hàm cái ư đó sao? Ngoài ra, cái h́nh thể vuông tṛn c̣n chứa đựng sự mong muốn chúc tụng vương triều sẽ trường cửu như trời đất.
Trong mắt một người b́nh thường không có ǵ tốt đẹp hoàn hảo hơn cha và mẹ. Trời đất ngoài khái niệm là cha mẹ, c̣n mang ư nghĩa lâu bền vĩnh cửu, hoặc rộng lớn phong phú dồi dào vô kể.
Những câu nói như “Công ơn cha mẹ như trời như biển”, “Sống lâu cùng trời đất” v.v... Chứng minh điều đó. Trời đất thường đi đôi với nhau, kết hợp thành một khái niệm thiện, tốt lành, trường cửu. Từ khái niệm “Trời Đất” trở ngược lại khái niệm “vuông tṛn” phải chăng người ta muốn làm cho cái khái niệm trên trở thành gần gũi với cuộc sống hơn.
Từ khái niệm vuông tṛn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tṛn của Âm Dương có một sự khác biệt: tṛn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương tính. Điều này sẽ được chứng minh bằng những thí dụ tiếp sau đây. Tuy nhiên, sự kết hợp hài ḥa giữa Âm Dương bao giờ cũng được xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp. Một khái niệm thiện. Hăy lấy một thí dụ, câu tục ngữ “Đầu tṛn gót vuông”. Theo quan niệm trong Đông y, cơ thể con người ta nửa phần trên, tận cùng bằng cái đầu mang tính Âm (đầu tṛn). Phần dưới tận cùng bằng đôi chân (gót vuông), mang tính Dương. Khi một người bị bệnh, thày thuốc sờ đầu sờ chân, thấy đầu mát (Âm), chân ấm (Dương) là thuận Âm Dương, không có ǵ phải ngại. Nếu ngược lại là không ổn. Các thày thuốc cũng khuyên nên luôn luôn giữ cho cái đầu mát và đôi chân ấm th́ sẽ được khỏe mạnh.
Chỉ một trong hai cái ấy không tạo được hiệu ứng tương tự. Vuông đứng một ḿnh chỉ là vuông. Tṛn đi một ḿnh chỉ là tṛn. Nhưng “vuông tṛn” sẽ tạo nên khái niệm trời đất, Âm Dương hài ḥa, mang tính “Thiện”, hảo hợp và trường cửu. Khi nói “mẹ tṛn con vuông” là người ta muốn nói một kết quả tốt đẹp. Chứ mẹ đâu có tṛn. Trong thời gian đang mang bầu th́ c̣n cái bụng tṛn. Nhưng sau khi sanh rồi đâu c̣n tṛn nữa. C̣n con th́ nhất định không thể vuông được. Trên thực tế, nếu một sản phụ không may đẻ ra một đứa trẻ có h́nh dạng thực sự vuông là điều thậm vô phúc. Cả mẹ lẫn con sẽ trở thành đề tài thời sự ngay.
Thử h́nh dung ra t́nh cảnh của hai trường hợp sinh đẻ. Nếu bác sĩ ra báo cho ông bố bằng câu sau đây: “Bà nhà sanh rồi. Mẹ tṛn con vuông. Chúc mừng ông” th́ là b́nh thường. Nhưng nếu câu nói chỉ thiếu đi một chút xíu thôi: “Xin báo cho ông rơ. Bà nhà sinh rồi. Đứa trẻ vuông”. Chắc có lẽ ông bố sẽ choáng váng mặt mày, xỉu liền tại chỗ.
Chẳng hạn như trong câu nói sau đây: “Anh chị tính sao th́ tính. Miễn sao mọi sự vuông tṛn là được.” Câu nói hàm ư miễn sao kết quả tốt đẹp, không có ǵ trục trặc, điều tiếng là được.
Hăy lấy một câu khác: “Trăm năm tính chuyện vuông tṛn”, “Chuyện vuông tṛn” là chuyện lứa đôi, chuyện âm dương kết hợp để tồn tại và tiếp nối ḍng sinh hóa.
Có âm dương, có vợ chồng
Dẫu rằng thiên địa cũng ṿng phu thê
Hoặc:
Đấy mà xử ngăi (nghĩa) vuông tṛn
Ngàn năm ly biệt vẫn c̣n đợi trông (Ca dao)
“Ngăi vuông tṛn” là nghĩa vợ chồng, nghĩa thủy chung.
Đó là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Ngoài khái niệm vuông tṛn là đất trời, là mẹ cha, là trường cửu. Như trên đă viết, khái niệm vuông tṛn c̣n là âm dương, nam nữ, vợ chồng. Chỉ khác một điều là trong sự tích bánh chưng bánh dày, nếu trời có h́nh ảnh tượng trưng là tṛn, đất có h́nh vuông. Th́ trong quan niệm về hai giới tính nam nữ, đực cái, âm dương, vuông lại thường tiêu biểu cho nam tính, và tṛn tiêu biểu cho nữ tính.
