View Full Version : Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống th́ đă có hàng vạn năm trước Công nguyên
florida80
05-01-2019, 17:22
Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống th́ đă có hàng vạn năm trước Công nguyên, c̣n tính từ khi cơ cấu nhà nước được h́nh thành th́ mới khoảng từ năm 2879 TCN.
Các nhà khảo cổ đă t́m thấy các di tích chứng minh loài người đă từng sống tại Việt Nam từ thời đại đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ. Vào thời kỳ đồ đá mới, nền văn hóa Ḥa B́nh – Bắc Sơn tại vùng này đă phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước. Những người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng – Văn minh sông Hồng và sông Mă này đă khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đă tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xă.
Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ 7 TCN đă xuất hiện nhà nước đầu tiên của người Việt trên miền Bắc Việt Nam ngày nay, theo sử sách, đó là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Vua Hùng được nhiều người ghi nhận là quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt Nam, bắt đầu với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.[1]
Thời kỳ tiền sử
Bài chi tiết: Việt Nam thời tiền sử, văn hóa Tràng An, văn hóa Ngườm, và văn hóa Soi Nhụ
Lịch sử Việt Nam thời tiền sử (trước thời Hồng Bàng) chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ. Các truyền thuyết, dă sử đều có sau giai đoạn này.
Thời đại đồ đá
Bài chi tiết: Văn hóa Sơn Vi, Văn hóa Ḥa B́nh, và Văn hóa Bắc Sơn
Khu vực nay là Việt Nam đă có người ở từ thời kỳ đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đă t́m ra các dấu vết người thượng cổ cư ngụ tại hang Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), núi Đọ (Thanh Hóa), Thung Lang (Ninh B́nh) và Nga Sơn, Thanh Hóa cách đây hàng trăm ngh́n năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, Sumatra và Kalimantan của Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ. Người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi nhọn, ŕa lưỡi dọc, ŕa lưỡi ngang, nạo,... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ (mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xă hội loài người chưa h́nh thành.
Vào thời kỳ mà các nhà nghiên cứu gọi là Văn hóa Sơn Vi, những nhóm cư dân nguyên thủy tại đây đă sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng cách đây 11-23 ngh́n năm, cuối thế Canh Tân (Late Pleistocene).
Cách đây 15.000 – 18.000 năm trước, đây là thời kỳ nước biển xuống thấp. Đồng bằng Bắc Bộ bấy giờ kéo dài ra măi đến tận đảo Hải Nam và các khu vực khác. Về mặt địa chất học thời kỳ khoảng 15 ngh́n năm trước Công nguyên (cách đây khoảng 18 ngh́n năm) là thời kỳ cuối của kỷ băng hà, nước biển dâng cao dần đến khoảng năm 8.000 năm trước đây th́ đột ngột dâng cao khoảng 130m (tính từ tâm của kỷ băng hà là khu vực Bắc Mỹ). Nước biển ở lại suốt thời kỳ này cho đến và rút đi vào khoảng 5.500 năm trước đây. Ứng với thời kỳ này cùng với các di chỉ khảo cổ cho thấy nước biển đă ngập toàn bộ khu vực đồng bằng sông Hồng ngày nay đến tận Vĩnh Phúc trong suốt gần 3.000 năm.
Do chính đặc trưng về địa chất nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc bộ không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại có ở khoảng 8000 năm trước Công nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5.500 năm - 18.000 năm trước.
Sau thời kỳ văn hóa Sơn Vi là văn hóa Ḥa B́nh và Bắc Sơn, thuộc thời kỳ đồ đá mới. Văn hóa Ḥa B́nh được ghi nhận là cái nôi của nền văn minh lúa nước, xuất thân từ Đông Nam Á có niên đại trễ được t́m thấy vào khoảng 15000 năm trước đây. Do đặc trưng địa chất về hồng thủy nên có thể một phần sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Ḥa B́nh có thể đă chưa bao giờ được nhận ra và t́m thấy. Các nhà khảo cổ đă liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ đồ đá mới và đầu thời đại đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm trước Công nguyên).[2]
Thời đại đồ đồng đá
Bài chi tiết: Văn hóa Phùng Nguyên
Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. [cần dẫn nguồn] Phùng Nguyên là tên một làng ở xă Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên t́m ra các di chỉ của nền văn hóa này.
Thời đại đồ đồng
Bài chi tiết: Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa G̣ Mun
Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên, trước văn hóa G̣ Mun. Tên của nền văn hóa này đặt theo tên khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thời đại đồ sắt
Bài chi tiết: Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo
Đến khoảng năm 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mă và đồng bằng sông Hồng đă dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đă được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đă t́m thấy quan tài và lọ chôn h́nh thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen
florida80
05-01-2019, 17:26
Thời kỳ cổ đại (2879-111 TCN)
Kỷ Hồng Bàng (2879–258 TCN)
Nước Xích Quỷ
Bài chi tiết: Xích Quỷ
Theo một số sách cổ sử[3], các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mă ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của các tộc người Việt được h́nh thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đ́nh (Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay). Đến thời Xuân Thu–Chiến Quốc (thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tị nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lănh thổ, một số bộ tộc Việt bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng, lănh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đông[4].
Hiện không có chứng cứ khẳng định sự tồn tại của nước Xích Quỷ, nó chỉ mang tính huyền thoại giống như thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa. Nếu thực sự tồn tại Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) trong thời kỳ này th́ có thể nói đây chỉ là một kiểu liên minh các bộ tộc lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quư Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam[5]... Các nhóm tộc Việt này có nhiều điểm khác nhau về ngôn ngữ, tập quán và địa bàn cư trú, quan hệ giữa các tộc này chủ yếu là trao đổi buôn bán chứ không có một nhà nước thống nhất.
Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan ră của nhà nước liên minh của các tộc người Việt; từ thế kỷ VIII trước Công nguyên trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đă h́nh thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như thời kỳ như: Nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,... Các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế Hán khoảng thế kỷ I TCN các nhà nước Việt đều bị thôn tính[6].
Nước Văn Lang
Lănh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Bài chi tiết: Văn Lang
Sau thời kỳ tan ră của nhà nước liên minh các tộc người Việt, các nhà nước độc lập của các tộc người Việt cũng được h́nh thành khắp vùng phía nam sông Dương Tử[6].
Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[7] phần lớn đều đồng ư theo ghi chép của Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ VII TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN – 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở khu vực mà ngày nay là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ba tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh, và có thể đă có giao lưu với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang (Trung Quốc) ngày nay.
Bộ máy nhà nước Văn Lang đă bước đầu phỏng theo thể chế quân chủ. Ở trung ương do vua Hùng đứng đầu, có các Lạc hầu và Lạc tướng giúp việc. Ở địa phương chia thành 15 bộ (là 15 bộ lạc của vùng đồng bằng Bắc Bộ trước khi nhà nước ra đời) do Lạc tướng cai quản. Dưới bộ là các làng do Bồ chính cai quản.
florida80
05-01-2019, 17:27
Nhà Thục (257–208 hoặc 179 TCN)
Bài chi tiết: Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ III TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của bộ tộc Âu Việt - một trong những bộ tộc của Bách Việt ở phía bắc Văn Lang, đă đánh bại Hùng Vương thứ 18 lập nên nhà nước Âu Lạc. Nhà nước liên minh Âu Việt - Lạc Việt đă đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tần. Nhà nước định đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.
Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà (một viên tướng cũ của nhà Tần) thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).
Nhà Triệu (204–111 TCN)
Xem thêm: Vấn đề chính thống của nhà Triệu
Xem thêm: Nhà Triệu và Nam Việt
Bắc thuộc là một vấn đề c̣n có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam, phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằng nhà Triệu là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, v́ vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từ thế kỷ XVIII khi sử gia Ngô Th́ Sĩ phủ nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam v́ Triệu Đà vốn là người phương Bắc, là tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng mà đánh xuống phương Nam. Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ XX, các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm này. Theo quan điểm thứ hai này th́ thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 208 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương.
[hiện]
x ·
t ·
s
Kháng chiến của Việt Nam
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu thời Chiến Quốc, nay là tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc) được nhà Tần bổ nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự ư bổ nhiệm làm Quận úy quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đă tách ra cát cứ quận Nam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập vương quốc Âu Lạc và quận Quế Lâm lân cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệu Nam Việt với kinh đô đặt tại Phiên Ngung (nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN.
Nước Nam Việt trong thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt được chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân. Biên giới phía bắc là hệ thống dăy núi Ngũ Lĩnh, biên giới phía nam là dăy Hoành Sơn.
Sau khi nhà Hán được thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam Việt để tỏ ư ngang hàng với nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian một thế kỷ (204 TCN - 111 TCN), miền Bắc Việt Nam hiện nay là một phần của nước Nam Việt, nước này có vua là người Trung Hoa và vị vua này không công nhận sự cai trị của nhà Hán.
florida80
05-01-2019, 17:27
Thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN–938 SCN)
Bắc thuộc lần 1 (111 TCN–40 SCN)
Năm 111 TCN, đội quân của Hán Vũ Đế xâm chiếm nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á[8]. Trong thế kỷ I, các tướng Lạc vẫn c̣n được giữ chức, nhưng Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lănh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xă hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn.
Hai Bà Trưng (40–43)
Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lănh đạo đă nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành tŕ) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó, nhà Hán phái tướng Mă Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau 3 năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mă Viện đàn áp. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên Hai Bà Trưng không đủ sức chống cự lại quân do Mă Viện chỉ huy. Hai Bà Trưng đă tự vẫn trên ḍng sông Hát để giữ vẹn khí tiết.
Bắc thuộc lần 2 (43–544)
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đă nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu giành độc lập.
Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lư Trường Nhân và Lư Thúc Hiến từ thời bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.
Nhà Tiền Lư (544–602)
Năm 541, Lư Bí nổi dậy khởi nghĩa, đă đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp, Lư Bí tự xưng đế tức là Lư Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 544. Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lư Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lư Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571 một người cháu của Lư Nam Đế là Lư Phật Tử đă cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 20 năm nữa cho đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.
Bắc thuộc lần 3 (602–923 hoặc 930)
Kế tiếp nhà Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lănh thổ nước Vạn Xuân cũ.
Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đă nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lư Tự Tiên và Đinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ VII đến thế kỷ IX.
Từ sau loạn An Sử (756–763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đă giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân.
Cuối thế kỷ IX, nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đă chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt.
Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy vậy, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xă hội, văn hóa của Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản chất nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của ḿnh sau một ngh́n năm đô hộ.[9]
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á, mặc dù lúc đó Đông Nam Á đă chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được ḥa trộn với Nho giáo, Lăo giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương[10].
florida80
05-01-2019, 17:28
Thời kỳ tự chủ (905–938)
Họ Khúc (905–923 hoặc 930)
Năm 905, Khúc Thừa Dụ đă xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam.
Thời kỳ quân chủ (939–1945)
Bản đồ thay đổi lănh thổ Việt Nam từ 1009 đến 1900.
Xem thêm: Lănh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ
Tên gọi Việt Nam
Map of Vietnam showing the conquest of the south (nam tiến, 1069-1757).
[hiện]
Một phần của loạt bài về
Các vương quốc cổ ở
Việt Nam
Việt Thường (? TCN - ? TCN)
Nam Việt (207 - 111 TCN)
Phù Nam (1 - 630)
Chăm Pa (192 - 1832)
Chân Lạp (550 - 802)
Ngưu Hống (1067 - 1337)
Bồn Man (1369 - 1478)
Tiểu quốc J'rai (TK 15- TK 19)
Tiểu quốc Mạ (TK 15 - TK 17)
Tiểu quốc Adham (TK 18 - TK 19)
Vương quốc Xơ Đăng (1888 - 1890)
x ·
t ·
s
Thời kỳ độc lập (939–1407)
Mô h́nh tháp bằng đất nung thời Lư
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, lập nên nhà Đinh (968–980) và đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập nên nhà Tiền Lê (980–1009)
Năm 1009, Lư Công Uẩn lên ngôi vua, lập nên nhà Lư (1009–1225). Năm 1054, vua Lư Thánh Tông đổi tên thành Đại Việt.
Việt Nam giai đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Ngô (939–965), nhà Đinh (968–980), nhà Tiền Lê (980–1009), nhà Lư (1009–1225), nhà Trần (1226–1400) và nhà Hồ (1400–1407).
Trong thời kỳ này, các vương triều phương Bắc ở Trung Hoa, Mông Cổ mang quân sang xâm lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lư Thường Kiệt đẩy lui hai lần quân nhà Tống (năm 981 và 1076), nhà Trần đánh bại quân Mông Cổ năm 1258 và kế tiếp là nhà Nguyên vào năm 1285 và 1288. Đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm chiếm được Đại Việt và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi năm 1428 và thành lập nhà Hậu Lê. Năm 1789, nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, phong kiến Việt Nam đă bắt đầu suy yếu.
Từ thế kỷ X tới thế kỷ XIV, các triều đại Đại Việt xây dựng nhà nước trên cơ sở Phật giáo cùng với những ảnh hưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Tới cuối thế kỷ XIV, ảnh hưởng của Phật giáo dần thu hẹp và ảnh hưởng của Nho giáo tăng lên, sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mô h́nh kiểu Trung Hoa, sang đến thế kỷ XV th́ Đại Việt có một cơ cấu chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa, cơ cấu luật pháp, hành chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.
Cùng với việc thu nhận mô h́nh chính trị, tổ chức xă hội của Trung Hoa, các triều đại Việt Nam từ thế kỷ X trở đi từng bước mở rộng vùng ảnh hưởng ra ngoài khu vực đồng bằng sông Hồng. Từ triều Lư, thông qua các cuộc hôn nhân, quân sự và tấn phong thủ lĩnh các bộ tộc miền núi, các vương triều Lư, Trần, Lê đă lần lượt sát nhập và đưa các sắc tộc khác ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc vào quốc gia Đại Việt. Cùng với người Việt, các bộ tộc miền núi đă cùng chung sức với người Việt trong các công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương thực, từng triều đại đă lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động thương mại, ngoại thương cũng đă được h́nh thành. Ngoài hai quốc gia láng giềng Trung Quốc và Chăm Pa, vào thời nhà Lư, nhà Trần đă có buôn bán thêm với các vương quốc trong vùng Đông Nam Á tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), thời Hậu Lê có buôn bán thêm với châu Âu, Nhật Bản tại các trung tâm như Thăng Long và Hội An.
Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ (竹林大士出山图)
Bắc thuộc lần 4 (1407–1427)
Năm 1407, quân Minh sang xâm lược Đại Ngu với cớ đánh đuổi nhà Hồ khôi phục nhà Trần (Phù Trần diệt Hồ). Quân Minh nhanh chóng đánh bại quân Đại Ngu, giai đoạn này gọi là Bắc thuộc lần 4.
Các lực lượng của Nhà Hậu Trần đă nổi dậy từ 1407–1413 để chống lại quân Minh nhưng cũng bị đánh dẹp.
Một thủ lĩnh Giao Chỉ là Lê Lợi khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của Nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi năm 1427, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra Nhà Hậu Lê.
Thời kỳ trung hưng (1428–1527)
Đại Việt sử kư toàn thư - bộ chính sử Việt Nam xưa nhất c̣n tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay
Năm 1427, Lê Lợi sau khi đánh bại quân Minh lập ra Nhà Hậu Lê, giai đoạn này c̣n được gọi là Nhà Lê sơ.
Thời kỳ chia cắt (1527–1802)
Sông Gianh, biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong gần 200 năm
Bắt nguồn từ thời kỳ Nam – Bắc triều, năm 1527, sau khi giành ngôi từ nhà Hậu Lê, Mạc Đăng Dung đă lập nên nhà Mạc. Nhà Hậu Lê (sử gọi là nhà Lê trung hưng) được tái lập vài năm sau đó với sự giúp đỡ của Nguyễn Kim, một tướng cũ và giành được sự kiểm soát khu vực từ Thanh Hóa vào B́nh Định. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm đă giành quyền bính, 60 năm kế tiếp Trịnh Kiểm và các con cháu của ông đă giành được chiến thắng trước nhà Mạc vào năm 1592 và mở đầu cho thời kỳ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thời kỳ vua Lê chúa Trịnh
Việt Nam giai đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Mạc (1527–1592), nhà Lê trung hưng (1533–1789), chúa Trịnh (1545–1787), chúa Nguyễn (1558–1777) và nhà Tây Sơn (1778–1802).
Bến sông Hội An cuối thế kỷ XVIII
Trịnh – Nguyễn phân tranh
Sự mâu thuẫn giữa hai người cận thần của nhà Lê trung hưng là Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng (trấn thủ xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) đă bắt đầu cho sự phân chia đất nước ra thành hai lănh thổ. Trong khi Trịnh Kiểm t́m cớ giết Nguyễn Uông (con cả của Nguyễn Kim) th́ Nguyễn Hoàng chạy vào Thuận Hóa lập cát cứ, hai chính quyền riêng biệt là Đàng Ngoài và Đàng Trong với sông Gianh (Quảng B́nh) làm biên giới. Các con cháu của Trịnh Kiểm lần lượt kế tiếp nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài được gọi là các chúa Trịnh, các con cháu của Nguyễn Hoàng kế tiếp nhau cầm quyền ở Đàng Trong được gọi là các chúa Nguyễn, các vua Lê chỉ có danh vị hoàng đế của Đại Việt trên danh nghĩa.
Thời kỳ Đại Việt chia thành hai lănh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng là thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, gốm sứ. Tuy nhiên, sang đến thế kỷ XVIII th́ hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài[11].
Cùng với sự giao thương buôn bán với các nước phương Tây, đạo Công giáo cũng bắt đầu được truyền vào Đại Việt qua các giáo sĩ Công giáo phương Tây theo các tàu buôn vào giảng đạo ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, lúc đó các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều ngăn cấm, nên ảnh hưởng của Công giáo ở Việt Nam trong thời kỳ này c̣n hạn chế.
Mở rộng lănh thổ về phương Nam
Bài chi tiết: Nam tiến
Các thời kỳ Nam tiến của người Việt
Dấu ấn về việc mở rộng đất nước trong thời kỳ phong kiến này chính là sự bành trướng xuống phương Nam, cuộc Nam tiến nhằm t́m đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Với một quân đội có tổ chức tốt hơn, từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, sau các cuộc chiến tranh cũng như hôn nhân chính trị giữa Đại Việt và Chăm Pa, lănh thổ Đại Việt đă được mở rộng thêm từ dăy Hoành Sơn (bắc Quảng B́nh) tới đèo Cù Mông (bắc Phú Yên).
