PinaColada
02-16-2018, 22:50
Trong lịch sử phát triển của tự nhiên có rất nhiềubí ẩn không thể giải thích nổi. Nó cứ tồn tại theo năm tháng với biết bao điều huyền bí. Cái giếng không bao giờ cạn ở xứ Mường là một ví dụ.
Không biết từ bao giờ người dân xứ Mường bản địa ở Thanh Hóa, gọi đôi giếng làng là giếng “thần” và có một câu chuyện ḱ bí được truyền miệng qua bao đời về sự h́nh thành của đôi giếng thần bí này.
Tại làng Chiềng, xă Cẩm Quư, huyện Cẩm Thủy – Thanh Hóa, người dân vẫn truyền tai nhau về câu chuyện đượm màu huyền bí về sự tích một con rắn bảo ơn người nuôi của ḿnh bằng một đôi giếng với nguồn nước trong xanh, ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè và không bao giờ cạn. Từ đó, dân làng thoát khỏi cảnh khô hạn, mất mùa có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, đôi giếng này được gọi là giếng thần, giếng tiên hay giếng thần Nam – Nữ.
Từ lâu lắm, dưới chân núi Ái Nàng của làng Chiềng xă Cẩm Qúy xuất hiện đôi giếng nước trong xanh, xung quang đôi giếng có 4 cây sanh cổ thụ buông những chiếc rễ lớn cắm sâu xuống ḷng đất, tựa như những con măng xà khổng lồ che chở, bảo vệ cho đôi giếng.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1176555&stc=1&d=1518821255
Nguồn nước trong giếng quanh năm xanh mát.
Theo các cụ cao niên trong làng th́ không biết giếng có từ bao giờ chỉ nghe người đời truyền tai câu chuyện về chàng rắn báo ơn dân làng, báo ơn người đă nuôi rắn khôn lớn.
Tương truyền rằng thủa ấy ở làng Chiềng có một người đàn ông tên là Cao Thuật sống bằng nghề chài lưới. Một ngày nọ ông ra cánh đồng Rộc Sú đi xúc tôm, xúc tép ở ven suối th́ xúc được một quả trứng to bằng quả trứng ngan, ông nghĩ quả trứng này không c̣n ăn được nữa liền vứt nó đi. Lạ thay, khi đă vứt đi xa nhưng tiếp tục xúc th́ lại được quả trứng ấy. Thấy vậy, ông đă đem quả trứng về nhà cho gà ấp. Khoảng hơn 1 tháng sau, bổng nhiên trời đang b́nh thường bổng tối sầm, mưa gió giật đùng đùng, rồi ông nghe tiếng gà mẹ kêu thất thanh, chạy xuống chuồng gà, ông liền thấy một con rắn trắng tinh đang nằm trong ổ gà.
Tưởng rắn ở đâu đến bắt gà, ông đă t́m cách xua đuổi và ném con rắn đi xa, nhưng khi về đến nhà ông lại thấy nó ở trước cửa nhà. Bao lần vứt bỏ con rắn không thành, biết có điềm lạ ông liền để con rắn lại nuôi. Hằng ngày, ông thường gọi rắn bằng con và xưng bố. Chẳng bao lâu, con rắn lớn nhanh, mỗi ngày một to c̣n ông mỗi ngày một già, không thể đủ sức nuôi rắn nữa và v́ dân làng thấy con rắn to ở trong làng sợ quá nên nhiều lần bảo ông giết nó đi. Không nỡ giết, ông liền đi t́m chỗ cho rắn ở. Ông mang rắn đến vực Cả (sông Mă ngày nay), nhưng rắn không đồng ư, ông lăo lại vượt rừng lội suối mang chàng rắn đến 1 nơi cách làng 7 km là vực Ngang (sông Bưởi ngày nay) th́ rắn đă gật đầu đồng ư.
Rồi ông lăo dặn ḍ ở đây đừng vào quấy phá dân làng xung quang và ra về. Từ lúc chàng rắn ra đi, người dân ở Chiềng Voong (làng Chiềng ngày nay) bị một trận hạn hán nặng kéo dài, nhiều người trong làng chết đói, chết khát v́ không có nước uống và canh tác.
Thấy dân làng nơi người nuôi dưỡng ḿnh gặp nạn, để trả ơn rắn đă đào một đường dẫn nước dưới ḷng đất từ vực Ngang về làng, nhưng 2 lần đều đào sai hướng. Lần cuối cùng chàng rắn leo lên đỉnh ngọn núi Ái Nàng ngắm nh́n rồi đào một đường ngầm về đúng giữa làng, rồi dùng đầu mổ 2 phát xuống đất tạo thành hai giếng nước.Từ đó, dân làng Chiềng đă thoát khỏi cảnh mất mùa v́ hạn hán, cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho bản làng. Cũng từ đó, chẳng c̣n ai thấy rắn đâu cả và 2 giếng nước này cũng không bao giờ cạn nước.
