june04
06-02-2018, 04:10
V́ sao ṭa tối cao Mỹ không cho quay phim, chụp ảnh phiên ṭa? Lư do sẽ được vietbf chia sẻ dưới đây. Theo thẩm phán, lời khai của người liên quan đến vụ án có thể bị tác động và ảnh hưởng.
Theo Uscourts, trang web chính thức của Ṭa án Tối cao Liên bang Mỹ, trong lịch sử hoạt động ṭa này chưa bao giờ cho phép máy ảnh hoặc máy quay xuất hiện trong pḥng xử án để ghi h́nh thủ tục tố tụng. Cơ sở pháp lư của việc này bắt nguồn từ quy định của liên bang.
Ṭa Tối cao Liên bang giải thích rằng sự hiện diện của máy quay phim sẽ tác động tới cách cư xử, tâm lư của những người ở phiên xét xử. Ví dụ, nhân chứng sẽ căng thẳng hơn, bị đơn cố đóng kịch để lấy ḷng thương cảm. Đặc biệt, các bên đương sự c̣n có thể biến ṭa án thành nơi "biểu diễn" và sẽ đạt được mục địch nhờ vào hiệu quả của truyền thông.
Ngoài ra, việc ghi h́nh c̣n bị cho rằng có thể xâm phạm tới sự riêng tư của bị cáo, nạn nhân và nhân chứng. Điều này đặc biệt quan trọng trong những vụ án xâm hại t́nh dục hoặc liên quan tới trẻ em.
Ṭa Tối cao cũng lo ngại xảy ra sai sót trong quá tŕnh phát sóng hoặc có hành vi cố ư xuyên tạc diễn biến tại ṭa, từ đó ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống tư pháp.
Năm 1972, Hội đồng thẩm phán Mỹ ban bố lệnh cấm với hành vi “phát sóng, truyền h́nh, thu âm, hoặc chụp ảnh trong pḥng xử án”. Điều này được chính thức ghi nhận trong Bộ quy tắc Ứng xử của Thẩm phán Mỹ và được áp dụng cho cả vụ án h́nh sự và vụ việc dân sự.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1227325&stc=1&d=1527912793
Kư họa cảnh luật sư hỏi nhân chứng. Ảnh: BBC
Dù bị cấm ở ṭa Tối cao, song trong những năm 1990, Hội đồng thẩm phán đă thí điểm ghi h́nh phiên ṭa ở các ṭa án Liên bang cấp quận (trên cấp quận là ṭa phúc thẩm Liên bang, cao nhất là ṭa Tối cao Liên bang).
Sau kết quả thí điểm khá thành công và cũng sau nhiều lần đệ tŕnh, năm 2009, một đạo luật đă được thông qua trao cho thẩm phán ṭa phúc thẩm hoặc ṭa cấp quận quyền cho phép chụp ảnh, thu âm kĩ thuật số hoặc phát sóng diễn biến phiên xét xử trước công chúng trong những vụ việc thuộc thẩm quyền của thẩm phán đó.
Dù vậy, cánh cửa của ṭa Tối cao Liên bang vẫn đóng kín với việc chụp ảnh và quay phim. Những năm gần đây, một số thành viên của Nghị viện và cả giới truyền thông đă đề xuất ṭa cho phép phát sóng diễn biến phiên xét xử song đều bị từ chối.
Làm sao để biết được những ǵ diễn ra trong phiên xét xử?
Hàng trăm năm nay, những bức kư họa bằng bút ch́ hoặc sáp màu đă hé mở cho báo chí và công chúng một khung cửa sổ dẫn tới căn pḥng của công lư. Trong giai đoạn đầu đưa tin về diễn biến ở ṭa án, nhu cầu đó được thỏa măn với sự xuất hiện của những họa sĩ kư họa tại ṭa.
Công việc của họ là nắm bắt được những khoảnh khắc then chốt trong phiên ṭa, bao gồm biểu cảm, cảm xúc và ngôn ngữ cơ thể của nhân vật. Các họa sĩ phải làm việc trong môi trường trang nghiêm của ṭa án, chỉ cần sơ sảy gây mất trật tự trong pḥng xử án có thể bị đuổi ra ngoài, thậm chí bị kết tội “khinh miệt ṭa án”. Đôi khi nhân chứng chỉ xuất hiện trước ṭa trong năm phút ngắn ngủi và người họa sĩ sẽ phải ghi nhớ chi tiết khuôn mặt để vẽ lại sau khi phiên ṭa kết thúc.
Tùy vào từng vụ việc, họa sĩ phải cho ra 3-6 bức kư họa trong mỗi phiên xét xử. Với những vụ việc thu hút nhiều người tham dự, nếu tới muộn, họa sĩ có thể c̣n phải đứng ở cuối pḥng để vẽ dù góc quan sát bị hạn chế.
Trước kia, công việc này là một nguồn thu nhập khá cho người họa sĩ kư họa tài năng v́ những bức vẽ của họ là mối nối duy nhất giữa phiên ṭa và công chúng. Nhiều đài truyền h́nh phải liên hệ với họ để mua bản quyền và để được đăng ảnh trên báo chí, thậm chí cả luật sư và thẩm phán cũng mua tranh của chính ḿnh trên phiên ṭa để giữ lại làm kỷ niệm. Nhưng giờ đây, khi công nghệ dần bước chân vào pḥng xử án, nhu cầu với họa sĩ kư họa cũng giảm dần.