Từ thế kỷ XVII, Đàng Trong là một lănh thổ, chính quyền riêng biệt với Đàng Ngoài, do các chúa Nguyễn cai quản. Các chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan của nhà Hậu Lê, nhận lệnh vua Lê cai quản phía Nam, nhưng thực tế họ cai trị Đàng Trong tương đối độc lập, ít khi nhận lệnh từ nhà Hậu Lê. Nhằm tiếp tục t́m kiếm thêm diện tích đất đai cho sự gia tăng dân số, cũng như tăng cường quyền lực các chúa Nguyễn đă lần lượt tiến hành các cuộc chiến tranh với Chăm Pa và sát nhập hoàn toàn phần lănh thổ c̣n lại của người Chăm (từ Phú Yên tới B́nh Thuận) vào năm 1693.
Tiếp đó, sau các cuộc di dân của người Việt từ Đàng Trong vào sinh sống ở vùng đất của người Khmer, các chúa Nguyễn lần lượt thiết lập chủ quyền từng phần trên vùng đất Nam Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu tố chính trị khác, từ năm 1698 đến năm 1757, chính quyền Đàng Trong đă giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự kiểm soát của ḿnh.
Cùng với việc mở rộng lănh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các ḥn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ XVII, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1816[12].
Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này. Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, văn hóa Khmer. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn[13]. Tổ chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đă được đơn giản hóa ở miền Nam[13].
florida80
05-01-2019, 17:29
Thời kỳ thống nhất (1802–1858)
Xem thêm: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802)
Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834
Từ giữa thế kỷ XVIII, các cuộc chiến liên tục giữa Đàng Trong với vương quốc Khmer, Ayutthaya cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đă nổ ra, song phần lớn chịu thất bại. Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn (B́nh Định) đă phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như băi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ c̣n trên danh nghĩa.
Nhà Tây Sơn đă đánh bại 5 vạn quân Xiêm La (năm 1784) tại miền Nam và 29 vạn quân Măn Thanh (năm 1789) xâm lược tại miền Bắc. Vua Tây Sơn là Nguyễn Huệ chính thức trở thành vua của Đại Việt, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống nhất hầu hết lănh thổ từ miền Bắc vào tới Gia Định. Tuy nhiên sau cái chết của ông năm 1792, nội bộ lục đục khiến chính quyền Tây Sơn càng ngày càng suy yếu.
Một người thuộc ḍng dơi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với sự hậu thuẫn và cố vấn của một số người Pháp, đă đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, với lănh thổ gồm hai đồng bằng ph́ nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải. Năm 1804, ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành Việt Nam.
Gia Long (1802–1820) đóng đô ở Huế, ông cho xây dựng kinh đô Huế tương tự như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820–1841) đă cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính của Trung Quốc thời nhà Thanh. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ) đă nhận thấy sự tụt hậu và tŕ trệ của đất nước, họ đề nghị triều đ́nh nên học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp – thương mại, nhưng các quan lại này chỉ là thiểu số. Đáp lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841–1847) và Tự Đức (1847–1883) chọn chính sách đă lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản), tiếp tục cấm buôn bán với nước ngoài.
Ngoài ra, các vua này ngăn cấm truyền bá Công giáo, thứ tôn giáo mà họ coi là "tà đạo từ phương Tây". Những nhà truyền giáo người Pháp đă có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XVII. Họ cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn dẫn đến chiến thắng của vua Gia Long. Đến giữa thế kỷ XIX, có khoảng 450.000 người cải đạo sang Công giáo [14]. Chính quyền nhà Nguyễn thực sự lo ngại sự h́nh thành của một tôn giáo xa lạ có tổ chức nên đă ra lệnh cấm truyền đạo Công giáo, đồng thời đàn áp những người theo đạo Công giáo và san bằng nhiều xóm đạo.
florida80
05-01-2019, 17:29
Thời kỳ hiện đại (1858–nay)
Thời kỳ Pháp thuộc (1858–1945)
Xem thêm: Chiến tranh Pháp-Đại Nam
Bài chi tiết: Pháp thuộc và Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Việt Nam bị chia làm ba kỳ thuộc Liên bang Đông Dương
Ngày 31 tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm chiếm Sài G̣n. Tháng 6 năm 1862, Vua Tự Đức kư hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lănh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần c̣n lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất ḥa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất ḥa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của ḿnh và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng th́ người Pháp đă chiến thắng.
Pháp tuyên bố là họ sẽ "bảo hộ" Bắc Kỳ (Tonkin) và Trung Kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy tŕ các vua nhà Nguyễn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945) cùng bộ máy quan lại. Nhà Nguyễn tuy tiếp tục tồn tại ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhưng chỉ c̣n quyền lực hạn chế, mọi vấn đề lớn phải được Toàn quyền Đông Dương của Pháp thông qua. Vào năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại. Các vua Nguyễn là Hàm Nghi, Duy Tân và Thành Thái có ư phản kháng đều bị Pháp truất ngôi và đưa đi đày.
Vào năm 1887, hoàn tất quá tŕnh xâm lược Việt Nam, người Pháp đă tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài G̣n, năm 1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cơi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ và Thống sứ Bắc Kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893, quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao.
Sau thất bại của Phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX, người Pháp đă cũng cố hoàn toàn việc tổ chức cai trị tại Việt Nam. Cuộc cải cách trong giáo dục trong thập niên 1910 đă xóa bỏ hoàn toàn nền nho học với chữ Hán cả ngh́n năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào tân học theo chữ quốc ngữ đă tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa phương Tây. Đại diện tiêu biểu cho giới này là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đă mở đầu cho phong trào Duy Tân và phong trào Đông Du vận động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xă hội cho người Việt trước tầng lớp người Pháp cai trị. Tuy nhiên sự phát triển các phong trào này sau đó bị chính quyền thực dân dẹp bỏ v́ nhận thấy nguy cơ đối với chế độ thuộc địa của họ.
Cuối thập niên 1920, những người Việt cấp tiến dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam Dân đă thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm đó, một số thanh niên Việt Nam theo Chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận B́nh dân trong chính quyền Pháp.
florida80
05-01-2019, 17:30
Thời kỳ Nhật thuộc (1940–1945)
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim, đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) thành lập năm 1941 với vai tṛ một mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới Việt – Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ năm 1911 (năm ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các thập niên 1920 và 1930.
Ngày 11 tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp, được sự hậu thuẫn và kiểm soát của Nhật, hoàng đế Bảo Đại ban ra một chiếu chỉ với nguyên văn:
"Theo t́nh h́nh thế giới nói chung và hiện t́nh Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Ḥa ước Bảo hộ kư kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc lập."[15]
Trần Trọng Kim được bổ nhiệm làm thủ tướng một chính phủ mới với danh xưng Đế quốc Việt Nam, nhưng hầu hết quyền lực của chính phủ này do lực lượng phát xít Nhật nắm giữ. Trên thực tế, Đế quốc Việt Nam là một chính phủ bù nh́n do Đế quốc Nhật Bản dựng lên. Đến ngày 14 tháng 8 năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh (bao gồm cả Việt Minh tại Việt Nam), chính quyền Trần Trọng Kim bên bờ vực sụp đổ. Lúc này, Việt Minh kiểm soát toàn bộ khu vực nông thôn, chính quyền Trần Trọng Kim và quân đội Nhật chỉ c̣n cố cầm cự ở một số thành phố lớn. Trong thời gian cầm quyền, chính phủ Trần Trọng Kim không tổ chức được Tổng tuyển cử nên không trở thành chính phủ chính thức mà chỉ là chính phủ lâm thời, chưa phải là người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một t́nh trạng hỗn loạn. Chiến tranh đă làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đă xảy ra tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Người ta ước tính rằng đă có khoảng hai triệu người chết v́ nạn đói này
florida80
05-01-2019, 17:31
Thời kỳ cộng ḥa (1945–nay)
Tuyên bố độc lập
Bài chi tiết: Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Cao trào kháng Nhật cứu nước, Chiến dịch Đông Dương thuộc Pháp (1945), và Cách mạng Tháng Tám
Tuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7 không nói rơ phần lănh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói các vùng lănh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói là phe Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới.[17] Tuy nhiên, Thủ tướng Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố bác bỏ Tuyên bố Potsdam cũng như Tuyên bố Cairo trước đó[18]. Tới 10/8/1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam và đầu hàng quân Đồng Minh[19]
Trước đó, lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lănh đạo đă liên tục chống phát xít Nhật và thực dân Pháp từ thập niên 1930. Đặc biệt, trong năm 1945, Việt Minh đă nhiều lần tổ chức cho quần chúng nhân dân cướp các kho gạo của Nhật để cứu đói. Tới tháng 8/1945, lực lượng Việt Minh lănh đạo đă tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở hầu khắp các tỉnh tại Việt Nam (trừ một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc). Chính quyền phát xít Nhật khi đó đă đầu hàng Đồng Minh, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trở thành cố vấn tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa độc lập và thống nhất từ miền Bắc tới miền Nam. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử toàn quốc đă được tổ chức. Các đại biểu Việt Minh chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kỳ được chọn là cờ nền đỏ, sao vàng năm cánh, hiến pháp được thông qua. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chính thức trở thành người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam
florida80
05-01-2019, 17:31
Chiến tranh chống Pháp (1946–1954)
Bài chi tiết: Chiến tranh Đông Dương và Trận Điện Biên Phủ
Sư đoàn 308 tiến vào tiếp quản thủ đô Hà Nội năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên, nền độc lập của Việt Nam bị đe dọa chỉ sau 2 tuần. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia Trung Hoa giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy tŕ ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao cho Pháp trong sự chịu đựng của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam, quân Nhật được giải giới bởi quân Anh–Ấn. Sau đó, quân Anh–Ấn đă chuyển giao miền Nam cho Pháp khi Pháp trở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1945. Trong suốt năm 1946, chính quyền Hồ Chí Minh đàm phán ḥa b́nh với Pháp, mặc dù vậy hai bên cũng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Lúc này Pháp chỉ công nhận quyền tự trị trong Liên hiệp Pháp của Việt Nam chứ không đống ư cho Việt Nam độc lập. Chiến tranh giữa Việt Minh và thực dân Pháp bùng nổ tháng 12 năm 1946.
Vào đầu năm 1947, Pháp có vẻ thắng thế và nắm được toàn bộ các đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Minh kiên tŕ với chiến lược "chiến tranh nhân dân" và chiến thuật du kích, tổ chức và đào tạo dân chúng cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài. Tới năm 1949, để giảm bớt gánh nặng, Pháp đàm phán với các chính trị gia người Việt chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do Việt Minh lănh đạo. Pháp viện trợ để thành lập một nhà nước mới là Quốc gia Việt Nam. Người đứng đầu nhà nước này là Quốc trưởng Bảo Đại, với cờ Quẻ Ly là quốc kỳ. Chính quyền này có sự tham gia của các quan lại cũ thân Pháp. Được Pháp hỗ trợ tài chính và vũ khí cũng như nắm quyền chỉ đạo, Quân đội Quốc gia Việt Nam góp quân tham gia cùng Pháp ḥng dập tắt phong trào kháng chiến của Việt Minh.
Năm 1950, chính quyền Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô bắt đầu trợ giúp Việt Minh vũ khí. Bên kia, Pháp được Mỹ hậu thuẫn, hỗ trợ phần lớn chiến phí, nhưng đầu thập niên 1950, thế trận của Pháp bắt đầu yếu đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đă kết thúc hoàn toàn nỗ lực của Pháp và Mỹ nhằm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông Dương
florida80
05-01-2019, 17:32
Bài chi tiết: Hiệp định Genève và Cuộc di cư Việt Nam, 1954
sông Bến Hải, ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam (1954-1975)
Sau trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đă họp tại Genève năm 1954, để t́m kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được kư kết với nội dung là đ́nh chiến và tạm thời phân chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tạm thời có ranh giới tại vĩ tuyến 17, ranh giới này không được coi là biên giới chính trị hay biên giới quốc gia. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, lănh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp (bao gồm Quốc gia Việt Nam). Tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong th́ cả hai miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền Nam. Khoảng 1 triệu người, gồm phần lớn là người theo Công giáo ở miền Bắc đă di cư vào Nam, trong khi 150.000 người (gồm phần lớn là bộ đội chống Pháp người miền Nam) tập kết ra miền bắc.
Chính quyền Hồ Chí Minh xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng v́ Hiệp định này quy định một cuộc tổng tuyển cử để thành lập một quốc gia thống nhất. Họ tin rằng ḿnh sẽ thắng cử v́ uy tín rộng khắp của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên, cuộc tuyển cử đă không bao giờ diễn ra. Pháp rút quân, Tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng 80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử[20] và hậu thuẫn cho Ngô Đ́nh Diệm thành lập chính thể riêng biệt ở phía Nam vĩ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam[21]. Theo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, đây là hành động phá hoại Hiệp định Genève.[22][23]
Ở miền Bắc, chính quyền Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xă hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp - công nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đă ủng hộ hết ḿnh cho chính quyền Hồ Chí Minh. Cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đă giải quyết được vấn đề công bằng ruộng đất cho nông dân nghèo, tuy nhiên một số sai lầm gây ra sự xáo trộn đời sống xă hội miền Bắc trong giai đoạn đầu[24]. Mặt khác, một số nhà văn, nhà báo của Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm[25] phải đi học tập cải tạo, kiểm điểm hoặc cho thôi việc v́ viết bài chống đối đường lối chính trị và công cuộc thống nhất đất nước. Về mặt công nghiệp, các nhà máy mới bắt đầu được xây dựng với sự hỗ trợ về vốn, công nghệ của các nước thuộc khối Xă hội chủ nghĩa.
Trong thời gian này, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đề nghị Quốc gia Việt Nam thi hành tuyển cử thống nhất đất nước, nhưng bị từ chối. Năm 1955, với sự trợ giúp của Mỹ, Ngô Đ́nh Diệm đă gian lận để chiến thắng trong Cuộc trưng cầu dân ư miền Nam Việt Nam, cho phép ông lên làm Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam và sau này trở thành Tổng thống của Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa. Bảo Đại phải lưu vong sang Pháp. Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngô Đ́nh Diệm xây dựng cải cách điền địa[26], cũng như củng cố quân đội để giữ vững chính phủ thân Mỹ. Tuy nhiên, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă tổ chức đàn áp chính trị và tôn giáo khiến hàng trăm ngh́n người thiệt mạng. Vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài ngh́n người, dưới h́nh thức là các "cố vấn" cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xă hội miền Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền (Quảng Trị), ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng ngh́n tù nhân t́nh nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn, nước uống). Các cuộc biểu t́nh của Phật giáo vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây ra mâu thuẫn tôn giáo sâu sắc.
florida80
05-01-2019, 17:32
Chiến tranh chống Mỹ (1955–1975)
Từ năm 1959, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hậu thuẫn nhằm kêu gọi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận này là Quân Giải phóng miền Nam được thành lập và tổ chức bảo vệ các cơ sở chính trị cũ của Việt Minh cũng như bảo vệ người dân trước sự đàn áp của chính quyền Diệm. Mặt trận đă kiểm soát một khu vực rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều vụ tấn công vào các căn cứ đối phương. Trước đó, Hoa Kỳ đă hỗ trợ tài chính, vũ khí và cố vấn cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm từ năm 1954 để ngăn chặn sự lớn mạnh của Việt Minh tại miền Nam (do tập kết chính trị được phép tiến hành tại chỗ nên các cơ sở chính trị của Việt Nam không phải ra Bắc cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam).
Người Mỹ biểu t́nh phản đối cuộc chiến của chính phủ Mỹ tại Việt Nam với sự châm biếm: "Đế quốc Mỹ và Con rối Sài G̣n"
Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho Việt Nam Cộng ḥa và gửi 17.500 nhân viên quân sự đến Việt Nam dưới danh nghĩa "cố vấn". Tuy nhiên, những mâu thuẫn giữa chính phủ Ngô Đ́nh Diệm với phật giáo Việt Nam, việc chống quân Giải phóng miền Nam không đạt mục tiêu và thái độ không phục tùng của Ngô Đ́nh Diệm, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bằng cách ủng hộ Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiến hành đảo chính. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đảo chính và ám sát Ngô Đ́nh Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng ḥa và thành lập nền Đệ Nhị Cộng ḥa. Sau sự kiện này Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng ḥa. Tuy nhiên, t́nh h́nh chính trường miền Nam sau đảo chính hết sức hỗn loạn, chính phủ Việt Nam Cộng ḥa bên bờ vực sụp đổ.
Trên chiến trường, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa liên tiếp gặp thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Để cứu văn t́nh thế, sau khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964, Tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1965 lần lượt các đoàn quân được chuyển tới chiến trường Việt Nam cùng với khoảng 20.000 "cố vấn" đă có từ trước, số lượng quân đội Mỹ lên tới khoảng 540.000 người vào thời điểm năm 1968. Chiến tranh bùng nổ ác liệt năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ đánh vào miền Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng ḥa, Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ gồm Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, c̣n Liên Xô và Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và huấn luyện.
Sau giai đoạn đảo chính liên tiếp, năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống nền Đệ nhị Cộng ḥa của Việt Nam Cộng ḥa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là lănh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969.
Đầu năm 1968, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân địa phương mở cuộc tổng tấn công Chiến dịch Tết Mậu Thân vào hầu hết các thành phố chính ở miền Nam Việt Nam, tuy thất bại về mặt chiến thuật nhưng đă đạt được mục đích đề ra: khiến cho Chính phủ và dân chúng Mỹ mất ḷng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam cũng như buộc Chính phủ Mỹ phải ngồi đàm phán với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Tới tháng 11 năm 1968, Johnson tuyên bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam" và đồng ư ngồi vào đàm phán. Tuy nhiên, 1 năm sau, Tổng thống kế nhiệm Richard Nixon thông báo Mỹ quay trở lại, Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vào tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Cùng với chiến sự ở chiến trường, cả hai bên đều t́m kiếm giải pháp chấm dứt chiến tranh thông qua các cuộc hội đàm ở Paris. Nội dung đàm phán được thực hiện qua các phiên họp kín giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, vốn là 2 bên thực sự điều khiển cuộc chiến (2 đoàn c̣n lại là Việt Nam Cộng ḥa và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam chỉ tham gia cho có đủ danh nghĩa). Măi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Ḥa b́nh Paris mới được kư giữa 4 bên, sau thất bại nặng nề của Mỹ trong các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Pḥng và các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa Kỳ tiến hành cuối năm 1972.
Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đă tấn công vào quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng ḥa kiểm soát và chiếm đóng hoàn toàn quần đảo này.