Có một điều kỳ lạ là các t́nh tiết của câu chuyện chàng rắn khi ứng với thực tế lại khớp nhau đến ngỡ ngàng, như chuyện 2 lần đào đường dẫn nước vào làng Chiềng Voong không đúng, th́ hiện nay quanh làng vẫn có 2 mó nước rất sâu và trong xanh.
Hay chuyện khi rắn ngồi trên một tảng đá xanh ở trên đỉnh Ái Nàng để đào đường dẫn nước về làng, th́ hiện nay trên đó đang có một mó nước trong xanh và cũng không bao giờ cạn. “Dù mó nước ấy chỉ to bằng cái mũ cối, nằm trên tảng đá nhưng dù tát bao nhiêu th́ nó cũng không hết được nước, v́ cứ vơi th́ nước trong đá rỉ ra một lúc lại đầy” – anh Quách Văn Nhất, người dân làng Chiềng cho hay.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1176556&stc=1&d=1518821255
Hai giếng nước tiên được bao bọc bởi 4 cây sanh khổng lồ.
Cũng theo người dân trong làng th́ dù trời có mưa gió triền miên th́ 2 giếng nước này không bao giờ cao hơn, cũng không thấp hơn và không bị đục. Chỉ có duy nhất khi nào nước sông Bưởi đục th́ giếng nước đục, nước cạn th́ giếng nước hơi với đi một ít.
Từ những câu chuyện được truyền tai nhau qua bao nhiêu thế hệ mà đến nay, người dân làng Chiềng rất quư trọng 2 giếng nước này. Hằng năm cứ vào dịp đêm giao thừa, cả làng Chiềng lại tụ tập quanh giếng đốt lửa, hát ḥ, nhảy múa.
Đúng thời khắc giao thừa, người cao niên nhất trong làng dâng mâm xôi con gà cúng “giếng thần”. Lễ cúng kết thúc, lộc được chia đều cho tất cả những người có mặt. Sau đó người dân lấy một ít nước từ đôi “giếng thần nam nữ” mang về nhà cúng để cầu sức khỏe, làm ăn thuận buồn xuôi gió.
Không biết từ bao giờ người dân xứ Mường bản địa ở Thanh Hóa, gọi đôi giếng làng là giếng “thần” và có một câu chuyện ḱ bí được truyền miệng qua bao đời về sự h́nh thành của đôi giếng thần bí này.
Tại làng Chiềng, xă Cẩm Quư, huyện Cẩm Thủy – Thanh Hóa, người dân vẫn truyền tai nhau về câu chuyện đượm màu huyền bí về sự tích một con rắn bảo ơn người nuôi của ḿnh bằng một đôi giếng với nguồn nước trong xanh, ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè và không bao giờ cạn. Từ đó, dân làng thoát khỏi cảnh khô hạn, mất mùa có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, đôi giếng này được gọi là giếng thần, giếng tiên hay giếng thần Nam – Nữ.
Từ lâu lắm, dưới chân núi Ái Nàng của làng Chiềng xă Cẩm Qúy xuất hiện đôi giếng nước trong xanh, xung quang đôi giếng có 4 cây sanh cổ thụ buông những chiếc rễ lớn cắm sâu xuống ḷng đất, tựa như những con măng xà khổng lồ che chở, bảo vệ cho đôi giếng.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1176555&stc=1&d=1518821255
Nguồn nước trong giếng quanh năm xanh mát.
Theo các cụ cao niên trong làng th́ không biết giếng có từ bao giờ chỉ nghe người đời truyền tai câu chuyện về chàng rắn báo ơn dân làng, báo ơn người đă nuôi rắn khôn lớn.
Tương truyền rằng thủa ấy ở làng Chiềng có một người đàn ông tên là Cao Thuật sống bằng nghề chài lưới. Một ngày nọ ông ra cánh đồng Rộc Sú đi xúc tôm, xúc tép ở ven suối th́ xúc được một quả trứng to bằng quả trứng ngan, ông nghĩ quả trứng này không c̣n ăn được nữa liền vứt nó đi. Lạ thay, khi đă vứt đi xa nhưng tiếp tục xúc th́ lại được quả trứng ấy. Thấy vậy, ông đă đem quả trứng về nhà cho gà ấp. Khoảng hơn 1 tháng sau, bổng nhiên trời đang b́nh thường bổng tối sầm, mưa gió giật đùng đùng, rồi ông nghe tiếng gà mẹ kêu thất thanh, chạy xuống chuồng gà, ông liền thấy một con rắn trắng tinh đang nằm trong ổ gà.