Phụ nữ thân thể phải tṛn trịa, chứa đựng nhiều đường cong mới đẹp, mới tiêu biểu cho nữ tính. Đàn bà con gái mặt mũi người ngợm nhiều nét gẫy, nhiều góc vuông quá đương nhiên trông không hấp dẫn tí nào, chưa nói là rất thô. Một thân thể như thế thường xương nhiều thịt ít. Nếu không to xương th́ cũng quá gầy. Ḿnh hạc cũng được nhưng phải xương mai. C̣n những chỗ khác đặc biệt trời dành riêng cho nữ giới như một thứ vũ khí dùng để chinh phục nam giới th́ dứt khoát là phải tṛn. Nếu không phải là một ṿng tṛn khép kín như đôi g̣ bồng đảo, mà trong văn chương có khi được ví von như cặp dừa xiêm, hai trái bưởi, hoặc trái banh v.v... th́ cũng phải là một phần của ṿng tṛn. Những đường cong. Chứ không được gẫy. Hăy nh́n những cô người mẫu th́ biết. Cô nào cô nấy ốm tong ốm teo, nhưng ngực và mông th́ cứ ngồn ngộn. C̣n đối với các bà các cô b́nh thường, ai có sẵn, nhưng không nhiều, th́ dùng thủ thuật đùn lên cho cao, mà mắt thiên hạ. Nếu chẳng may không có th́ mượn cái ở ngoài đưa vào cho có. Khi làm như thế chẳng qua họ chỉ muốn khẳng định cái nữ tính của ḿnh mà thôi. Chẳng có ǵ khiến các ông phải phàn nàn việc các bà đi đến các mỹ viện giải phẫu thẩm mỹ..
Khuôn mặt của Thúy Vân trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, cho dẫu không đẹp lắm, nhưng phúc hậu. Trong khoa tướng số, phúc hậu cũng là một khía cạnh đẹp của phụ nữ. Khuôn mặt tṛn có thể không đẹp bằng khuôn mặt trái xoan, nhưng phúc hậu. Vẻ đẹp của phụ nữ có nhiều loại; đẹp lộng lẫy, đẹp sắc xảo, đẹp phúc hậu. Đẹp phúc hậu là vẻ đẹp vượng phu ích tử (chồng con nhờ đó mà phất lên). Muốn biết rành về chuyện này, phải đọc cụ Vũ Tài Lục. Đàn bà mặt mũi gồ ghề chẳng những không có vẻ hiền hậu thùy mị, mà c̣n bị xem như khuôn mặt khắc sát (chồng con). Cho nên mặc dù Thúy Kiều đẹp hơn em, nhưng Thúy Vân cũng không kém là bao. Ở chỗ: “Kiều càng sắc xảo mặn mà”, tuy so với Thúy Vân: “So bề tài sắc lại là phần hơn.” Kiều đẹp hơn. V́ nàng có nhân dáng của một cô “mô đồ” ngày nay, “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Đành rằng thế. Nhưng so ra Thúy Vân không kém chị nhiều lắm. V́ thi hào đă khẳng định “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Ngược lại, nét vuông trên thân thể đàn ông lại được xem như ưu điểm. Mặt vuông chữ điền là bảnh trai. Đàn ông miệng vuông là kẻ thét ra quyền uy. Nếu đàn bà mặt mũi thân h́nh gồ ghề là không tốt th́ ở đàn ông lại là một nét hấp dẫn. Đàn ông không cần có khuôn mặt phúc hậu, mà cần “gồ ghề”; tức nhiều nét vuông. Từ mặt cho đến vai. Đàn bà mặt tṛn, cổ tṛn, đôi g̣ bồng đảo, mông miếc ǵ cũng phải tṛn trịa th́ mới hấp dẫn. Ngược lại, đàn ông hấp dẫn phải có một bộ ngực vạm vỡ, nhưng khuôn ngực phải vuông, mới ngầu. Đàn ông mà ngực cũng tṛn trịa như đàn bà th́ trông bẩn lắm. Đàn ông to vú chẳng khác ǵ đàn bà rậm râu. Đó là một chứng trạng cho thấy anh đàn ông phát triển bất b́nh thường, cơ thể nhiều chất oestrogen (Kích thích tố nữ). C̣n nếu không, th́ cũng là một anh chàng bệu, lười luyện tập. Vai u thịt bắp nếu không phải ưu điểm tuyệt đối của đàn ông con trai th́ nó cũng hứa hẹn anh ta nhiều khả năng bảo vệ phụ nữ khi cần.
Tả người phụ nữ, các nhà văn thường cho nàng những đường nét tṛn trịa. Nhưng một anh đàn ông tṛn trịa rất nhiều khi chỉ gợi ra cái ư niệm mập béo ph́ nộn mà thôi.