Sau Hiệp định Paris 1973, quân viễn chinh Mỹ rút khỏi Việt Nam – điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đ́nh chiến và giữ lănh thổ của mỗi bên trước khi đ́nh chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rơ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong ṿng 60 ngày. Mặc dù đă có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn do Quân lực Việt Nam Cộng ḥa vi phạm hiệp định. Tiêu biểu, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, QLVNCH đă tấn công cảng Cửa Việt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với những điểm yếu nội tại của ḿnh, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa không thể duy tŕ được lâu. Đến giữa tháng 3 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên, khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Quân Việt Nam Cộng ḥa liên tục để mất Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng sau chưa đầy 1 tháng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành được quyền kiểm soát Sài G̣n, chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng ḥa tuyên bố đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam.
florida80
05-01-2019, 17:33
Thời kỳ đầu sau thống nhất (1976–1986)
Bài chi tiết: Chiến dịch phản công biên giới Tây-Nam Việt Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, và Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990
Ngày 25 tháng 4 năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất về mặt nhà nước thành một quốc gia có tên chính thức là Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như: chủ trương thống nhất mọi mặt theo tiêu chuẩn miền Bắc (thí dụ, kế hoạch xă hội hóa toàn bộ kinh tế miền Nam nhằm hợp nhất với kinh tế miền Bắc); các cuộc tấn công liên tục vào Nam bộ của quân đội Khmer Đỏ, thiên tai và lũ lụt năm 1977 và 1978, Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, di chứng chiến tranh như chất độc da cam, bom ḿn chưa nổ... đă làm cho nền kinh tế quốc gia rơi vào khủng hoảng. Sự đe dọa của chiến tranh, đời sống sút kém gây ra một làn sóng người vượt biên ra nước ngoài (thuyền nhân) bắt đầu từ năm 1978, chủ yếu là người Hoa.
Đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế – xă hội ở Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Những khủng hoảng này đă gây sức ép đổi mới cả về chính trị và quản lư kinh tế.
Sau chiến tranh Việt Nam, Campuchia nhiều lần xâm phạm lănh thổ của Việt Nam dù cho Việt Nam đă có nhiều động thái để duy tŕ ḥa b́nh. Tháng 5 năm 1975, Khmer Đỏ đă tấn công đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam. Từ năm 1975–1978, tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra thường xuyên, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc, quân đội Khmer Đỏ nhiều lần tiến hành các cuộc đột kích vào sâu trong lănh thổ Việt Nam, theo thống kê, có khoảng 30.000 thường dân và hàng ngh́n quân lính Việt Nam bị quân đội Khmer Đỏ giết hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới trong thời gian này.
Vào tháng 12 năm 1978, quân Khmer Đỏ mở các cuộc tấn công lớn vào các tỉnh biên giới từ Tây Ninh đến Kiên Giang, thị xă Hà Tiên bị chiếm. Quân đội Việt Nam tổ chức phản công, tới ngày 7 tháng 1 năm 1979, họ tiến quân vào thủ đô Phnom Penh đánh đuổi Khmer Đỏ. Trước việc Khmer Đỏ tổ chức diệt chủng ở Campuchia và tấn công xâm lược vào lănh thổ của Việt Nam, quân đội Việt Nam buộc phải tiến hành can thiệp. Ngày 8 tháng 1, với sự hậu thuẫn của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng 10 ngày sau, hội đồng này kư hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia. Tới năm 1989, quân đội Việt Nam rút về nước sau khi chính quyền của Campuchia ổn định, lực lượng diệt chủng bị đẩy lùi.
Sự kiện Việt Nam phản công và lật đổ chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia là cái cớ để Trung Quốc, vốn ủng hộ chế độ Khmer Đỏ, có lư do tấn công xâm lược Việt Nam, với tuyên bố của Đặng Tiểu B́nh: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học". Ngày 17 tháng 2 năm 1979, với lực lượng khoảng 400.000 quân, Trung Quốc đă bất ngờ tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam từ Quảng Ninh tới Lai Châu, sau 3 tuần đă chiếm được thủ phủ các tỉnh này. Sau sự yếu thế ban đầu, Việt Nam đă tổ chức phản công lại và cùng với những quân đoàn thiện chiến được chuyển từ chiến trường Campuchia ra đă dần giành lại được lợi thế, tới ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân.
Sự kiện này đă gây nên cuộc khủng hoảng "nạn kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người Hoa và người gốc Hoa chạy khỏi Việt Nam về Trung Hoa hoặc gia nhập nhóm "thuyền nhân" chạy sang nước khác. Cuộc chiến này cũng đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hơn 13 năm sau, tới năm 1992, hai nước mới b́nh thường hóa lại quan hệ ngoại giao.
Cũng trong thời gian này, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử dụng tàu chiến để tấn công các tàu công binh của phía Việt Nam, mở cuộc hải chiến vào các băi đá Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa và chiếm đóng Gạc Ma, phía Việt Nam bảo vệ được băi Cô Lin và Len Đao thành công.
florida80
05-01-2019, 17:33
Thời kỳ đổi mới (1986-nay)
Bài chi tiết: Đổi mới
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến hành chính sách "Đổi mới", đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, để hợp lư hóa cơ cấu hành chính, cải cách cơ cấu Đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường với định hướng Xă hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới được phát hành toàn diện, từ một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài thành nước xuất khẩu. Trước 1989, Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu 1–1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; và tăng dần hàng năm: 4,5 triệu tấn (năm 2004), 4,9 triệu tấn (năm 2005), đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 c̣n 67,4%) và năm 2005 lạm phát chỉ c̣n 8,5%.
Trong thời gian 1991-1995, nhịp độ tăng b́nh quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1% (1991) xuống c̣n 12,7% (1995) và 4,7% (1996).
Năm 2004, Việt Nam đă đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng thứ 2 trong khu vực, sau Singapore. (Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD, khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg-Vorpommern của Đức). Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu (tăng 30%) cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng (10,2%). Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam là 8,5%.
Đến nay, Việt Nam đă thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lănh thổ đă đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.[cần dẫn nguồn]
Năm 1995, Việt Nam đă b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ, và tiếp đó gia nhập ASEAN, APEC, thành viên diễn đàn ASEM. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, đă trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Từ khi gia nhập WTO đến nay
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau 11 năm đàm phán.[27] Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam đă được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008–2009. Ngay sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đă tăng trưởng chậm lại do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.[28] Điều này cũng đặt ra yêu cầu cho Đảng Cộng sản Việt Nam phải ngăn chặn, khắc phục triệt để một bộ phận cán bộ, Đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, song song với việc đề cao cảnh giác các thế lực thù địch[29]. Đến năm 2015, kinh tế Việt Nam đă bắt đầu có những dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ[30].
Về các tác động ngoại cảnh, các sự kiện tranh chấp ở biển Đông như tàu địa chấn B́nh Minh 02 bị hải giám Trung Quốc cắt cáp, Vụ giàn khoan Hải Dương 981 và việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở biển Đông là các sự kiện chính ảnh hưởng đến t́nh h́nh chính trị Việt Nam hiện nay[31]. Điều này thúc đẩy Việt Nam tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào việc h́nh thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ[32], kư các Hiệp định thương mại tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu.[33
florida80
05-01-2019, 17:34
Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Việt Nam chính thức tham gia thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ASEAN Economic Community, viết tắt AEC, gồm 10 quốc gia thành viên.[34] AEC sẽ là cơ hội quư báu để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và tŕnh độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi lớn, AEC ra đời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường. Các nước sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nước trong ASEAN.
Việc tham gia AEC cũng sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao tŕnh độ phát triển. Tuy nhiên, trong những năm tới, Việt Nam cũng đứng trước sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao tŕnh độ khoa học – công nghệ và năng lực cạnh tranh, trong bối cảnh ASEAN nhảy vọt từ nấc Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) lên nấc thang Cộng đồng Kinh tế (AEC). Hiện nay, tŕnh độ phát triển của Việt Nam c̣n kém xa nhiều quốc gia trong ASEAN như: Singapore, Malaysia, Thái Lan,... Do vậy, sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho năm 2015–2016, Việt Nam đứng rất thấp trong khu vực và chỉ đứng thứ 56 trên tổng số 144 nền kinh tế.[35] Nền quản lư hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt Nam, đơn cử như việc các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong khi con số b́nh quân của dịch vụ đó ở các nước ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm. Thực tế này cho thấy, cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao tŕnh độ khoa học – công nghệ và năng lực cạnh tranh đang là đ̣i hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn tới.
florida80
05-01-2019, 17:35
Các quốc hiệu chính thức
Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo ḍng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.
Văn Lang
Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lănh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.
Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱[1], 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lănh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và một phần tây nam Quảng Tây (Trung Quốc).
Khoảng cuối thế kỷ III TCN, đầu thế kỷ II TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN[2]), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.
Lĩnh Nam
Năm 40, Hai Bà Trưng đă khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đă lấy được 65 thành tŕ của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ, 6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có một vương gia. Năm 43, khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.
Vạn Xuân
Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đ́nh trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lư dưới sự lănh đạo của Lư Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 th́ bị nhà Tùy tiêu diệt.
Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lư, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời vua Lư Thánh Tông th́ đổi sang quốc hiệu khác.
Đại Việt
Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lư, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lư Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các vương triều Lư, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.
Đại Ngu
Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quư Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Măn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quư Ly nhận ḿnh là ḍng dơi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, ḥa b́nh", chứ không phải là từ "ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).
Việt Nam
Tiến tŕnh Nam tiến của dân tộc Việt
Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đă đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lư lẽ rằng "Nam" có ư nghĩa "An Nam" c̣n "Việt" có ư nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.
Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đă xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đă có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không c̣n) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trăi (1380–1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này c̣n được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), ngay trang mở đầu tập Tŕnh tiên sinh quốc ngữ đă có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng t́m thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI-XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đ́nh (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ư nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lư (người Việt ở phương Nam).
Đại Nam
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ư một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà Thanh đă không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
Đế quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong thực tế, Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức thành lập Quốc hội và Chính phủ khóa I.
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954–1975, chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng ḥa được Hoa Kỳ thành lập tại miền Nam Việt Nam. Tới năm 1976, chính thể này cùng với chính thể Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất thành Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc gia Việt Nam
Quốc gia Việt Nam là danh xưng của một phần vùng lănh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée kư ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Thực tế, chính quyền Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lănh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă làm năm 1946. Nó bị coi là một chính phủ bù nh́n của thực dân Pháp.
Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955, Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính phủ Việt Nam Cộng ḥa.
Việt Nam Cộng ḥa
Việt Nam Cộng ḥa là tên gọi của một chính thể được Hoa Kỳ hỗ trợ thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949–1955). Trong trưng cầu dân ư gian lận năm 1955 do Hoa Kỳ hậu thuẫn, thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đă phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng ḥa. Ở miền Nam Việt Nam, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Chính quyền này sụp đổ vào năm 1975 sau khi đầu hàng Cộng ḥa miền Nam Việt Nam. Sau đó, Cộng ḥa miền Nam Việt Nam có tuyên bố kế thừa các nghĩa vụ, tài sản, quyền và các lợi ích của Việt Nam Cộng ḥa.
Cộng ḥa miền Nam Việt Nam
Cộng ḥa miền Nam Việt Nam là một chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969 tới 1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam". Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Geneve 1954 th́ chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ ḥa hợp dân tộc). Cộng ḥa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1976, Cộng ḥa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hợp nhất thành Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam.[3]
Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam
Sau khi cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị, ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa VI quyêt định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng ḥa miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.
Các danh xưng gây tranh căi
Dưới đây là những danh xưng từng được dùng không chính thức để chỉ vùng lănh thổ quốc gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức này được ghi nhận lại từ cổ sử, truyền thuyết hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.
Xích Quỷ
Xích Quỷ (赤鬼), c̣n gọi là Thích Quỷ, theo Việt Nam sử lược là có nguồn gốc từ truyền thuyết về thủy tổ của dân Việt là Kinh Dương Vương.
Sách chép:
Cứ theo tục truyền th́ vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.Bờ cơi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quăng năm nhâm tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lăm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Nam Việt
Xem Vấn đề chính thống của nhà Triệu.
Nam Việt (南越) là quốc hiệu thời nhà Triệu (204 TCN–111 TCN). Nói chính xác th́ đối tượng tranh căi ở đây không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam ngày nay hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu cũ của nước Việt[4], nhưng từ thời Hậu Lê trở về sau, cũng như quan điểm chính thống hiện nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa. Lư do không thể coi Nam Việt là của người Việt Nam v́: Triệu Đà là người Hán, quê ở huyện Chân Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), nhân lúc nhà Tần suy loạn đă nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt.
Các ư kiến cho rằng quốc hiệu này là của nước Việt có các nhận định của các học giả như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên. Lê Văn Hưu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử th́ không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá th́ không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lăo phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cơi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, th́ ǵn giữ bờ cơi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được".
Ngô Sĩ Liên nói: "Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn th́ ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm ǵ mà được như thế? Cũng chỉ v́ có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả th́ oai anh vũ kém ǵ Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, th́ bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm nhường th́ ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy".
Hoặc vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đă có ư định đ̣i lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lư do đây là đất cũ của Nam Việt thời nhà Triệu.
An Nam
An Nam (安南) là danh xưng của người nước ngoài chỉ lănh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ.
Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đă đặt tên cho khu vực lănh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673–757 và 768–866).
Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu là "An Nam quốc vương" (kể từ năm 1164).
Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là ǵ. Cách gọi này đă ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.
Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lănh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả ba vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine).
Các danh xưng thời Bắc thuộc và Pháp thuộc
Các danh xưng này không được xem là quốc hiệu của Việt Nam v́ các giai đoạn này Việt Nam bị nước ngoài đô hộ. Đây là tên gọi mà Trung Quốc và Pháp sử dụng để chỉ vùng lănh thổ Việt Nam mà họ chiếm đóng.
Giao Chỉ
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần I từ 111 TCN–39 SCN; thời Bắc thuộc lần 2 từ 43–203, và thời Bắc thuộc lần 4 từ 1407–1427. Tổng cộng khoảng 262 năm.
Giao Châu
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2 từ 203–544 và thời Bắc thuộc lần 3 từ 602–679. Tổng cộng khoảng 420 năm.
An Nam
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 679–757 và 766–866. Tổng cộng khoảng 180 năm.
Trấn Nam
Là tên gọi của Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3 từ 757–766. Tổng cộng khoảng 10 năm.
Tĩnh Hải quân
Là tên gọi của Việt Nam cuối thời Bắc thuộc lần 3, thời kỳ tự chủ của Họ Khúc và thời kỳ độc lập của Nhà Ngô, từ 866–967. Tổng cộng khoảng 102 năm.
Liên bang Đông Dương
Là tên gọi của Việt Nam, Campuchia và Lào (lúc bấy giờ bị chia thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) thời Pháp thuộc, từ 1887–1954. Tổng cộng khoảng 68 năm.
florida80
05-01-2019, 17:37
Văn hóa Tràng An là một nền văn hóa cổ ở Việt Nam, h́nh thành từ thời kỳ đồ đá cũ cách nay khoảng 25 ngàn năm. Tràng An là tên một địa danh ở Ninh B́nh, nơi đầu tiên t́m ra những di chỉ của nền văn hóa này. Đến nay đă có khoảng 30 địa điểm thuộc nền văn hóa Tràng An đă được phát hiện.
Khu vực Quần thể danh thắng Tràng An ở Ninh B́nh có hơn 30 di tích khảo cổ học thời tiền sử đă được phát hiện, kết quả nhiều cuộc nghiên cứu của các chuyên gia khảo cổ học cho thấy dấu ấn của người tiền sử thích nghi với biến cố lớn về môi trường, cảnh quan ít nhất là từ khoảng 23.000 năm TCN đến nay, một số nền văn hóa tiền sử đă tiến hóa liên tục ở khu vực này, từ thời đại đồ đá cũ qua thời đại đồ đá mới đến thời đại đồ đồng và đồ sắt... Với những giá trị về văn hóa và thiên nhiên mang tính nổi bật toàn cầu, Tràng An được UNESCO vinh danh trở thành khu di sản thế giới kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.[1]
Văn hóa Tràng An kéo dài từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới (cách ngày nay 25.000 năm), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía nam châu thổ sông Hồng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử cho hay, căn cứ vào kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ học hang động Tràng An đă xác nhận rằng, các di tích tiền sử mang trong ḿnh những đặc thù riêng biệt, xác lập sự hiện diện của một nền văn hóa khảo cổ - văn hóa Tràng An. Nó rất khác so với văn hóa khảo cổ Ḥa B́nh, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn, Hạ Long, Hoa Lộc cả về không gian cư trú, về chất liệu công cụ đá, kỹ thuật gia công công cụ, có sự giao thoa, tiếp xúc và diễn tiến văn hóa để bước từ nguyên thủy sang văn minh ở một địa bàn hết sức đặc trưng của thung lũng karst lầy trũng. Truyền thống khai thác nhuyễn thể ở hang động Tràng An c̣n được lưu truyền cho tới những người Việt sau này.[2]
Qua phân tích, đối sánh giữa nền văn hóa Tràng An với các văn hóa khảo cổ học đă biết, th́ ở Tràng An: Về vị trí địa lư là thung lũng đá vôi đầm lầy chứ không phải đá vôi vùng núi khác; Công cụ lao động không sử dụng đá cuội mà sử dụng bằng đá vôi; Phổ biến sử dụng đồ gốm hoa văn dấu thừng thô chứ không phải là dấu thừng mịn; Khai thác các loài vỏ nhuyễn thể (như vỏ ốc, trai, hàu) là nước ngọt và biển (đồng thời); Con người cư trú hầu như chỉ ở trong hang động, không ở ngoài trời và các hang động đó được sử dụng đến ngày nay (ban đầu là nơi cư trú, sinh sống sau này được sử dụng làm chùa, nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân địa phương); Niên đại kéo dài từ 25.000 năm đến 3.000 năm cách ngày nay.