Tưởng rắn ở đâu đến bắt gà, ông đă t́m cách xua đuổi và ném con rắn đi xa, nhưng khi về đến nhà ông lại thấy nó ở trước cửa nhà. Bao lần vứt bỏ con rắn không thành, biết có điềm lạ ông liền để con rắn lại nuôi. Hằng ngày, ông thường gọi rắn bằng con và xưng bố. Chẳng bao lâu, con rắn lớn nhanh, mỗi ngày một to c̣n ông mỗi ngày một già, không thể đủ sức nuôi rắn nữa và v́ dân làng thấy con rắn to ở trong làng sợ quá nên nhiều lần bảo ông giết nó đi. Không nỡ giết, ông liền đi t́m chỗ cho rắn ở. Ông mang rắn đến vực Cả (sông Mă ngày nay), nhưng rắn không đồng ư, ông lăo lại vượt rừng lội suối mang chàng rắn đến 1 nơi cách làng 7 km là vực Ngang (sông Bưởi ngày nay) th́ rắn đă gật đầu đồng ư.
Rồi ông lăo dặn ḍ ở đây đừng vào quấy phá dân làng xung quang và ra về. Từ lúc chàng rắn ra đi, người dân ở Chiềng Voong (làng Chiềng ngày nay) bị một trận hạn hán nặng kéo dài, nhiều người trong làng chết đói, chết khát v́ không có nước uống và canh tác.
Thấy dân làng nơi người nuôi dưỡng ḿnh gặp nạn, để trả ơn rắn đă đào một đường dẫn nước dưới ḷng đất từ vực Ngang về làng, nhưng 2 lần đều đào sai hướng. Lần cuối cùng chàng rắn leo lên đỉnh ngọn núi Ái Nàng ngắm nh́n rồi đào một đường ngầm về đúng giữa làng, rồi dùng đầu mổ 2 phát xuống đất tạo thành hai giếng nước.Từ đó, dân làng Chiềng đă thoát khỏi cảnh mất mùa v́ hạn hán, cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho bản làng. Cũng từ đó, chẳng c̣n ai thấy rắn đâu cả và 2 giếng nước này cũng không bao giờ cạn nước.
Có một điều kỳ lạ là các t́nh tiết của câu chuyện chàng rắn khi ứng với thực tế lại khớp nhau đến ngỡ ngàng, như chuyện 2 lần đào đường dẫn nước vào làng Chiềng Voong không đúng, th́ hiện nay quanh làng vẫn có 2 mó nước rất sâu và trong xanh.
Hay chuyện khi rắn ngồi trên một tảng đá xanh ở trên đỉnh Ái Nàng để đào đường dẫn nước về làng, th́ hiện nay trên đó đang có một mó nước trong xanh và cũng không bao giờ cạn. “Dù mó nước ấy chỉ to bằng cái mũ cối, nằm trên tảng đá nhưng dù tát bao nhiêu th́ nó cũng không hết được nước, v́ cứ vơi th́ nước trong đá rỉ ra một lúc lại đầy” – anh Quách Văn Nhất, người dân làng Chiềng cho hay.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1176556&stc=1&d=1518821255
Hai giếng nước tiên được bao bọc bởi 4 cây sanh khổng lồ.
Cũng theo người dân trong làng th́ dù trời có mưa gió triền miên th́ 2 giếng nước này không bao giờ cao hơn, cũng không thấp hơn và không bị đục. Chỉ có duy nhất khi nào nước sông Bưởi đục th́ giếng nước đục, nước cạn th́ giếng nước hơi với đi một ít.
Từ những câu chuyện được truyền tai nhau qua bao nhiêu thế hệ mà đến nay, người dân làng Chiềng rất quư trọng 2 giếng nước này. Hằng năm cứ vào dịp đêm giao thừa, cả làng Chiềng lại tụ tập quanh giếng đốt lửa, hát ḥ, nhảy múa.
Đúng thời khắc giao thừa, người cao niên nhất trong làng dâng mâm xôi con gà cúng “giếng thần”. Lễ cúng kết thúc, lộc được chia đều cho tất cả những người có mặt. Sau đó người dân lấy một ít nước từ đôi “giếng thần nam nữ” mang về nhà cúng để cầu sức khỏe, làm ăn thuận buồn xuôi gió.