Theo Uscourts, trang web chính thức của Ṭa án Tối cao Liên bang Mỹ, trong lịch sử hoạt động ṭa này chưa bao giờ cho phép máy ảnh hoặc máy quay xuất hiện trong pḥng xử án để ghi h́nh thủ tục tố tụng. Cơ sở pháp lư của việc này bắt nguồn từ quy định của liên bang.
Ṭa Tối cao Liên bang giải thích rằng sự hiện diện của máy quay phim sẽ tác động tới cách cư xử, tâm lư của những người ở phiên xét xử. Ví dụ, nhân chứng sẽ căng thẳng hơn, bị đơn cố đóng kịch để lấy ḷng thương cảm. Đặc biệt, các bên đương sự c̣n có thể biến ṭa án thành nơi "biểu diễn" và sẽ đạt được mục địch nhờ vào hiệu quả của truyền thông.
Ngoài ra, việc ghi h́nh c̣n bị cho rằng có thể xâm phạm tới sự riêng tư của bị cáo, nạn nhân và nhân chứng. Điều này đặc biệt quan trọng trong những vụ án xâm hại t́nh dục hoặc liên quan tới trẻ em.
Ṭa Tối cao cũng lo ngại xảy ra sai sót trong quá tŕnh phát sóng hoặc có hành vi cố ư xuyên tạc diễn biến tại ṭa, từ đó ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống tư pháp.
Năm 1972, Hội đồng thẩm phán Mỹ ban bố lệnh cấm với hành vi “phát sóng, truyền h́nh, thu âm, hoặc chụp ảnh trong pḥng xử án”. Điều này được chính thức ghi nhận trong Bộ quy tắc Ứng xử của Thẩm phán Mỹ và được áp dụng cho cả vụ án h́nh sự và vụ việc dân sự.
http://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1227325&stc=1&d=1527912793
Kư họa cảnh luật sư hỏi nhân chứng. Ảnh: BBC
Dù bị cấm ở ṭa Tối cao, song trong những năm 1990, Hội đồng thẩm phán đă thí điểm ghi h́nh phiên ṭa ở các ṭa án Liên bang cấp quận (trên cấp quận là ṭa phúc thẩm Liên bang, cao nhất là ṭa Tối cao Liên bang).
Sau kết quả thí điểm khá thành công và cũng sau nhiều lần đệ tŕnh, năm 2009, một đạo luật đă được thông qua trao cho thẩm phán ṭa phúc thẩm hoặc ṭa cấp quận quyền cho phép chụp ảnh, thu âm kĩ thuật số hoặc phát sóng diễn biến phiên xét xử trước công chúng trong những vụ việc thuộc thẩm quyền của thẩm phán đó.
Dù vậy, cánh cửa của ṭa Tối cao Liên bang vẫn đóng kín với việc chụp ảnh và quay phim. Những năm gần đây, một số thành viên của Nghị viện và cả giới truyền thông đă đề xuất ṭa cho phép phát sóng diễn biến phiên xét xử song đều bị từ chối.
Làm sao để biết được những ǵ diễn ra trong phiên xét xử?
Hàng trăm năm nay, những bức kư họa bằng bút ch́ hoặc sáp màu đă hé mở cho báo chí và công chúng một khung cửa sổ dẫn tới căn pḥng của công lư. Trong giai đoạn đầu đưa tin về diễn biến ở ṭa án, nhu cầu đó được thỏa măn với sự xuất hiện của những họa sĩ kư họa tại ṭa.
Công việc của họ là nắm bắt được những khoảnh khắc then chốt trong phiên ṭa, bao gồm biểu cảm, cảm xúc và ngôn ngữ cơ thể của nhân vật. Các họa sĩ phải làm việc trong môi trường trang nghiêm của ṭa án, chỉ cần sơ sảy gây mất trật tự trong pḥng xử án có thể bị đuổi ra ngoài, thậm chí bị kết tội “khinh miệt ṭa án”. Đôi khi nhân chứng chỉ xuất hiện trước ṭa trong năm phút ngắn ngủi và người họa sĩ sẽ phải ghi nhớ chi tiết khuôn mặt để vẽ lại sau khi phiên ṭa kết thúc.
Tùy vào từng vụ việc, họa sĩ phải cho ra 3-6 bức kư họa trong mỗi phiên xét xử. Với những vụ việc thu hút nhiều người tham dự, nếu tới muộn, họa sĩ có thể c̣n phải đứng ở cuối pḥng để vẽ dù góc quan sát bị hạn chế.
Trước kia, công việc này là một nguồn thu nhập khá cho người họa sĩ kư họa tài năng v́ những bức vẽ của họ là mối nối duy nhất giữa phiên ṭa và công chúng. Nhiều đài truyền h́nh phải liên hệ với họ để mua bản quyền và để được đăng ảnh trên báo chí, thậm chí cả luật sư và thẩm phán cũng mua tranh của chính ḿnh trên phiên ṭa để giữ lại làm kỷ niệm. Nhưng giờ đây, khi công nghệ dần bước chân vào pḥng xử án, nhu cầu với họa sĩ kư họa cũng giảm dần.