Trong điều kiện tự nhiên đặc biệt, hầu như chỉ có đá vôi là chất liệu đá duy nhất, người Tràng An đă biết sử dụng nó làm công cụ lao động ít nhất cho đến cách ngày nay khoảng 3.000 năm, trong quá tŕnh đó đă nhận biết được rằng đá vôi đô-lô-mít thuộc loại chất liệu tốt nhất có thể có. Đồng thời với giai đoạn biển tiến lớn nhất cuối cùng (khoảng 7.000-4.000 năm trước), người tiền sử Tràng An đă biết tới nghệ thuật làm đồ gốm. Những chứng cứ sớm nhất được cho là tương đương với gốm Đa Bút (6.000 năm trước), nhưng thực tế đă được làm ra ở đây sớm hơn nhiều (khoảng 9.000 năm trước) và tiến hóa liên tục qua thời đại Kim khí đến tận sau này. Việc sử dụng đồ gốm từ sớm và liên tục ở Tràng An chứng tỏ rằng một trung tâm gốm sứ rất khác biệt so với nhiều trung tâm gốm sứ khác ở Việt Nam đă từng tồn tại ở đây. Ts. Masanari Nishimura (Nhật Bản) qua nghiên cứu khảo cổ học tiền sử Quần thể danh thắng Tràng An đă khẳng định: Cách đây 5.000-6.000 năm trước, có một trận động đất lớn ở Tràng An và người Việt cổ ở Tràng An đă trải qua nhiều sự biến đổi của thiên nhiên để thích ứng và phát triển cho đến ngày nay, tạo nên một giá trị về một nền văn hóa Tràng An.[3]
Hệ thống các di tích khảo cổ hang động trong Quần thể di sản thế giới Tràng An (Ninh B́nh) là một thí dụ nổi bật về một sự định cư truyền thống của loài người, việc sử dụng đất hoặc biển, mà đại diện cho một nền văn hóa (hoặc nhiều nền văn hóa) hoặc sự tác động của con người đến thiên nhiên đặc biệt khi nó trở nên bị nguy hại dưới tác động của sự thay đổi không thể thay đổi được. Điều này được chứng minh qua các tư liệu sau:
Truyền thống định cư hang động lâu dài từ thời tiền sử, cách đây 25.000 năm (C14 Hang Trống) đến các chùa hang mà người Việt đang sử dụng. Tại đây con người sống, khai thác nguồn lợi tự nhiên trong vùng karst nhiệt đới, gắn liền với những biến động địa chất mang tính toàn cầu (biển tiến, biển thoái), gắn liền với những phát minh vĩ đại của nhân loại (kỹ thuật mài trong chế tác công cụ, kỹ thuật làm đồ gốm, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi), một thí dụ điển h́nh về bước tiến của văn hóa nhân loại ở vùng biển cổ Ninh B́nh.
Địa tầng các di tích tiền sử Tràng An cho biết các giá trị văn hóa tiền sử ở đây phát triển bền vững, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành truyền thống (tradition). Theo thời gian, truyền thống ở đây không lặp lại nguyên gốc, mà do áp dụng kỹ thuật mới hoặc các dạng thức hoạt động mới đă nảy sinh cái mới (innovation), cái mới lại được cách tân (renovation) và gia nhập vào truyền thống. Cứ như vậy, truyền thống và cách tân là 2 chiều ngang và dọc, dệt nên bức tranh văn hóa tiền sử, làm nên giá trị bền vững, tinh hoa của các cộng đồng tộc người ở vùng Tràng An Ninh B́nh.
Các chứng tích văn hóa khảo cổ tiền sử ở Tràng An phong phú và đa dạng, là nguồn sử liệu vật thật minh chứng cho sự biến đổi đặc biệt về kinh tế, văn hóa, xă hội của cộng đồng cư dân nơi đây dưới sự tác động thay đổi môi trường karst, biến động của cổ khí hậu, của mực nước biển vùng nhiệt đới gió mùa. Đây là các chứng tích điển h́nh nhất cho loại h́nh cư trú liên tục trong hang động trước, trong và sau biển tiến, truyền thống khai thác và sử dụng nhuyễn thể biển và trên cạn, truyền thống săn bắt đa tạp, theo phổ rộng, săn bắt nhiều loài, mỗi loài một ít và không dẫn đến hủy diệt bầy đàn động vật đó; truyền thống chế tác và sử dụng công cụ đá vôi, sự nảy sinh kỹ thuật mài, cưa và kỹ thuật làm gốm và trồng trọt trong thung lũng đầm lầy là nét riêng độc đáo, làm nên giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể các di tích khảo cổ nơi đây.
Hệ thống các di tích khảo cổ tiền sử hang động Tràng An (Ninh B́nh) c̣n chứa đựng sự độc bản hoặc chí ít là chứng cứ đặc biệt về truyền thống văn hóa hoặc nền văn minh hiện c̣n tồn tại hoặc đă mất của nhân loại (tiêu chí:iii của một di sản thế giới).[4]
Dựa trên những dấu tích của nền văn hóa Tràng An c̣n lại cho thấy, các di tích tiền sử Tràng An phát triển qua 3 giai đoạn: Trước biển tiến Holocene trung (trước 6.000 năm cách ngày nay) có các di tích Hang Trống, Hang Bói, Mái đá Ông Hay, lớp dưới Mái đá Chợ và lớp sớm nhất Hang Ṃi. Giai đoạn biển tiến (6.000 - 4.000 năm cách ngày nay) có các di tích: Mái đá Vàng, Hang Ốc và lớp trên Hang Ṃi. Giai đoạn sau biển tiến (4.000 - 2.000 năm cách ngày nay) có các di tích: Hang Núi Tướng 1, Núi Tướng 2, lớp trên Mái đá Chợ, di tích Thung B́nh 1, Thung B́nh 2.
Các di tích ở Tràng An đều thuộc loại h́nh hang động, mật độ cao, phân bố không đều, tập trung ở khu trung tâm và vùng ŕa phía tây và tây nam, phần c̣n lại (phía bắc và phía đông) của quần thể di sản thế giới Tràng An có rất ít. Chúng phân bố thành nhóm, mỗi nhóm từ 4 đến 6 di tích, chiếm một vài thung lũng núi đá vôi liền khoảnh, thuộc các tiểu vùng cảnh quan khác nhau gồm nhóm 1, 2 ở trung tâm khối đá vôi Tràng An, tiêu biểu là các di tích Hang Trống, Hang Bói và Hang Ṃi, Mái đá Ông Hay, Mái đá Chợ, Mái đá Vàng. Các di tích này phân bố trong địa h́nh núi đá vôi dạng chóp nón, đỉnh nhọn, kết nối với nhau bằng các sống núi kiểu thành lũy, bao lấy các hố sụt, trũng kín, đáy bằng, tụ nước dạng đầm lầy, liên thông với nhau bằng các động xuyên thủy. Nhóm 3 ở ŕa phía tây khối đá vôi Tràng An, tiêu biểu là 4 hang: Thung B́nh 1, 2, 3, 4 và Hang Chùa. Đây là vùng núi đá vôi dạng tháp tách biệt nhau, thung lũng rộng, ngập nước và liên kết nhau qua mạng lưới sông suối. Nhóm 4 ở ŕa tây nam, tiêu biểu là Mái đá Ốc 1, 2, Núi Tướng 1, 2 và Hang Vàng. Cảnh quan nơi đây thuộc dạng chóp nón nối đỉnh, dạng dăy, thành lũy đan xen; thung lũng hẹp chạy dài theo phương tây bắc - đông nam, có nhiều hang xuyên thủy, xuyên thung. Nhóm 5 ở phía bắc, gồm các di chỉ Hang Áng Nồi, Hang Ông Mi, Hang Trâu, Hang Son. Các núi đá vôi ở đây đỉnh bằng, đứng tách rời nhau, rải rác trong các thung lũng ngập nước và được liên thông bởi hệ thống sông suối tự nhiên như sông Ngô Đồng, sông Đền Vối, sông Sào Khê, sông Bến Đang.[5]
florida80
05-01-2019, 17:39
Văn hóa Sơn Vi là một nền văn hóa ở Việt Nam vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách ngày nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Đây là nền văn hóa kế trước văn hóa Ḥa B́nh. Sơn Vi là tên một xă thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên t́m ra những di chỉ của nền văn hóa này. Đến nay đă có khoảng 160 địa điểm thuộc văn hóa Sơn Vi đă được phát hiện.[1]
Không gian của văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Những người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc. Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi g̣ trung du ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động, mái đá.
Công cụ lao động của người nguyên thủy trong văn hóa Sơn Vi làm từ đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Họ sống bằng săn bắn và hái lượm, chưa có trồng trọt và chăn nuôi.
florida80
05-01-2019, 17:40
Văn hóa Soi Nhụ gọi theo tên địa điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc vịnh Bái Tử Long, là nền văn hóa của người tiền sử được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện năm 1964 và khai quật năm 1967. Khái niệm và đặc điểm của nền văn hóa này đầu tiên được Ts. Hà Hữu Nga, Viện Khảo cổ học đề xuất trong Hội nghị thông báo "Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996" (Nhà Xuất bản KHXH, Hà Nội năm 1997).
Theo Ts. Hà Hữu Nga, văn hóa Soi Nhụ có niên đại tương đương với văn hóa Ḥa B́nh cũng như văn hóa Bắc Sơn của Việt Nam, và có thể có nguồn gốc từ 25.000 năm trước, ngang với văn hóa Ngườm khu vực Vơ Nhai, Thái Nguyên. Văn hóa Soi Nhụ phân bố trong khu vực các đảo đá vôi của Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, bao gồm cả Cát Bà Hải Pḥng, các huyện Vân Đồn, Cẩm Phả, Hoành Bồ, khu vực Ḥn Gai, Yên Hưng, Kinh Môn, Đông Triều thuộc Quảng Ninh và Hải Dương.
Văn hóa Soi Nhụ được chia làm 3 giai đoạn bao gồm:
1.Giai đoạn sớm ở các hang Áng Mả (Cát Bà), Thiên Long, Mê Cung, Tra Giới, và Hang Trống trên Vịnh Hạ Long, có niên đại khoảng từ 25.510 đến 17.000 năm;
2.Giai đoạn giữa gồm các hang Soi Nhụ trên, Tiên Ông, Bồ Quốc... trên Vịnh Hạ Long, có niên đại từ khoảng 16.000 đến 9.000 năm cách ngày nay;
3.Giai đoạn muộn gồm các hang động và mái đá Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Dơi (huyện Hoành Bồ), Phương Nam (Uông Bí) có niên đại từ 8000 - 6000 năm cách ngày nay.
Phản đối quan điểm của các nhà Tiền sử Úc đại diện là Peter Bellwood, coi nguồn gốc các văn hóa Mă Lai-Đa Đảo và các nền văn minh lúa nước Đông Nam Á xuất phát từ các văn hóa Ngưỡng Thiều, Long Sơn (Trung Quốc), Ts. Hà Hữu Nga khẳng định rằng các văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long, hậu duệ của văn hóa Soi Nhụ, chính là tiền thân của các nhóm văn hóa ngôn ngữ biển đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, sau này được biết dưới tên gọi các nhóm văn hóa thuộc ngữ hệ Mă Lai-Đa Đảo (Malayo-Polynesian). Cách tiếp cận đó phù hợp với một thực tế là cách ngày nay 5000-6000 năm, khi mực nước biển c̣n thấp, một trong những cái nôi của nền văn hóa biển Đông Nam Á chính là văn hóa Cái Bèo, phân bố rộng khắp trong khu vực Vịnh Hạ Long của Việt Nam, và kết nối dễ dàng với các hệ thống đảo khác của Đông Nam Á.
florida80
05-01-2019, 17:43
Văn hóa Ḥa B́nh[2] thuộc thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.
Dựa vào các di chỉ t́m thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Ḥa B́nh thành ba thời kỳ nối tiếp nhau:[3]
Ḥa B́nh sớm, hay Tiền Ḥa B́nh, có niên đại tiêu biểu là Di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TCN).
Ḥa B́nh giữa, hay Ḥa B́nh chính thống, tiêu biểu bởi Di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).
Ḥa B́nh muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
Vùng phân bố của Văn hóa Ḥa B́nh.
Năm 1923, bà Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá ra một số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Ḥa B́nh. Trong mấy năm liền sau đó, bà liên tục khám phá thêm mười hai hang động trong vùng Ḥa B́nh, khai quật được một số lượng di vật hiếm thấy. Sau khi phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá t́m thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề nghị xem toàn thể những di vật đặc biệt bằng đá cuội, với đặc điểm là chỉ được đẽo ở lưỡi hay ŕa, là của cùng một nền văn hóa, Văn hóa Ḥa B́nh hay Hoabinhien.[4]
Thời gian kể từ khi phát hiện các dụng cụ bằng đá và bằng xương tại di chỉ thuộc tỉnh Ḥa B́nh, các nhà khảo cổ c̣n phát hiện ở rất nhiều địa điểm khắp các quốc gia trong vùng như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra... cũng có những di tích có các công cụ cùng một kư thuật chế tác. Người ta c̣n t́m thấy các dụng cụ bằng đá cùng một văn hóa sinh sống ở những nơi xa hơn như Nhật Bản, Đài Loan, Australia... Tại hội nghị "60 năm sau Hoabinhian" tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Ḥa B́nh được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc.
Các di vật Văn hóa Ḥa B́nh
Vào thời kỳ đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học thực sự chưa khám phá đủ số lượng cần thiết và nhiều địa điểm chưa được khám phá, dựa trên các dụng cụ thô sơ chỉ đẽo một mặt nên việc đánh giá các di vật này chưa được chính xác với tầm quan trọng của Văn hóa Ḥa B́nh. Nhưng đến thập niên 1960 các khám phá khảo cổ gây sự chú ư các nhà khảo cổ học thế giới tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, các đảo nam Thái B́nh Dương khiến các nhà tiền sử học đặt lại vấn đề người tiền sử tại Đông Nam Á. Trước hết, nhà khảo cổ người Úc Gorman t́m thấy tại hang Ma (Spirit Cave) ở Thái Lan những dấu hiệu cho thấy người thuộc văn hóa Ḥa B́nh đă bắt đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, từ cỡ hơn 11 ngàn năm trước.
Những năm gần đây, các nhà khảo cổ học đă có những khám phá mang tính đột phá khi quan niệm mới về sự tiện dụng trong vùng Đông Nam Á nhiệt đới cổ xưa không cần hoàn toàn dựa vào các công cụ sinh hoạt và kiếm ăn bằng đá cuội, khi quan sát các bộ lạc c̣n sót lại và bị biệt lập tại các đảo trong quần đảo Indonesia và tập quán dùng đồ tre, nứa, và các loại mũi tên tẩm độc để săn bắn các con thú lớn, cũng như tập tục ăn ṣ, ốc biển, ốc nước ngọt, các loại cá sẵn có trong các làn nước ấm[5]. Luận điểm so sánh với các dụng cụ khác ở phương Tây đang được nhiều nhà khoa học xem xét lại.
Các di vật chính của thời kỳ Văn hóa Ḥa B́nh chính (niên đại sớm 12.000 năm cách ngày nay) tại tỉnh Ḥa B́nh và các tỉnh từ Quảng B́nh đến Thái Nguyên là các dụng cụ bằng đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi; các mảnh gốm không có h́nh thù do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của cư dân Văn hóa Ḥa B́nh[6] cho đến nay đă t́m thấy; các dụng cụ đào bới có cán tra, các ṿng trang sức bằng vỏ ốc. Thời kỳ này các nhà khảo cổ học cũng đă t́m thấy di cốt người ở vài địa điểm.
Di chỉ muộn của Văn hóa Ḥa B́nh được t́m thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000 TCN, thuộc Lạng Sơn). Các dụng cụ bằng đá ở đây đă có một tŕnh độ chế tác cao hơn nhiều, lưỡi đá đă được mài sắc, khảo cổ học gọi là "ŕu Bắc Sơn". Đồ gốm đă có tiến bộ, kỹ thuật được làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, rồi cuộn tṛn từ đáy lên miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi.
Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đă làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Người tiên phong trong việc đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là Wilhelm G. Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solheim II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau...
Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á - Nam Đảo. Và mới đây, Stephen Oppenheimer[7] c̣n đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đă đến vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy.[8]
Chú ư rằng những đánh giá này chưa có cập nhật những thành tựu mới từ cuối thế kỷ 20 đến nay, trong đó có nghiên cứu sinh học phân tử, cho ra bằng chứng mới xác định loài người h́nh thành từ châu Phi và phát tán ra khắp thế giới (Out-of-Africa).
florida80
05-01-2019, 17:44
Văn hóa Bắc Sơn là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau nền văn hóa Ḥa B́nh, cách ngày nay từ một vạn đến tám ngàn năm. Bắc Sơn là đặt theo tên huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), nơi đầu tiên phát hiện những di vật của nền văn hóa này. Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa Ḥa B́nh đă tạo ra nền văn hóa Bắc Sơn
Không gian của Văn hóa Bắc Sơn là các miền đất thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Ḥa B́nh, Ninh B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An... ngày nay. Tính đến năm 1997, đă có 51 điểm văn hóa Bắc Sơn được t́m thấy và khai quật. Trong số đó, có 8 địa điểm t́m thấy di cốt người.
Người nguyên thủy trong nền văn hóa Bắc Sơn trú trong hang động, mái đá gần sông, suối. Họ sống bằng săn bắn, hái lượm. Họ cũng bắt đầu canh tác nông nghiệp ở mức độ rất sơ khai. Công cụ lao động của họ làm bằng đá đẽo hoặc mài và từ tre, gỗ. Các công cụ này tỏ ra tinh vi hơn so với công cụ của người nguyên thủy thời văn hóa Ḥa B́nh. Đặc biệt, người nguyên thủy thời văn hóa Bắc Sơn đă biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hơn so với người thời văn hóa Ḥa B́nh và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn
florida80
05-01-2019, 17:47
Văn hóa Quỳnh Văn (thời đại đồ đá mới, khoảng 6.000 – 3.500 năm cách ngày nay) được phát hiện từ những năm 1930 bởi các học giả người Pháp. Cho đến nay đă có hơn 70 năm nghiên cứu với 21 di tích, phân bố ở ven biển Nghệ An và Hà Tĩnh, chủ yếu tập trung xung quanh vịnh biển cổ Quỳnh Lưu. Đây là các di tích "đống rác bếp" (Kjökkenmodding), thành phần chủ yếu là các loại điệp. Trong các lớp điệp c̣n có xương cốt động vật, di vật đá, gốm và bếp lửa. Công cụ đá Quỳnh Văn ít về số lượng, nghèo nàn về loại h́nh, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ, chủ yếu được tạo từ đá gốc. Loại h́nh thường thấy là các công cụ không xác định, công cụ h́nh đĩa, công cụ h́nh múi bưởi, công cụ h́nh ŕu dài và công cụ h́nh ŕu ngắn. Đồ gốm thô, hầu hết là đồ đun nấu với kích thước lớn, được tạo h́nh bằng tay kết hợp với bàn đập ḥn kê. Đồ gốm có bốn loại chủ yếu: gốm đáy tṛn văn in đập, gốm đáy tṛn văn thừng, gốm đáy tṛn văn thừng ở mặt ngoài và văn chải ở mặt trong, gốm đáy nhọn văn chải 2 mặt. Gốm đáy nhọn, văn chải 2 mặt là đặc trưng tiêu biểu nhất của văn hóa Quỳnh Văn. Các loại h́nh hiện vật khác như xương, đồ trang sức có số lượng ít
Tại Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) con người đă đánh bắt ṣ điệp về ăn và vứt vỏ lại ngay nơi cư trú của họ, lâu ngày vỏ tích lại thành những đồi lớn. Người Quỳnh Văn đă biết làm đồ gốm. Gốm được nặn bằng tay, chưa biết dùng bàn xoay, nhưng đă có độ dày khá đều. Người Quỳnh Văn sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, săn bắt và bước đầu đă biết đến nông nghiệp. Các nhà khảo cổ học xếp di chỉ Quỳnh Văn là loại tiêu biểu nhất của văn hóa đồ đá mới có gốm ở ven biển Nghệ Tĩnh.