“Có mực anh t́nh phụ son,
Có kẻ đẹp tṛn, anh phụ người duyên”
(Ca dao)
Người Á đông nói chung, người Nhật nói riêng, họ thấu hiểu được vẻ hấp dẫn của những đường cong nên từ những đường nét trong kiến trúc, trang trí đến h́nh dáng các vật dụng họ sử dụng khá nhiều những đường cong. Chiếc xe hơi của Nhật ngoài ưu điểm máy móc bền, tốt c̣n một điểm khác hấp dẫn người mua, nhất là dân châu Á, đó là cái h́nh dáng thon thả nhiều đường cong hơn nét gẫy của nó. Ta gọi cái xe, với tiếng “cái” đi trước; hẳn cũng hàm cái ư giống cái của nó. Cũng có khi xe được gọi là “con” như “con xe” trong bàn cờ tướng (Thí con chốt, hốt con xe, chẳng hạn). Nhưng khi xe được gọi với tiếng “con” th́ lại khác. Đó là một thứ xe để ra trận đánh nhau. Mà nói đến trận mạc là nói đến đàn ông con trai, nói đến cái dương tính của nó.
Ngày chưa mất nước, những chiếc xe hơi đầu tiên lắp ráp ở Việt Nam là chiếc xe La Dalat. Có thể nói người thiết kế h́nh dáng chiếc xe kém về khoa thẩm mỹ. Nghe nói công ty gốc là hăng Citroen, cung cấp máy móc. C̣n phần thân xe làm tại Việt Nam. Nh́n chiếc xe La Dalat thấy không mấy cảm t́nh, v́ cái dáng thô kệch, nhiều nét gẫy tạo ra những góc vuông, rất ít đường cong của nó.
Ở một khía cạnh khác, tṛn c̣n mang ư nghĩa là trọn vẹn, đầy đủ.
“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một ḷng thờ mẹ kính cha
Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con”
Tṛn đây chính là trọn vẹn, đầy đủ. Làm tṛn bổn phận vừa là cách nói trại, vừa hàm cái ư trọn vẹn.
Người viết thủa trước vốn từng có thời khoác áo lính. Nên tiện đây cũng xin ghi lại những chiêm nghiệm thực tiễn về những nét gẫy, những h́nh thể vuông vức góc cạnh tiêu biểu cho tính cách mạnh mẽ của nam giới. Những vị nào từng xuất thân từ các quân trường đào tạo sĩ quan như Trường Vơ Bị Đà-Lạt, Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, Trường Thủ Đức v.v... đều biết. Ở giai đoạn sơ khởi gọi là “Thời kỳ huấn nhục”, hay thời kỳ “Tân khóa sinh”, tại các quân trường kể trên người ta áp dụng một lề lối sinh hoạt tạm gọi là “sinh hoạt vuông góc” để đào luyện người thanh niên dân sự trở thành một người lính với nam tính mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, ngoài những huấn luyện về thể chất, về nghệ thuật lănh đạo chỉ huy, về đạo đức chiến tranh, người thanh niên được rèn luyện một cung cách sống “vuông góc”. Đi đứng vuông góc, ngồi vuông góc. Thậm chí đưa chén cơm lên miệng ăn cũng phải theo một động tác vuông góc. Mọi sắp xếp trong pḥng người Tân khóa sinh, từ gối chăn, áo quần, sách vở đều phải theo một lề lối chặt chẽ về vuông góc.
Để làm ǵ vậy? Mục đích của sự rèn luyện trên chính là để dần dần từng bước biến đổi phong cách ẻo lả yếu ớt của một con người dân sự trở thành một nhân dáng đàn ông đích thực. Tạo ra những góc cạnh vuông vức trên thân thể và cả trong tâm hồn người sĩ quan tương lai. Những phần thân thể bọc đầy mỡ tṛn trịa dần dần biến đi để thay vào đó những đường nét góc cạnh. Chân tay, ngực vai đều trở thành vuông vắn. Cằm bạnh ra (kết quả của động tác gặp cằm), mái tóc hớt theo kiểu “bàn chải” tạo thành khuôn mặt vuông chữ điền (tương đối). Những nét vuông đó tạo cho người thanh niên vẻ cứng cát, mạnh bạo, dứt khoát, đầy dương tính. Những nhân dáng “vuông góc” đó có sức hút rất mạnh đối với các nhân dáng tṛn trịa nhiều đường cong của nữ giới. Âm dương đối cực hút lẫn nhau.
“Trai khôn t́m vợ chợ đông,
Gái khôn t́m chồng giữa chốn ba quân” là thế.
Tóm lại, nếu không hiểu được, không có được cái nhăn quan tổng hợp của triết lư Đông phương, sẽ khó mà thâm cảm được cái “khái niệm vuông tṛn” trong ngôn ngữ và văn hóa Việt.
Đi từ cái khái niệm sơ khởi về trời đất, đến quan niệm về Âm dương đối đăi, hàm chứa dung nạp lẫn nhau, sau cùng dẫn đến một khái niệm rốt ráo về một trật tự tự nhiên. Từ đó khái niệm vuông tṛn mới có thể hàm chứa một sự kết hợp tốt đẹp, đó chính là cái khái niệm “Thiện” đầu tiên (bổn thiện) vậy.
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.