Di tích
Tại đồi vỏ hến Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đă t́m được nhiều chiếc ŕu làm bằng đá cuội, chỉ mài ở lưỡi và khá nhiều mảnh gốm c̣n thô vụng, độ nung thấp. Đồ gốm ở đây đă phát triển hơn đồ gốm trong văn hóa Bắc Sơn. Chủ nhân di chỉ Đa Bút là những người săn bắt, đánh cá và cũng đă biết đến thuần dưỡng súc vật như ḅ, chó … Khảo cổ học xếp di chỉ này vào giai đoạn "đồ đá mới cuối Bắc Sơn".
florida80
05-01-2019, 17:48
Văn hóa Cái Bèo có niên đại trước nền văn hóa Hạ Long. Di chỉ Cái Bèo được phát hiện vào năm 1938 trong lần tiến hành thám sát khảo cổ học ven biển khu vực liên quan thuộc vùng vịnh Hạ Long ngày nay. Di chỉ Cái Bèo khai quật được hơn 479 công cụ như chày, bàn nghiền, bàn mài, ḥn kê, ŕu bôn, đục, ch́ lưới … bằng đá cuội. Đồ gốm thô cứng làm từ đất sét và cát hạt khô, bếp, di cốt người; các xương răng động vật, xương thú như lợn rừng, nai, dê núi. Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Cái Bèo thuộc nền văn hóa Hạ Long, bởi phân tích rơ ra là cư dân Cái Bèo cùng với thời gian và xu hướng chuyển cư của người Ḥa B́nh – Bắc Sơn từ vùng núi xuống biển. Sau đợt biển tiến Haloxen Trung làm nảy sinh các hoạt động kinh tế riêng biệt của từng vùng. Riêng cư dân đảo Cát Bà, trong đó có người cổ Cái Bèo làm nghề đánh cá là chủ yếu
florida80
05-01-2019, 17:49
Văn hóa Đa Bút là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau các nền văn hóa Ḥa B́nh và Bắc Sơn, cách đây từ 5000 đến 6000 năm. Không gian của văn hóa Đa Bút là dải đất nằm từ hữu ngạn sông Đáy đến lưu vực sông Mă thuộc các tỉnh Ninh B́nh và Thanh Hóa ngày nay. Tính đến năm 2010, đă có hơn 10 điểm văn hóa Đa Bút được phát hiện và khai quật. Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa Đa Bút đă tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.[
florida80
05-01-2019, 17:50
Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Phùng Nguyên là tên một làng ở xă Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên t́m ra các di chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đă được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh B́nh, Hà Nội, Hải Pḥng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng. Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đă được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề t́m thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quư, ngọc được t́m thấy nhiều, đặc biệt là các ṿng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đă biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.
Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên c̣n có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mă), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mă (huyện Sông Mă, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).
Cho tới nay, hơn 60 di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên đă được phát hiện. Các di tích này phân bố trong phạm vi rộng khắp châu thổ Bắc Bộ, chủ yếu là dọc theo lưu vực các con sông lớn: như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy … tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Ninh B́nh, Hà Nội, Bắc Ninh …[1]
Di chỉ Phùng Nguyên được lấy làm tên xác lập cho nền văn hóa Phùng Nguyên tọa lạc tại xă Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Di chỉ Phùng Nguyên đă được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m2 trong những năm từ 1959 đến 1970.
Di chỉ Mán Bạc ở thôn Bạch Liên, xă Yên Thành, huyện Yên Mô (Ninh B́nh), thuộc hệ thống đứt găy của dải núi đá vôi Tam Điệp chạy ra tới biển. Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Mán Bạc thuộc giai đoạn văn hóa cuối Phùng Nguyên, đầu Đồng Đậu, có niên đại gần 4.000 năm. Cư dân cổ Mán Bạc sống trên toàn bộ doi đất cao mà nhân dân thường gọi là G̣ Vụng, được dải núi Mán Bạc bao quanh theo thế h́nh ṿng cung tạo ra một nơi rất kín. ở đó, cư dân yên tâm sinh sống v́ có thể tránh được thời tiết xấu. Năm 1999, các nhà khảo cổ Việt Nam đă tiến hành khai quật di chỉ Mán Bạc lần thứ nhất, và đă t́m thấy 5 mộ táng và 6 cá thể. Trong lần khai quật lần thứ hai, với diện tích 24m2, các nhà khảo cổ đào được 10 mộ với 11 cá thể. Người chết được chôn theo tư thế nằm ngửa, tay chân duỗi thẳng, mặt nghiêng về bên trái. Các nhà khảo cổ cũng thu được 39 chiếc ŕu, 8 đục, 6 hạt chuỗi, 10 mảnh ṿng, 2 bàn đập vải vỏ cây, 3 nồi gốm, 1 bát đồng, 3 hiện vật h́nh nấm c̣n khá nguyên vẹn... và hàng trăm kilogam vỏ nhuyễn thể. Đây cũng là di chỉ đầu tiên trong giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên giữ được di cốt người c̣n khá nguyên vẹn. Đối chứng với mẫu bào thai 8 tháng tuổi ở Viện Giải phẫu, các nhà khảo cổ đă khẳng định những di cốt được t́m thấy ở một số mộ là trẻ sơ sinh (chiếm tới 50%).[2]
Di chỉ khảo cổ học Văn Điển, Tân Triều (ở Thanh Tŕ – Hà Nội) và gần đây đă phát hiện di chỉ Phùng Nguyên muộn tại di tích Đàn Xă Tắc (Đống Đa - Hà Nội).
Các di chỉ khác: Hồng Đà (Phú Thọ), Tràng Kênh (Hải Pḥng), Băi Tự (Bắc Ninh
florida80
05-01-2019, 17:52
Văn hoá Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên, trước văn hóa G̣ Mun. Tên của nền văn hóa này đặt theo tên khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, nơi các nhà khảo cổ học đă khám phá ra một nền văn hóa đồ đồng phong phú năm 1962.
Văn hóa Đồng Đậu đồ đá tuy có vị trí quan trọng nhưng đă có sự suy thoái, ŕu đá giảm nhưng mũi tên đá lại tăng chứng tỏ thời ḱ này có nhiều công cụ sử dụng mũi tên.
Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các đồi g̣ trung du Bắc Bộ với một nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa trên nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa màu. Các dấu tích luyện kim như xỉ đồng, các mảnh khuôn đúc (bằng đá) cho thấy nghề đúc đồng đă có và phát triển thời kỳ này.
florida80
05-01-2019, 17:54
Văn hóa G̣ Mun ước chừng trong khoảng thời gian từ năm 1.000 - năm 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa này được đặt tên theo địa điểm mà vào năm 1961 các nhà khảo cổ học đă khai quật được nhiều di chỉ của nền văn hóa này (g̣ Mun, xă Tứ Xă, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
Văn hóa G̣ Mun được nh́n nhận như là nền văn hóa tiền văn hóa Đông Sơn. Thời kỳ này, người Việt cổ đă có những chuyển biến rơ rệt về một xă hội phức tạp và giàu có, thúc đẩy việc ra đời nhà nước sơ khai của người Việt.
Rời Đồng Đậu và các di chỉ đồng dạng, chúng ta hăy đi thăm G̣ Mun cùng với hơn 10 địa điểm khảo cổ khác thuộc giai đoạn văn hóa G̣ Mun được phân bố trên một địa bàn về cơ bản phù hợp với địa bàn các địa điểm thuộc những giai đoạn trước. Đó là Băi Dưới, Vinh Quang, Đ́nh Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm... thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội.
Người G̣ Mun cũng thích ở trên những g̣ đồi cao nổi lên giữa vùng đồng bằng và trung du; họ bắt đầu thích tập trung ở những vùng chân g̣, những vùng g̣ thấp ven các sông Hồng, Cầu, Đáy, Cà Lồ... Cuộc sống định cư lâu dài của họ đă để lại những tầng văn hóa khá dày.
Đến giai đoạn G̣ Mun, công cụ và vũ khí đồng thau đă chiếm tỷ lệ trên 50% tổng số công cụ và vũ khí, với các loại mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, dao, giáo, dây, kim, giũa, dùi, đục. Loại ŕu lưỡi xéo đă xuất hiện dưới dạng hoàn chỉnh với mũi ŕu hơi chúc và lưỡi hơi cong. Đồ đồng thau G̣ Mun đă được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp: những lưỡi hái đă được phát hiện; những chiếc ŕu cũng đă được sử dụng như những nông cụ.
Đồng thau cũng được dùng làm đồ trang sức: ṿng tay được uốn bằng những dây đồng.
Đồ gốm G̣ Mun có độ dày rất đều, độ nung cao (khoảng 900°C); có mảnh được nung gần thành sành. Gốm có màu xám xanh, xám mốc. Người thợ gốm G̣ Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đă có từ giai đoạn Đồng Đậu. Các miệng gốm G̣ Mun thường được bẻ loe ra, nằm ngang, rộng bản, góc tạo thành giữa cổ và thân thường là góc nhọn. Những loại h́nh thường gặp là các loại nồi, các loại ṿ, b́nh cổ cao, chậu, âu, bát đĩa, cốc. Chân đế có xu hướng thấp dần, loại đáy bằng xuất hiện, h́nh dáng ổn định, thanh thoát. Ngoài ra c̣n có các loại bi, dọi xe chỉ, ch́ lưới.
Loại hoa văn độc đáo và phổ biến của gốm Đồng Đậu là hoa văn nan chiếu, và hoa văn khắc vạch: những đường nét này được phối trí hài ḥa với những ṿng tṛn nhỏ tạo nên những đồ án sinh động kết thành một dải quây ṿng phủ kín miệng gốm, làm thành đặc trưng chủ yếu của hoa văn gốm G̣ Mun.
Kỹ thuật chế tác đá đang ở trên bước đường suy thoái. Đó là do sự phong phú và sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau. Những cái hái bằng đồng thau phát hiện được ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nông nghiệp trồng lúa. Hợp kim đồng thau để đúc hái có 89% đồng và 0,1% thiếc với những vết ch́. Trong số những công cụ bằng đồng thau dùng để thu hoạch hoa màu của người xưa ở vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, loại hái G̣ Mun lưỡi cong, có gờ ở giữa, họng tra cán h́nh chóp cụt là có h́nh dáng hoàn thiện và tiến bộ hơn cả.
Lần đầu tiên những mũi tên đồng thau xuất hiện, với loại h́nh đa dạng và số lượng nhiều, đ̣i hỏi những tiến bộ về kỹ thuật và cũng đ̣i hỏi phải có một khối lượng nguyên liệu lớn để đáp ứng đủ nhu cầu, v́ mũi tên một lần bắn đi là mất "một đi không trở lại". Truyền thống giỏi cung nỏ của người Việt cổ khiến quân thù xâm lược ở buổi đầu công nguyên phải khiếp sợ và khâm phục, vốn đă có một gốc rễ lâu bền từ giai đoạn G̣ Mun này.
Sự phát triển của nghề thủ công luyện kim đă có ảnh hưởng lớn không những đến sự phát triển của nông nghiệp mà c̣n thúc đẩy sự hoàn thiện của các nghề thủ công khác - trừ nghề làm đồ đá.
Những mũi giáo gỗ phát hiện được ở giai đoạn G̣ Mun cho chúng ta biết rằng nghề làm đồ gỗ - một nghề cũng có truyền thống xa xưa như nghề làm đồ đá - vẫn tiếp tục tồn tại và cải tiến.
Người G̣ Mun sống bằng nghề làm ruộng trồng lúa nước là chính, đồng thời họ cũng là những người chăn nuôi, săn bắn, đánh cá. Đây là một cung cách làm ăn tiến bộ, cũng là cách làm ăn của mọi dân cư ở những vùng trung tâm nông nghiệp của thế giới cổ đại.
Hiện vật khảo cổ cho thấy rơ: giai đoạn G̣ Mun được phát triển trực tiếp lên từ giai đoạn Đồng Đậu và có mối liên hệ chặt chẽ với các giai đoạn phát triển trước đó. Đồng thời giai đoạn G̣ Mun cũng chứa đựng những tiền đề vật chất cho sự phát triển của một giai đoạn cao hơn vào cuối thời đại đồng thau và đầu thời đại đồ sắt ở nước ta: giai đoạn văn hóa Đông Sơn.
Phùng Nguyên - Đồng Đậu - G̣ Mun: 3 giai đoạn lớn của thời đại đồng thau trong đó cư dân nông nghiệp Việt cổ, người Phùng Nguyên, người Đồng Đậu, người G̣ Mun ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, đă từng bước chế ngự thiên nhiên, làm ruộng lúa, phát huy được tính ưu việt của nền kinh tế nông nghiệp, bước vào chế độ ḍng cha, làm chủ vùng tam giác châu thổ sông Hồng, mở đường cho một giai đoạn văn hóa rực rỡ, đỉnh cao thời đại dựng nước: giai đoạn Đông Sơn.
Trích từ: Hành Tŕnh Về Thời Đại HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
Di vật
Phân bố trên cùng địa bàn với văn hoá Phùng Nguyên và văn hóa Đồng Đậu trước đó, trong các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây và Hà Nội, chủ nhân văn hóa G̣ Mun là cư dân nông nghiệp. Công cụ và vũ khí bằng đồng khá đa dạng, gồm ŕu, liềm, dao, giáo, lao, mũi tên... Đồng cũng được dùng làm chuông, ṿng tay, khuyên tai, trâm cài và tượng động vật. Đồ gốm có độ nung cao. Phổ biến nhất là các loại b́nh, nồi có miệng loe găy và trang trí hoa văn khắc vạch phía trong miệng. Văn hóa G̣ Mun phát triển lên từ văn hóa Đồng Đậu và tồn tại trước văn hóa Đông Sơn, trong khoảng thế kỉ XI đến thế kỉ VII TCN.
florida80
05-01-2019, 17:58
Văn hóa Đông Sơn là một nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam (Phú Thọ, Yên Bái, Ḥa B́nh, Hà Nội, Ninh B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh mà trung tâm là khu vực Đền Hùng), và ba con sông lớn và chính của đồng bằng Bắc Bộ (sông Hồng, sông Mă và sông Lam) vào thời kỳ đồ đồng và thời kỳ đồ sắt sớm. Nền văn hóa này được đặt tên theo địa phương nơi các dấu tích đầu tiên của nó được phát hiện, gần sông Mă, Thanh Hóa. Nhiều dấu tích đặc trưng cho văn hóa Đông Sơn cũng được t́m thấy ở một số vùng lân cận Việt Nam như ở Vân Nam, Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc, ở Lào hay ở Thái Lan...
Có những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn nhà nước văn minh đầu tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối tiếp là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương đă phát triển, trước khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Hán. Theo đánh giá của các nhà khoa học, th́ nền Văn hóa Đông Sơn là sự phát triển liên tục và kế thừa từ các thời kỳ tiền Đông Sơn trước đó là Văn hóa Phùng Nguyên đến Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa G̣ Mun.
Lịch sử khám phá[sửa | sửa mă nguồn]
Năm 1924, một người câu cá tên Nguyễn Văn Lắm đă ngẫu nhiên t́m được một số đồ đồng ở làng Đông Sơn (thành phố Thanh Hóa) ven sông Mă, thuộc địa phận Thanh Hóa. Tiếp đó là những cuộc khai quật của một viên thuế quan Pháp yêu khảo cổ tên là L. Paijot, người đầu tiên khai quật thấy các hiện vật thuộc một nền văn hóa lớn mà 10 năm sau đó, năm 1934, đă được định danh là Văn hóa Đông Sơn. Tên của ngôi làng nhỏ nhắc tới ở trên đă trở thành tên của cả một nền văn hóa rực rỡ thuộc thời đại kim khí cách đây 2000-3000 năm. Người nói đến danh từ "Văn hóa Đông Sơn" đầu tiên là học giả R. Heine-Geldern. Năm đó là năm 1934. Sau 80 năm kể từ khi được khám phá, đă có hơn 200 di tích và hàng vạn di vật Đông Sơn được phát hiện và nghiên cứu.
Tuy nhiên, không như nữ học giả Madelène Colani (người đầu tiên dùng danh từ Văn hóa Ḥa B́nh), Heine-Geldern đă định nghĩa về nền Văn hóa Đông Sơn như là một nền văn hóa du nhập từ văn hóa Hán và xa nữa từ Tây phương, thường được gọi là nền văn minh Hallstatt hay là nền văn minh La Tène của Châu Âu. Những học giả kế tiếp học giả Geldern, khi nghiên cứu về Văn hóa Đông Sơn cũng có một cái nh́n tương tự giống Geldern - như V. Goloubew, E. Karlgren và nhất là O. Jansé. Những học giả này đều có những tác phẩm lớn; v́ vậy không những có ảnh hưởng đến các học giả quốc tế, mà c̣n ảnh hưởng đến những học giả Việt Nam.
Tuy nhiên tất cả các lập luận đầu tiên đều cho thấy sự đánh giá sai lầm khi mà Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại sớm hơn 1000 năm hé lộ, Văn hóa Đông Sơn là văn hóa bản địa và có sự kế thừa từ Phùng Nguyên.
Tất cả những giả thuyết trên đây đă vô t́nh đẩy các nhà khoa học đi xa trong các lập luận sau này. Nhưng hiện nay việc nh́n nhận lại nguồn gốc của các cư dân thuộc Văn hóa Đông Sơn đă hé mở các khả năng mới: người dân ở Đông Sơn cách ngày nay trên 3.000 năm là thuộc một chủng tộc gọi là Mongoloid mà về mặt nhân chủng học th́ họ có một vùng cư trú rộng lớn bao gồm cả miền Nam Trung Quốc - lănh thổ của nước Nam Việt sau khi Triệu Đà chiến thắng Vương quốc Âu Lạc.
Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hóa phát triển cùng thời ven biển Đông như văn hóa Sa Huỳnh (ở Nam Trung Bộ) và văn hóa Đồng Nai (ở lưu vực sông Đồng Nai).
Tổng quan[sửa | sửa mă nguồn]
Trống đồng Sông Đà trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp.
Nói chung, đă có chứng cớ rơ rệt là người hiện đại cổ nhất t́m thấy là ở đảo Kalimantan, mà đảo đó với đất nay là Việt Nam thời đó 39.600 năm về trước là một dải đất liền không bị ngăn cách bằng biển cả. Những người gần với người Hiện đại nhất cũng t́m thấy ở ngay vùng gần biên cương miền Bắc nước Việt hiện nay là làng Mă Bá thuộc tỉnh Quảng Đông.
Hiện nay người ta bước đầu mới t́m thấy bằng chứng xưa nhất về các cư dân sinh sống ở vùng Bắc Bộ Việt Nam là khoảng 18.000 năm thuộc Di chỉ Sơn Vi. Nhưng một thực tế rằng, khu vực Bắc Bộ Việt Nam thuộc khu vực Bắc lục địa Đông Nam Á là một vùng đất trung gian nối liền hai trung tâm là Kalimantan và Mă Bá (Quảng Đông) là những nơi cho đến nay đă t́m thấy Người hiện đại (homo sapiens) có niên đại cách ngày nay trên dưới 40.000 năm.
Tại Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm chứng, so sánh với ư kiến của các học giả khác, đă được xuất bản năm 1980[1]. Cho đến lúc này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng t́m thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C-14 = 1425 ± 100BC [BLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên đại C-14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi)[2]; đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất v́ đă biết pha với ch́ khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có ch́)[3].
Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ kế thừa của các nền Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa G̣ Mun và có các điểm chính phải nhấn mạnh:
Văn hóa lúa nước phát triển, thực phẩm dồi dào và có dự trữ dẫn đến sự phân cấp xă hội người Việt cổ.
Kỹ thuật đúc đồng mà đỉnh cao là các trống đồng Đông Sơn.
Kỹ thuật về quân sự mà đỉnh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và nỏ).
Sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xă thôn tự trị mà đỉnh cao là sự thành lập nhà nước Văn Lang.
Các loại h́nh văn hóa Đông Sơn[sửa | sửa mă nguồn]
Loại h́nh sông Hồng[sửa | sửa mă nguồn]
Địa bàn chủ yếu của loại h́nh này là vùng miền núi phía Bắc, vùng Trung du và đồng bằng Bắc bộ, với trung tâm là làng Cả (nay ở thành phố Việt Tŕ). Đặc trưng của loại h́nh là sự phong phú, đa dạng, mang nhiều sắc thái địa phương rơ rệt.
Loại h́nh sông Mă[sửa | sửa mă nguồn]
Địa bàn phân bố của loại h́nh chủ yếu thuộc lưu vực sông Mă, sông Chu, ranh giới phía Bắc của nó tiếp giáp với địa bàn của Văn hóa Đông Sơn loại h́nh sông Hồng. Trung tâm là làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Đặc trưng của loại h́nh sông Mă mang đặc trưng của Văn hóa Đông Sơn điển h́nh. Đặc biệt những đồ đồng thuộc trung tâm Đông Sơn là tiêu chí để nhận biết cho đồ đồng thuộc các loại h́nh địa phương khác hay để phân biệt giữa Đông Sơn với những nền văn hóa kim khí khác.
Loại h́nh sông Cả[sửa | sửa mă nguồn]
Loại h́nh này được phát hiện lần đầu vào năm 1972. Trung tâm là làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An). Đặc trưng cơ bản của loại h́nh này là có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và văn hóa Điền (Vân Nam, Trung Quốc), đồng thời cũng mang những nét đặc trưng riêng biệt, nằm trong tổng thể nhất quán của Văn hóa Đông Sơn.
Luân canh và chăn nuôi trong nông nghiệp[sửa | sửa mă nguồn]
Xem bài chính Văn minh lúa nước
Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là kỳ lạ, người Việt trong cộng đồng chủng Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.
Trong di chỉ khảo cổ cho thấy một bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, vào giữa và cuối thời kỳ Đông Sơn đă xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng đă chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn.
Lưỡi cày và di cốt trâu, ḅ nuôi chứng minh một tŕnh độ luân canh định cư của cư dân Đông Sơn dẫn đến có một lượng thặng dư về thực phẩm. Điều này thúc đẩy một bộ phận dân cư chuyển sang làm các ngành nghề như đồ gốm, dệt, đồ trang sức, xây dựng, luyện kim, làm sơn...
Công nghệ luyện kim và sự hoàn hảo về công nghệ đúc đồng
Thuật luyện kim
https://i.imgur.com/ks6mBeA.jpg
Mảnh giáp dạng vảy bằng đồng, thế kỷ 3 - 1TCN.
Miền Bắc Việt Nam từ ngh́n xưa vốn có nhiều mỏ kim loại như các mỏ vàng, bạc, ch́, sắt, đồng... Các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa... có hàng chục mỏ đồng. Những mỏ này thường nhỏ, nông và lộ thiên, thuận tiện cho cách khai thác giản đơn. Đó là điều kiện đầu tiên để có thể phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ.
Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, giai đoạn cực thịnh của thời đại Hùng Vương th́ thấy trong thành phần hợp kim đồng, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống và tỷ lệ ch́ tăng lên.
Việc sáng tạo ra loại hợp kim mới này không phải là ngẫu nhiên mà là xuất phát từ những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật của cả một thời kỳ lịch sử. Trong các giai đoạn trước Đông Sơn hợp kim đồng chủ yếu dùng để chế tạo các đồ nghề, đ̣i hỏi có tính năng kỹ thuật sắc bén, bền chắc. Đến giai đoạn Đông Sơn, đồng chuyển mạnh vào lĩnh vực đồ dùng hằng ngày; các loại thạp, thố, trống đồng đ̣i hỏi sản xuất nhiều. Những đồ vật này lại cần phải trang trí đẹp, phức tạp và như vậy cần hợp kim có tính năng dễ đúc để dễ dàng tạo nên các chi tiết tinh xảo sắc nét trong khi đúc. V́ vậy mà người Việt cổ sử dụng hợp kim đồng - thiếc - ch́.
Dao găm Đông Sơn
Dao găm Đông Sơn có trang trí h́nh người ở chuôi dao.
Mặt khác, hợp kim mới với 3 thành phần chính có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, do đó giảm bớt những khó khăn trong việc nấu và đúc, và như vậy, người Việt cổ lúc đó đă bước đầu biết đến mối quan hệ giữa thành phần và tính chất của hợp kim, mà thuật ngữ khoa học kỹ thuật luyện kim hiện đại gọi là điểm nóng chảy thấp.
Điều nữa, c̣n nhận thấy rằng ở giai đoạn Đông Sơn, thành phần của các kim loại trong hợp kim đồng - thiếc - ch́ (hoặc đồng - ch́ - kẽm) lại thay đổi theo chức năng của từng loại đồ nghề, đồ dùng hay vũ khí.
Ví dụ:
Mũi tên đồng ở Cổ Loa có thành phần: đồng: 95%, ch́: 3,4-4,2%, kẽm: 1-1,1%. Tỷ lệ này đảm bảo hợp kim có độ cứng lớn nhất để đảm bảo tính năng xuyên thủng áo giáp.
Lưỡi giáo Thiệu Dương có thành phần: đồng: 73,3%, thiếc: 13,21%, ch́: 5,95% để đảm bảo cho vũ khí vừa dẻo vừa bền.
Ŕu x̣e cân Thiệu Dương có thành phần: đồng: 82,2%, thiếc: 10,92%, ch́: 0,8% và ŕu lưỡi xéo Thiệu Dương có thành phần: đồng: 82,2%, thiếc: 6,8%, ch́: 1,4%, nhờ vậy vật liệu sẽ có độ cứng nhưng không gịn và có thể chặt, cắt tốt.
Về phương pháp chế tác các công cụ đồng, có thể nhận thấy ngoài một số ít công cụ cỡ nhỏ như lưỡi câu, mũi nhọn... mang dấu vết của kỹ thuật rèn, c̣n hầu hết các di vật đồng là sản phẩm đúc. Cho đến nay đă t́m thấy hơn 30 loại khuôn đúc giáo, dao găm, ŕu, mũi dùi, mũi tên... Những khuôn đúc này hoặc bằng đất hoặc bằng đá và sa thạch.
Khuôn đúc bằng đất t́m thấy ở Đồng Đậu, Cam Thượng, đất sét làm khuôn được phát hiện ở nhiều địa điểm trong các tỉnh Cao Lạng, Vĩnh Phú, Hà Sơn B́nh, Hà Nội, B́nh Trị Thiên. Các khuôn đá t́m thấy đều là khuôn có hai mảnh (ví dụ các khuôn đúc ŕu), mặt giáp hai mảnh rất nhẵn và kín, nếu úp mặt 2 mảnh rồi soi lên, chúng ta không thấy có chút ánh sáng nào lọt qua.
Di vật t́m thấy đă gặp những khuôn đúc đồng thời đúc được nhiều dụng cụ một lúc, ví dụ khuôn đất đúc 3 mũi dùi, khuôn đá đúc 2 mũi tên cùng một lúc ở Đồng Đậu. Việc t́m thấy những chiếc dao găm có chuôi h́nh người ở Tràng Kênh Hải Pḥng với cán dao trang trí đặc trưng h́nh người có đầy đủ mũ, áo, quần với trang trí tinh xảo.
Công cụ sản xuất nông nghiệp Đông Sơn có các loại: lưỡi cày, thuổng, ŕu, cuốc, mai, vời...
Công cụ sản xuất thủ công có các loại đục (đục bẹt, đục vũm, đục một), nạo, dùi, giũa, dao, dao khắc, ŕu, kim, dây...
Về mặt kỹ thuật, đặc trưng hợp kim đồng của giai đoạn Đông Sơn là hàm lượng ch́ cao, có khi đến 20%. Các nhà khảo cổ học cho rằng hợp kim đồng - thiếc - ch́ là một sáng tạo của kỹ thuật luyện đồng của người Đông Sơn. Vào cuối giai đoạn Đông Sơn, công cụ sắt đă tương đối phổ biến: đó là các loại cuốc, mai, búa, đục, dao, giáo, kiếm...
Ŕu gót vuông có trang trí h́nh chó săn hươu.
Ṿng đeo chân
Ṿng đeo tay
Lẫy nỏ
Trống đồng lớn và thẩm mỹ[sửa | sửa mă nguồn]
Xem bài chính Trống đồng Đông Sơn
Trống đồng Ngọc Lũ loại I
Văn hóa Đông Sơn, kể từ văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm này, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồ đồng có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồ đồng ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgren và O. Jansé, đều sai lầm khi cho rằng nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc từ bên ngoài. Người th́ cho rằng nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Âu-Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn. Có người lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycenae của Hi Lạp và theo một hành tŕnh rất phức tạp qua trung gian các nền văn minh Trung Ấn, rồi Tây Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực sông Hoàng Hà, sinh ra văn hóa đồ đồng đời nhà Thương ở Trung Hoa.
Nhưng các lập luận của các nhà nghiên cứu trên chỉ đứng vứng khi chưa phát hiện ra văn hóa Phùng Nguyên xưa hơn khoảng 1.000 năm so với những di vật ở Đông Sơn.
Thành tựu văn hóa - nghệ thuật[sửa | sửa mă nguồn]
Thổi Khèn thuộc văn hóa Đông Sơn
Các sinh hoạt văn hóa của cư dân Đông Sơn được mô tả khá phong phú trên các hoa văn rất sắc nét của trống đồng. Thật may mắn cho những trang sử được chạm khắc trên chất liệu đồng đă lưu giữ cho người Việt Đông Sơn một trong những chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn.
Các yếu tố thuộc về văn hóa ở Đông Sơn không hề có bóng dáng của yếu tố bên ngoài. Bởi v́ thời điểm Văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ nhất và thông qua niên đại xác định bằng C-14, th́ cách ngày nay trên 2.500 năm.
Nghệ thuật Đông Sơn cho ta thấy sự cảm nhận tinh tế của các cư dân thời đó qua khả năng chạm khắc, tạo h́nh tinh tế và một đời sống ca múa nhạc phong phú. H́nh chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn cho ta thấy những h́nh người thổi kèn, các vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công (một loài chim đặc sắc phương Nam nhiệt đới), nhà sàn của cư dân vùng nhiệt đới Đông Nam Á, bộ sưu tập về các loài chim cổ mà ngày nay nhiều trong các số loài đó đă tuyệt chủng.
Đồ dùng Đông Sơn gồm có các loại thạp, có nắp hay không nắp, với những đồ án hoa văn trang trí phức tạp, những thổ h́nh lẵng hoa có chân đế và vành rộng, các loại gùi, ṿ, ấm, lọ, chậu. Qua đó làm chứng cứ về một xă hội phức tạp trên cơ sở các đại gia đ́nh, các ḍng họ trong cộng đồng làng xă đă định cư ổn định.
Người Đông Sơn trang sức bằng các loại ṿng tay, ṿng ống ghép, nhăn, hoa tai, móc đai lưng, bao tay, bao chân, ví dụ như bao tay và bao chân t́m thấy ở di tích Làng Vạc, Nghệ An.
Nghệ sĩ tạc tượng Đông Sơn để lại cho chúng ta nhiều loại tượng người, tượng thú vật như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi...
Nhạc sĩ Đông Sơn đă diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng.
Số lượng trống đồng Đông Sơn t́m được cho đến nay trên vùng đất Việt Nam đă khoảng 140, chiếm già nửa số lượng trống loại này hiện đă biết ở Đông Nam Á.
Tín ngưỡng - tập tục[sửa | sửa mă nguồn]
Thạp đồng có h́nh trai gái giao hoan.
Cây đa bên cổng làng của người Việt.
Trầu và cau
Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy tŕ và phát triển sự sống, nên đă nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ và thờ cả hành vi giao phối.
Người Việt tôn sùng cây cối, các loại cây lương thực chính. Các sản phẩm làm từ gạo nếp, gạo tẻ đă có lịch sử hàng ngh́n năm và c̣n lưu truyền đến ngày nay. Các loại bánh trái đặc trưng của người Việt đă đi vào huyền thoại bằng văn hóa truyền khẩu[4].
Trong tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt, mà ngày nay vẫn c̣n như một thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam.
Tập tục ăn trầu cũng là đặc trưng chính của người Việt cổ, được thể hiện qua câu chuyện cổ Sự tích trầu cau.
Người Việt cổ biết dùng hóa chất và các loại nhựa, sơn cây dùng để nhuộm răng đen, mà măi đến giữa thế kỷ 20 cũng vẫn c̣n khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam[5].
Mộ thuyền Châu Can cùng di vật - được t́m thấy ở Hà Tây năm 1977.
Ở đây ta cũng nhắc đến vài nét chính của nghệ thuật chôn cất người chết mà các nhà khảo cổ học đă t́m thấy hầu như rải rác trên toàn bộ Bắc Bộ kéo dài đến miền Trung Việt Nam - Mộ thuyền là một cách chôn cất khá độc đáo của người Việt cổ thuộc văn hóa Đông Sơn.
Năm 2004 các nhà khảo cổ học t́m thấy thêm một ngôi mộ bên triền sông Cửu An, thuộc thôn Động Xá, xă Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Đây không chỉ là ngôi mộ có quan tài h́nh thuyền như những phát hiện trước đó, mà thực sự là một con thuyền độc mộc chở người Đông Sơn vào giấc vĩnh hằng từ 2.500 năm trước. Khi nắp quan tài bật mở, người ta thấy tất cả bùn đất tích tụ từ thiên niên kỷ I TCN phủ kín hiện vật. Khi lớp bùn được gạt ra, nhóm khai quật nh́n thấy người chết đặt nằm ngửa, thân bó vải, hai tay để xuôi, chân duỗi thẳng. Ngoài ra, c̣n có một số hiện vật đi kèm là đồ gốm, hạt thực vật.
So với các mộ thuyền Đông Sơn được phát hiện từ những năm 1960, 1970 tại Châu Can Hà Tây, Việt Khê Hải Pḥng, La Đôi Hải Dương..., đây là mộ duy nhất c̣n nguyên vẹn xương cốt với quần áo hoàn chỉnh. Phát hiện này khiến các chuyên gia Viện Khảo cổ và Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á vô cùng phấn khởi. Bởi t́m hiểu về nguồn gốc cư dân th́ cốt sọ giữ vai tṛ quan trọng nhất, giúp các nhà khảo cổ làm sáng tỏ những người đă sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.
Kỹ thuật quân sự-nghệ thuật chiến tranh
Vũ khí
Mảnh hộ tâm phiến và mảnh giáp dạng vảy bằng đồng, thế kỷ thứ 3 -1 TCN.
Bộ phận khóa nỏ máy bắn tên.
Mũi tên Cổ Loa, khả năng sát thương rất cao.
Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại h́nh, độc đáo về h́nh dáng và phong phú về số lượng. Điều này gắn liền với các thần thoại và truyền thuyết về truyền thống chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc Việt, ví dụ như câu chuyện nỏ thần của vua Thục Phán An Dương Vương bắn mỗi phát ra hàng loạt mũi tên đồng làm cho tướng xâm lược Triệu Đà phải khiếp vía kinh hồn. Những cuộc khai quật ở thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đă phát hiện ra kho chứa hàng vạn mũi tên đồng. Mũi tên Cỗ Loa có các loại h́nh cánh én, h́nh lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có chuôi dài. Ngoài ra c̣n có giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, ŕu chiến... Ŕu chiến có đến gần 10 loại: các loại ŕu xéo (h́nh dao xéo, h́nh thuyền, h́nh hia, h́nh bàn chân), ŕu lưỡi xoè cân, ŕu h́nh chữ nhật, ŕu h́nh dao phạng. Dao găm có các loại lưỡi h́nh lá tre đốc củ hành, đốc bầu dục hay có chuôi là một tượng h́nh người, có loại dao găm lưỡi h́nh tam giác, cán dẹt hay tṛn. Khải giáp gồm có các tấm che ngực có h́nh vuông hay h́nh chữ nhật, áo giáp gồm các vảy đồng buộc lại với nhau, có hoa văn trang trí đúc nổi. Ở Hà Nam Ninh c̣n t́m thấy cả giáp che ngực và mũ chiến bằng đồng.
Một kỹ thuật đặc biệt cũng cần nhắc đến cho vũ khí Đông Sơn là vừa qua các nhà khảo cổ học Việt Nam đă khám phá ra kho mũi tên đồng Cổ Loa có hàng vạn chiếc ở khu vực thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Mũi tên đồng của vương quốc Âu Lạc có cấu tạo độc đáo ba cạnh. Xét về mặt xuyên thủng th́ không phải là yếu tố chính. Nhưng xét về mặt giải phẫu, th́ với mũi tên ba cạnh (quả khế) th́ vết thương do mũi tên này gây ra có thể nói rằng, rất trầm trọng. Kẻ bị bắn trúng mũi tên này không dám rút mũi tên ra - việc này sẽ gây mất máu và dẫn đến tử vong rất nhanh.
Thành quách[sửa | sửa mă nguồn]
Xem bài chính Thành Cổ Loa
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lănh vực xă hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn.
Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở trung tâm đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn.
Xă hội phức tạp - h́nh thành nhà nước[sửa | sửa mă nguồn]
Kinh tế phát triển - xă hội giàu có[cần dẫn nguồn][sửa | sửa mă nguồn]
Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích cho từng nội dung cụ thể trong bài viết tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.
Để phục vụ cho trồng trọt, cư dân Đông Sơn bấy giờ đă đẩy mạnh chăn nuôi trâu, ḅ để lấy sức kéo và phân bón. Nhiều di vật văn hóa Đông Sơn có xương trâu, ḅ. Các gia súc, gia cầm cũng được cư dân Đông Sơn chăn nuôi rộng răi[cần dẫn nguồn] như lợn, gà, chó... Nghề thủ công đạt được bước tiến rất quan trọng từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra nghề luyện kim, đúc đồng, tiến lên nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việc phát hiện được những khuôn đúc đồng và xỉ đồng đă khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng Vương sáng tạo ra.
Với kỹ thuật luyện đồng, cư dân Đông Sơn bấy giờ đă tạo nên bước ngoặt, loại trừ hẳn đồ đá. Trong một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Đường Mây, G̣ Chiền Vậy, Đồng Mơm, Vinh Quang đă t́m thấy các di vật bằng sắt[cần dẫn nguồn].
Nghề làm đồ gốm của các cư dân Đông Sơn cũng phát triển lên một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến. Người thợ gốm bấy giờ c̣n biết dùng phương pháp tạo h́nh bằng cách đổ khuôn và nung trong ḷ kín chuyên dụng. Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Tŕnh độ tạo h́nh cũng ngày càng cao hơn. Các b́nh gốm ở phần miệng, ŕa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, song song chạy quanh thân gốm, loại h́nh sản phẩm gốm phong phú, đa dạng.
Sự phát triển của nền kinh tế trên nhiều mặt là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng hóa với nước ngoài. Hiện tượng một số trống đồng loại I Hêgơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia, Indonesia... cũng như sự có mặt của những lưỡi qua đồng Chiến quốc ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn đă chứng tỏ có sự buôn bán giữa người Việt cổ đương thời với các quốc gia quanh vùng. Một số đồ trang sức và trâu, ḅ cũng đă trở thành hàng hóa trong việc buôn bán giữa Văn Lang-Âu Lạc với các nước lân bang.
Xă hội phức tạp - phân hóa giàu nghèo[sửa | sửa mă nguồn]
Về tổ chức xă hội, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phân công lao động xă hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đă tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng thêm nguồn của cải xă hội. Sản phẩm thặng dư xuất hiện ngày càng nhiều hơn, đă tạo nên cơ sở cho sự phân hóa xă hội. Những của cải chung của xă hội (do lao động công ích, do thu nhập từ ruộng đất công cộng của chiềng, chạ) dần dần bị một số người t́m cách chiếm đoạt biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo sự phát triển kinh tế xă hội, đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biến xă hội quan trọng là xă hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo. Từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hóa xă hội đă xuất hiện, nhưng chưa đáng kể. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hoà Vĩnh Phúc th́ có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 24 hiện vật, phổ biến ở số mộ c̣n lại đều có từ 3 đến 13 hiện vật. Đồ tùy táng giống nhau gồm gốm công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm. Như vậy là, ở giai đoạn đầu thời Hùng Vương quan hệ cộng đồng nguyên thủy mới bước vào quá tŕnh tan ră.
Từ sự phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xă hội bấy giờ đă có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau. Sự phân hóa đó đă diễn ra từ từ, ngày càng rơ nét trải qua một quá tŕnh lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên, sự phân hóa xă hội bấy giờ thành hai cực chưa sâu sắc. Sự phân hóa tài sản là biểu hiện của sự phân hóa xă hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ gia trưởng, dẫn tới sự h́nh thành các tầng lớp xă hội khác nhau:
Quư tộc (gồm có các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có khác).
Nô t́.
Tầng lớp dân tự do của công xă nông thôn là tầng lớp đông đảo nhất trong xă hội, giữ vai tṛ là lực lượng sản xuất chủ yếu.
Tầng lớp trên của xă hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lư công việc công cộng của chiềng, chạ...
Như vậy, những tiền đề đầu tiên cho sự h́nh thành quốc gia và nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương vào giai đoạn đầu Đông Sơn đă xuất hiện và phát triển qua 18 đời và sau này chuyển tiếp cho vương quốc Âu Lạc của An Dương Vương vào giai đoạn cuối Đông Sơn. (Các chứng cứ đang được khám phá dần)
florida80
05-01-2019, 18:00
Văn hóa Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đề nghị đặt cho di chỉ ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nơi này có thể đă từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII.
Khai quật
Tượng thần Visnu
Vào thập niên 1920, nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đă dùng không ảnh chụp miền Nam Việt Nam và phát hiện ra địa điểm này cùng với nhiều kênh đào và các thành phố cổ khác. Một trong những kênh đào này đă cắt tường thành của một khu vực rất rộng. Malleret thử t́m kiếm các cấu trúc này trên mặt đất và vào ngày 10 tháng 2 năm 1944, ông bắt đầu đào các hố khai quật. Malleret đă phát hiện được các di vật và nền móng các công tŕnh chứng minh cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn mà các thư tịch của Trung Hoa đă từng miêu tả về vương quốc Phù Nam. Khu vực này rộng ước chừng 450 hecta.
Các kênh đào tách ra từ kênh đào chính tạo nên các h́nh chữ nhật đều đặn bên trong thành. Bên trong các khu vực h́nh chữ nhật này c̣n sót lại những dấu tích của các khu sản xuất đồ nữ trang, trong số các dấu tích t́m thấy các "h́nh khối" dùng để đúc kim loại cùng với các đồ nữ trang. Các khu sản xuất thủ công mỹ nghệ khác cũng được t́m thấy tại đây. Malleret cũng khẳng định những di vật văn hóa ở đây thuộc hai giai đoạn. Cũng có các móng nhà bằng gỗ và các móng nhà bằng gạch của các toà nhà rộng hơn. Các viên gạch được trang trí bằng các h́nh sư tử, rắn hổ mang, động vật một sừng và các động vật khác.
Làm muối
Sau cuộc khảo sát đầu tiên vào tháng 5 năm 2003 với những kết quả đáng ngạc nhiên, sẽ tiếp tục có một dự án khai quật mới về vấn đề "Sản xuất muối sớm ở Đông Nam Á" tại địa điểm G̣ Ô Chùa.
Trên G̣ Ô Chùa có chiều dài 450 m, rộng 150 m, cao 2–4 m đoàn khảo cổ phát hiện được vài mộ táng và nhiều lớp văn hóa của thiên niên kỷ I TCN. Trong khi khai quật những lớp phía dưới vài ngôi mộ các nhà khảo cổ phát hiện tầng đất có độ dày 1 m chứa hàng ngh́n mảnh chạc gốm. Các di vật này nằm dày đặc và c̣n tiếp tục xuất lộ cho tới độ sâu 2,50 m dưới lớp đất canh tác hiện đại; có cảm tưởng dường như đây là một "băi phế thải chạc". Ở Việt Nam, và ngay cả ở Đông Nam Á, cũng chưa có nơi nào đă t́m thấy loại gốm ba chạc nhọn nhiều đến như vậy. Thêm nữa, h́nh dạng của loại chạc gốm này tất cả đều kỳ lạ. Thế nhưng, ở châu Âu có nhiều khu vực cư trú vào thời kỳ 3000-2000 năm trước đây, người ta đă tạo ra những chạc gốm tương tự loại đă t́m thấy ở G̣ Ô Chùa để dùng cho việc làm muối. Hầu như trên thế giới, vào thời cổ nghề sản xuất muối đều có những dụng cụ giống nhau - chạc gốm G̣ Ô Chùa cũng là một trong những số đó. Qua nghiên cứu một số mẫu than tro do diêm dân để lại bằng phương pháp Định tuổi bằng đồng vị cacbon C-14, kết quả cho thấy làng cổ này đă tồn tại cách ngày nay khoảng 3000 đến 2000 năm. Địa điểm này là chỗ nấu muối cổ đầu tiên ở Việt Nam. Nhưng những câu hỏi thú vị xuất hiện là, tại sao nó lại nằm cách xa bờ biển ngày nay đến 150 km - đây là điều cần được làm sáng tỏ trong những năm sau. Để giải quyết một số vấn đề về cảnh quan ngày xưa, một cuộc điều tra địa mạo học được thực hiện vào tháng 3 - 4 năm 2004 xung quanh G̣ Ô Chùa. Khu vực giữa G̣ Ô Chùa đến bờ biển không cao hơn mực nước biển nhiều, chỉ vào khoảng vài mét. Trong thế Toàn Tân (Holocene) mực nước biển thay đổi nhiều: khoảng 20.000 năm trước mực nước biển thấp hơn ngày nay 120 m, thế nhưng ở thời điểm 5.000 năm trước, mực nước biển lại cao hơn đến 5 m so với ngày nay. Sau đó, nước biển dần thấp xuống tới mực nước như ngày nay. V́ thế có thể rằng 3.000 năm trước đă có một vịnh biển kéo dài đến gần G̣ Ô Chùa. Để kiểm tra giả thuyết trên các nhà khảo cổ Việt - Đức đă nghiên cứu các lớp đất xung quanh địa điểm này để chứng minh tầng trầm tích biển có niên đại bằng với trung tâm nấu muối G̣ Ô Chùa. Họ đă thực hiện 11 lỗ bằng một khoan tay có tổng độ sâu là 41 m và lấy 190 mẫu trầm tích để nghiên cứu tại Viện địa mạo học ở trường Đại học Bremen của Đức.
B́nh gốm có ṿi bằng đất nung, văn hóa Óc Eo.
Thương mại
Nhiều loại đá quư, đá bán quư, kim loại cùng nhiều hàng hóa khác đến từ chính đô thị này chứng minh cho nền thương mại phát đạt của nó.
Nhiều loại tiền xu trong đó có tiền xu La Mă cũng được t́m thấy ở đây. Có tiền xu có h́nh Antoninus Pius và một bản sao của tiền xu Marcus Aurelius với một mặt để trống. Những đồng tiền La Mă cho thấy vị trí quốc tế của Óc Eo.
Phạm vi
Tên gọi Óc Eo ban đầu dùng để chỉ cấu trúc h́nh chữ nhật trong khu vực nhưng sau đó Malleret dùng để chỉ toàn bộ khu vực. Các nghiên cứu khảo cổ sau này cho thấy không gian của văn hóa Óc Eo có thể vươn rộng ra Núi Sam, Ḷ Mo (An Giang); Nền Chùa, Cạnh Đền, Mốp Văn... (Kiên Giang); G̣ Tháp (Đồng Tháp).[1]
Nhà địa lư Hy Lạp Claudius Ptolemaeus đă sang phương Đông hồi đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng đường thủy, đă tả một nơi mà ông gọi là Kattigara mà đa số người trong giới học giả đoán là Óc Eo nhưng R.A. Stein lại đối chiếu lời văn miêu tả với khung cảnh B́nh Trị Thiên và thấy rằng Kattigara phù hợp với B́nh Trị Thiên mà không phù hợp với Óc Eo (Tạp chí Hán học, Bắc Kinh, 1947).[2]
Sụp đổ[sửa | sửa mă nguồn]
Sọ người với khuyên tai h́nh hai đầu thú cách nay khoảng 2.000 năm được t́m thấy tại Cần Giờ.
Trong suốt thế kỷ VI và thế kỷ VII, các thương thuyền có thể di chuyển ngoài khơi xa với khoảng cách lớn hơn mà không phải dừng lại khắp nơi hay đi dọc theo bờ biển. Ngoài ra sức thu hút của Óc Eo cũng giảm dần v́ hàng hóa thương mại của nó cũng không phong phú lắm. Sự trỗi dậy của Chân Lạp và thương mại vùng Mêkông báo hiệu thời kỳ suy vi của khu vực này.
Thông tin liên quan
Ngày 27 tháng 9 năm 2012, Khu di tích Óc Eo - Ba Thê đă được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là "Di tích Quốc gia đặc biệt" theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg.
Óc Eo đă từng được nối bằng một kênh đào dài 90 kilômét[cần dẫn nguồn] về phía bắc với Angkor Borei, nơi có lẽ từng là kinh đô của vương quốc Phù Nam. Lư do quan trọng nhất cho sự thịnh vượng của Óc Eo là do vị trí của nó tại trục đường thương mại trên biển giữa một bên là bán đảo Mă Lai cùng Ấn Độ và bên kia là sông Mêkông cùng với Trung Quốc. Vào thời kỳ phồn thịnh của Óc Eo và Phù Nam, tàu thuyền trong khu vực có thể thực hiện những hải tŕnh rất dài mà không phải đi dọc theo bờ biển. Do vậy mà về mặt chiến lược, Óc Eo là một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi
florida80
05-01-2019, 18:03
Văn hóa Đồng Nai chỉ các di tích khảo cổ ở Việt Nam phân bố trên vùng trung du và đồng bằng miền Đông Nam Bộ, ven các sông Đồng Nai, sông Sài G̣n và sông Vàm Cỏ, thể hiện một quá tŕnh diễn biến văn hoá từ sơ ḱ thời đại đồ đồng đến sơ ḱ thời đại sắt. Giữa các di tích có những khác biệt nhất định, song chúng cùng có những đặc trưng chung nên có nhiều ư kiến xếp chúng vào một nền văn hoá chung. Có người gọi là Văn hóa Đồng Nai, cũng có ư kiến gọi là văn hoá Phước Tân, văn hoá Bến Đ̣ hay văn hoá Cù Lao Rùa. Cho đến nay, đă phát hiện được hàng trăm di tích ở hầu khắp các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong đó có các di tích tiêu biểu như Cầu Sắt, Suối Chồn, B́nh Đa, Cái Vạn, Cù Lao Rùa, Hưng Thịnh, Đồi Xoài, Đồi Mít, G̣ Me, Đồi Pḥng Không, Cái Lăng, Long Bửu, Bến Đ̣, Phước Tân, G̣ Đá, Dốc Chùa, Bù Đốp, G̣ Tháp, G̣ Canh Nông, G̣ Cao Su, An Sơn, Rạch Núi, vv.
Lịch sử khám phá
Những di tích, di vật khảo cổ học ở Đồng Nai được phát hiện, nghiên cứu rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Lịch sử khám phá buổi ban đầu của khảo cổ học thời tiền - sơ sử Đồng Nai gắn liền với các tên tuổi của các nhà thám hiểm, du lịch, truyền giáo và thực dân châu Âu như: V. Holbé, D. Grossin, J. Chénieux, E. Cartailhac, A. Mougeot, F. Barthère, Loesh, J. Repelin... và các thành viên thuộc phái bộ A. Pavie làm việc tại Việt Nam vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn với những phát hiện lẻ tẻ và chú ư sưu tập hiện vật tiền sử cho các viện Bảo tàng ở Đông Dương và Pháp. Những địa danh mà vùng đất Đồng Nai mà chủ yếu là dọc hai bờ sông Đồng Nai cùng các chi lưu của nó như (Ḷ Gạch, B́nh Đa, Bến Gỗ, Cái Vạn, An Sơn, Rạch Núi...) được nhắc đến trên bản đồ khảo cổ học của thế giới. Đạc biệt sưu tập di vật thời tiền sử do V. Holbé gồm 1.200 di vật đá, 10 ŕu đồng được t́m thấy trên 20 địa điểm ở vùng Biên Hoà được giới thiệu trong các công tŕnh nghiên cứu của E. Hamy (1897) và R. Verneau (1904) được trưng bày tại Hội chợ quốc tế Paris năm 1889. Không ít những di vật tiêu biểu thời tiền sử được phát hiện đầu tiên ở Đồng Nai được lưu giữ tại các bảo tàng nước Pháp.
Chặng đường khám phá tiếp theo vào những thập niên đầu của thế kỷ XX với cuộc khai quật trên vùng Cù lao Rùa - nằm giữa sông Đồng Nai, cách thành phố Biên Hoà khoảng 10 km (địa điểm này ngày nay thuộc địa phận huyện Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương) của D. Grossin (1902) và A. Jordin (1910). Theo H. Fontain công bố vào năm 1970 th́ tại riêng tại di chỉ này đă cung cấp 383 di vật đủ kích cỡ, kiểu dáng làm cơ sở cho việc nghiên cứu thời đại đồ đá mới ở Biên Hoà - Đồng Nai. Những di vật tương tự ở vùng Cù lao Rùa c̣n t́m được t́m thấy ở các nơi khác ở Đồng Nai trên nhiều địa h́nh khác nhau từ nhóm đất đỏ vàng đến vùng đất thấp phù sa cận biển. Đặc biệt trong giai đoạn này là phát hiện di chỉ mộ Hàng G̣n do J. Bouchot chủ tŕ vào năm 1927 tại vùng Xuân Lộc. Di tích được khai quật và công bố thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu và được toàn quyền Đông Dương xếp hạng trong danh mục những di tích lịch sử quan trọng của Liên Bang năm 1930.
Thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, nghiên cứu khảo cổ học ở Đồng Nai bắt đầu mang tính chất hệ thống và khoa học với công lao to lớn của những thành viên Hội địa Chất Đông Dương. Trong đó tiêu biểu là E. Saurin, H. Fontain và L. Malleret. Trong giai đoạn này, bắt đầu có sự tham gia của các nhà nghiên cứu nước ta: Nghiêm Thẩm, Hoàng Thị Thân.... Những phát hiện quan trọng trong giai đoạn này là các di tích đá cũ và cụm di tích đồng sắt ở Hàng G̣n, Dầu Giây, Phước Tân, Bến Đ̣, Hội Sơn, Phú Hoà...Từ đây, bắt đầu h́nh thành sơ khởi khái niệm về một vùng văn hoá đă phát triển qua các thời đại đồ đá cũ, đá mới, đồng và sắt sớm ở Đồng Nai.
Hiện vật đá văn hóa Đồng Nai
Giai đoạn thứ tư bắt đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cho đến nay. Nghiên cứu khảo cổ học được quan tâm. Các nhà khảo cổ học Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng tại địa phương (Bảo tàng Đồng Nai) và các ngành hữu quan tiến hành điều tra, khai quật, kiểm chứng hàng loạt các địa điểm, di chỉ trên địa bàn Đồng Nai. Hàng loạt các di tích, di vật qua công tác khai quật, nghiên cứu đă góp phần làm sáng tỏ một nền văn hoá cổ xưa từng tồn tại và phát triển trên vùng đất này. Có thể nói, các di tích khảo cổ gồm các loại h́nh: cư trú, công xưởng, mộ táng, đền tháp... của cư dân cổ trải đều trên các địa h́nh đặc trưng của Đồng Nai từ vùng núi đồi tiếp giáp cao nguyên đến vùng đất đứt găy phun trào đất đỏ ba - zan và cả vùng phù sa cổ các bồn trũng, vùng ngập nước cận sông, biển.
Tổng quan
Khoảng 2.500 năm cách ngày nay (khoảng thế kỷ V trước Công nguyên), cư dân cổ Đồng Nai bước vào một truyền thống văn hoá kim khí phát triển. Nền văn hóa thời kỳ đồ sắt ở Đồng Nai gắn kết hai giai đoạn phát triển đồng thau và sắt sớm. Trong văn hóa đá – đồng đă manh nha văn hóa sắt sớm với hàng loạt di chỉ như B́nh Đa, Cái Vạn, Suối Chồn, Hàng G̣n, Long Giao, Phú Ḥa…
Thời kỳ sắt sớm ở Đồng Nai được xem là giai đoạn phát triển hào hùng của cư dân cổ Đồng Nai. Với những công cụ từ kim khí, người cổ Đồng Nai " mạnh " lên trong quá tŕnh chinh phục tự nhiên, khai phá, làm nông nghiệp ngày càng mạnh mẽ; các làng dân cư nông nghiệp được khởi nhiều nơi. Vùng đất Đồng Nai cổ từ một thiên nhiên hoang sơ, nguyên thủy đă dần trở thành một địa bàn kinh tế, dân cư phát triển của trung tâm nông nghiệp Đồng Nai – Đông Nam Bộ thời tiền sử.
Sau cuộc hành tŕnh dài, cư dân cổ Đồng Nai đă tạo dựng một nền văn minh tiền sử rực rỡ. Nền văn hóa Đồng Nai phát triển, lan tỏa rộng và bắt đầu có sự giao thoa những yếu tố mới về văn hoá, tộc người. Những bộ sưu tập hiện vật tại nhiều di chỉ như: b́nh gốm, đồ trang sức (khuyên tai ba mấu, hạt thủy tinh, ṿng hạt chuỗi, mă năo…), mộ chum…đă minh chứng cho mối liên hệ qua lại giă* các yếu tố văn hoá, kỹ thuật giữa vùng Đồng Nai và các vùng phụ cận. Chính sự quan hệ rộng mở này đă tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân cổ Đồng Nai không ngừng phát triển, hoàn thiện trên một vùng địa lư, văn hoá ổn định. Đó là những yếu tố thuận lợi cho người cổ Đồng Nai bước vào những giai đoạn phát triển cao hơn trong tiến tŕnh đi lên của xă hội loài người.
florida80
05-01-2019, 18:06
Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lănh thổ Việt Nam, cùng với Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Óc Eo tạo thành tam giác văn hóa của Việt Nam thời kỳ đồ sắtSa Huỳnh đư*ợc nhà khảo cổ ng*ười Pháp M. Vinet phát hiện lần đầu tiên vào năm 1909 khi ông t́m thấy bên đầm An Khê (một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh, Đức Phổ, Quảng Ngăi) một số lượng lớn quan tài bằng chum (khoảng 200 chiếc). Người ta gọi Di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépot à Jarres Sa Huỳnh). Các cuộc khai quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích g̣ Ma Vương hay c̣n gọi là Long Thạnh Đức Phổ nơi được xem là có niên đại sớm nhất của nền văn hóa Sa Huỳnh, đă đem lại những đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc và quá tŕnh h́nh thành, phát triển văn hóa Sa Huỳnh. Nền văn hóa Sa Huỳnh đă đư*ợc các nhà khảo cổ trên thế giới nghiên cứu từ đó đến nay và ngày càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống của các tộc ngư*ời thời tiền sơ sử ở miền Trung Việt Nam. Xuất hiện cách nay khoảng 3.000 năm và kết thúc vào thế kỷ thứ 1, văn hóa Sa Huỳnh có lẽ đă tồn tại hơn 5.000 năm kéo dài từ hậu kỳ thời đại đồ đá mới đến đầu thời đại đồ sắt trên địa bàn các tỉnh từ Quảng B́nh đến các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Với một sức sáng tạo mạnh mẽ và phong phú, Văn hóa Sa Huỳnh càng ngày càng thấy có sự ảnh hưởng và giao lưu với nhiều vùng Đông Nam Á cũng như Trung Hoa cổ xưa và Ấn Độ cổ xưa khi gần đây, Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức hợp tác với các nhà khảo cổ học thuộc khoa Lịch sử của Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tiến hành khảo cứu trong các năm 2004-2005 tại một số vùng thuộc tỉnh Quảng Ngăi. Bước đầu đă xác định được diện mạo một nền văn hóa đặc sắc ở miền Trung, Việt Nam.
Thành tựu
Vũ khí bằng đồng
Trồng trọt[sửa | sửa mă nguồn]
Dân cư cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh đă định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp thuộc các con sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, trải dài từ Quảng B́nh cho đến Phú Yên. Họ thuộc một nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á. Những dụng cụ bằng sắt như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng... đă được t́m thấy ở đây. Đồ gốm lớn với hoa văn đẹp, cùng với kỹ thuật dùng bàn xoay đă làm lạc hướng các nhà khảo cổ về nguồn gốc của Vương quốc Chăm Pa[1], những đồ gốm dùng để đựng các vật dụng và sản phẩm nông nghiệp, đánh cá và cả mai táng người chết.
Phần đất miền Trung bao gồm xứ Quảng là nơi tụ hội và giao tiếp văn hóa Tây Đông, giữa miền núi với miền biển và đồng bằng xứ Quảng đă từng là nơi hội tụ văn hóa, kết tinh văn minh, dựng lên nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Lúa hai mùa, tằm tám lứa, tơ mỗi năm được sử sách chép đến sớm nhất là đồng bằng xứ Quảng, trung tâm của nền văn hoá Sa Huỳnh. Sách sử có nói đến người Chăm trồng hai vụ lúa và để thích ứng với thời tiết, người Chăm đă t́m ra giống lúa chịu hạn gieo trồng vào đầu mùa khô, để đầu mùa mưa th́ lúa chín. Sử sách gọi là mùa Chiêm. Cũng do hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt khô hạn nên cư dân cổ Sa Huỳnh và Chămpa đă đào cả một hệ thống giếng lấy nước tưới cho cây trồng nên giới nghiên cứu ghi nhận một nền văn hóa gọi là "văn hóa Giếng Chăm cổ"
Đánh cá và đi biển
Bản đồ các nền văn hóa ở châu Á vào khoảng 200 năm trước Công nguyên, cho thấy vị trí của Văn hóa Sa Huỳnh.
Trước năm 1975, các nhà khảo cổ trên thế giới mới chỉ biết đến Văn hóa Sa Huỳnh qua hoạt động của cư* dân đi biển. Họ chỉ lên đất liền đặt mai táng ng*ười chết trong những mộ chum. Những mộ chum đư*ợc t́m thấy ở Palavan (Philippines), Bondontaphet (Thái Lan), Sa Huỳnh (Việt Nam). Sau năm 1975 các nhà khảo cổ Việt Nam đă bỏ nhiều công sức tim hiểu, nghiên cứu nền văn hóa này và bư*ớc đầu đă có những đóng góp quan trọng giúp chúng ta có cái nh́n chính xác và toàn diện hơn về nền văn hóa Sa Huỳnh. Đặc biệt trong những năm gần đây, tại Hội An, các nhà nghiên cứu khảo cổ đă phát hiện nhiều di chỉ cư* trú của ngư*ời Sa Huỳnh với nhiều hiện vật phong phú và đa dạng.
Các phát hiện cho thấy ngư*ời Sa Huỳnh cổ là những cư* dân nông nghiệp, và đi biển chỉ là một trong những sinh hoạt của họ. Các đồng tiền Ngũ Thủ và Vư*ơng Măng (đầu thế kỷ thứ 1 TCN), các gư*ơng đồng của nhà Tây Hán, đỉnh đồng nhà Đông Hán có trong các mộ chum chứng tỏ họ đă có một nền sản xuất hàng hóa cùng với sự giao thư*ơng khá phát triển. Người Chăm đă biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, dầu rái, ngọc, vàng trên núi, hồ tiêu trên đồi, biết làm ruộng hai mùa ở đồng bằng hẹp Minh Kinh và Ô Chân. Họ đă trồng cau, dừa và trồng dâu nuôi tằm "một năm tám lứa" từ trước sau kỷ nguyên Dương lịch. Họ biết làm thuyền to gọi là nốôc (bàu) và thuyền nhỏ (tṛong ghe). Hai cảng Cửa Việt, Cửa Tùng đă từng là hải cảng quốc tế từ lâu trước khi Lâm Ấp thành lập nhưng phồn thịnh nhất là thời quốc vương Chămpa cùng thời với triều Đường (Trung Quốc). Người Chăm biết đánh cá biển và buôn bán đường biển trên vùng Đông Nam Á, từ ven biển Trung Quốc xuống tới Ấn Độ Dương.
Đồ trang sức và kỹ thuật làm thủy tinh
Một phần của loạt bài về
Lịch sử Chăm Pa
Les Temples Cham de My Son 2.jpg
Văn hóa Bàu Tró 5.000 TCN–4.500 TCN
Văn hóa Xóm Cồn 1.800 TCN–1.200 TCN
Văn hóa Tiền Sa Huỳnh 1.500 TCN–500 TCN Văn hóa Long Thạnh 1.500 TCN–980 TCN
Văn hóa B́nh Châu 1.000 TCN–900 TCN
Văn hóa Sa Huỳnh 500 TCN–Thế kỷ I SCN
Hồ Tôn Tinh trước thế kỷ 1 TCN
Tượng Lâm 592–710
Lâm Ấp 192-757
Hoàn Vương 757–859 hoặc 875
Chiêm Thành 859 hoặc 875–1471
Panduranga-Chăm Pa 1471–1697
Thuận Thành trấn 1697–1832
x ·
t ·
s
Các nhà khảo cổ đă t́m thấy, ở những khu mộ táng của Văn hóa Sa Huỳnh, các bộ hạt chuỗi giá trị ở Lai Nghi. Trong khi rây bằng sàng phát hiện được hơn 8.600 hạt cườm bằng thủy tinh màu xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1-3 mm. Ngoài bộ hạt chuỗi gồm khoảng 1.500 hạt bằng đá mă năo, achat, crystal, amethyst, nephrite và bằng vàng - c̣n có 4 khuyên tai bằng vàng. Người văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi nhiều nhất thích sử dụng loại đá ngọc mă năo làm đồ trang sức. Hơn 15 h́nh dạng hạt chuỗi khác nhau được chế tác - có lẽ bằng đá mă năo đến từ khu vực Myanma hoặc Ấn Độ. Trong tổng số 1.136 hạt chuỗi bằng đá mă năo t́m thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt: chiếc thứ nhất có h́nh con chim nước, chiếc thứ hai có h́nh con hổ hoặc sư tử và chiếc thứ ba là hạt chuỗi khắc. Cả ba hạt chuỗi này được phát hiện trong 3 mộ chum khác nhau cùng với nhiều đồ tùy táng quư khác có niên đại vào thế kỷ 1-2 TCN. Những di vật hiếm thấy khác ở miền Trung Việt Nam được kể đến là hai cái gương bằng đồng của thời kỳ Tây Hán.
Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ của văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh (mà sử sách Trung Quốc gọi là "lưu ly" gốc từ chữ Phạn là verulia) từ đầu Công nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng không những đa dạng về kiểu dáng mà c̣n phong phú về màu sắc như* xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa đă từng ghi chép về một chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lư*u ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Nổi bật trong những vật trang sức của ng*ười Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới. Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế và khá duyên dáng th́ khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mănh, kiêu hănh và cư*ờng tráng của nam giới. Những vật trang sức chế tác từ đá, mă năo và thủy tinh có thể nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra và đư*ợc phổ biến khắp vùng Đông Nam Á. Ng*ười ta đă t́m thấy khuyên tai ba mấu và khuyên tai hai đầu thú ở Thái Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.
Đồ gốm[sửa | sửa mă nguồn]
Lọ gốm cách nay 2500 - 2000 năm.
Bát bồng gốm cách nay 2500 - 2000 năm.
Ngư*ời Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời. Các đồ gốm gia dụng đều được tạo dáng thanh nhă, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn tinh tế và giàu xúc cảm.
Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, b́nh có chân đế, có thân găy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn. Mẫu gốm thường gặp là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ ṣ. Trong các di chỉ mộ táng, phổ biến là mộ chum, trong chum chứa nhiều đồ trang sức bằng đồng, đá quư, thủy tinh, đặc biệt là loại khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú. Các đặc trưng đó của Văn hóa Sa Huỳnh cũng đă t́m được ở các di chỉ trong lưu vực sông Đồng Nai. Có nơi c̣n có những đặc trưng xưa hơn, mà khảo cổ học gọi là văn hóa thời tiền Sa Huỳnh.
Xă hội Sa Huỳnh[sửa | sửa mă nguồn]
Đă xác nhận được rằng cách đây gần 3000 năm, trên lưu vực sông Đồng Nai mà lănh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn, có những bộ lạc sinh sống với một nền văn hóa đồng - sắt đă phát triển và có đặc trưng riêng. Có thể nói, các bộ lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa. Sách Lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê chủ biên) cho biết, bấy giờ trên địa bàn của văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống: Bộ lạc Cau (chữ Phạn là Kramuka vam'sa) cư trú vùng Phú Yên, Khánh Ḥa - Ninh Thuận - B́nh Thuận trở vào và bộ lạc Dừa (chữ Phạn là Narikela vam'sa) ở vùng B́nh Định, Quảng Nam ngày nay. Bộ lạc Dừa từ thế kỷ đầu trước Công nguyên bị nhà Hán đô hộ (cùng thời kỳ với nước Âu Lạc) và đặt tên là huyện Tượng Lâm. Năm 190 - 193, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người Hán, lập nên nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa). Bộ lạc Cau, khoảng đầu công nguyên, đă h́nh thành một tiểu vương quốc riêng có tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Răn (tiếng Chăm cổ), về sau gọi là Chăm Pa, có địa bàn từ Nha Trang - Phan Rang, Phan Thiết ngày nay. Sự ra đời nói trên của dân tộc Chăm, và nhà nước của họ, cho thấy ở Nam Trung bộ Việt Nam thời ấy đă có hai cộng đồng lớn: cộng đồng người Chăm với ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia cư trú vùng ven biển và cộng đồng với ngữ hệ Môn - Khơme (Mạ, Cơ Ho, M'Nông), cư trú vùng núi và Tây Nguyên.
Tập tục tín ngưỡng
Một chum gốm
Tập tục độc đáo của cư dân Sa Huỳnh chính là tập tục chôn người quá cố trong các chum lớn, có những chiếc chum cao đến 1,2 m. Chum được làm từ vật liệu đất đen hay đất có màu đỏ và được nung khá tốt. Người chết được táng trong chum với tư thế ngồi bó gối - như một hiện tượng được sống tiếp với thế giới cơi âm. Đồ tùy táng theo người chết tùy thuộc vào sự giàu có hay nghèo khó của người chết mà có nhiều hay ít hiện vật được chôn theo.
Người Sa Huỳnh cổ rất "sành điệu" và khá duyên dáng trong các đồ trang sức làm bằng đá quư và đá bán quư cũng như pha lê nhiều màu sắc.
Người Sa Huỳnh cổ theo tín ngưỡng thờ mẫu (mẹ, bà) và c̣n tồn tại cho đến ngày nay ở các dân tộc Chăm, các cư dân bản địa Tây Nguyên. Tuy theo đạo Hồi nhưng đă biến cải thành đạo Bani mang bản sắc văn hóa truyền thống Chămpa thờ thần linh và ông bà tiên tổ. Đồng bào Chăm ăn Tết đầu năm vào ngày 19 tháng 4 Dương lịch. Hai lễ hội lớn hàng năm là Lễ hội Katê (tháng 7 lịch Chăm Pa) để nhớ ơn trời đất, tổ tiên phù hộ độ tŕ cho con cháu và tưởng nhớ các vị vua tài đức của họ; và Lễ hội Chabur (tháng 9 âm lịch) để dâng cúng các nữ Thần như nữ thần Pô Inư Nagar, c̣n gọi là Thiên Y A Na, là bà chúa xứ của đồng bào Chăm. Đặc biệt là sự đối lập giữa Nam thần qua lễ hội Katê và Nữ thần với lễ hội Chabur cùng những ư niệm trời đất, cha mẹ, đực cái… thể hiện triết thuyết âm dương dịch biến luận của người Việt cổ c̣n lưu giữ măi tới ngày nay. Đồng bào Chăm c̣n lưu lại một nền văn hóa cổ với những vần thơ dân gian, những bia kư sử thi văn học, những giai thoại truyền kỳ lịch sử cùng với nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng tinh vi, sống động của truyền thống của người Môn-Việt thời cổ đại.
Nhận xét[sửa | sửa mă nguồn]
Tiến sĩ Mỹ Dung[2] nhận xét như sau về những đồ trang sức độc đáo này:
Theo như biểu tượng của thế giới, con chim nước tượng trưng cho mặt trời. Chẳng hạn hiện vật h́nh con chim ở khu vực mộ chum hậu kỳ thời đại đồ đồng vùng sông Danube ở châu Âu. Hạt chuỗi mă năo duy nhất ở Đông Nam Á t́m thấy ở Thái Lan có h́nh con sư tử. Từ trước đến nay, trong các mộ táng khai quật được, chúng tôi chỉ phát hiện những hạt mă năo h́nh chuỗi b́nh thường. Mă năo mang h́nh dạng con vật th́ chưa bao giờ t́m thấy.Từ xưa đến nay người ta vẫn cho rằng nghề thủy tinh rất phát triển trong thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng phát triển ở mức độ cao như vậy th́ thật đáng kinh ngạc..
florida80
05-01-2019, 18:08
Cánh đồng chum là một khu vực văn hóa lịch sử gần thi xă Phonsavan, thuộc tỉnh Xiengkhuang của Lào, nơi có hàng ngàn chum bằng đá nằm rải rác dọc theo cánh đồng thuộc Cao nguyên Xiengkhuang tại cuối phía bắc của dăy núi Trường Sơn. Trong Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh bí mật, Cánh đồng chum được đề cập đến một cách đặc thù để chỉ cả vùng đồng bằng Xiengkhuang chứ không phải chỉ địa điểm văn hóa này
https://i.imgur.com/bbKjKiL.jpg
Huyền thoại và lịch sử địa phương
Các nhà khảo cổ tin rằng các chum này có niên đại 1500 đến 2000 năm, được những người thuộc nhóm Môn-Khmer mà nền văn hóa của họ ngày nay không được người ta hiểu biết thấu đáo làm ra. Phần lớn các hiện vật khai quật có niên đại 500 trước Công nguyên - 800 sau Công Nguyên. Các nhà nhân loại và khảo cổ học cho rằng có thể các chum này đă được sử dụng để đựng di cốt hoặc chứa thực phẩm.
Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người khổng lồ đă từng định cư ở khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị vua cổ đại tên là Khun Cheung - đă tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù thành công. Ông đă cho tạo lập cánh đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu gạo lao lao để ăn mừng chiến thắng.
Người phương tây đầu tiên tiến hành khảo sát, nghiên cứu và ghi chép liệt kê các hiện vật của cánh đồng chum là một nhà khảo cổ học người Pháp tên là Madeleine Colani thuộc Viện Viễn đông Bác cổ (École Française d'Extrême Orient những năm 1930. Bà đă cùng với nhóm nghiên cứu của ḿnh khai quật khu vực cánh đồng chum và phát hiện ra một hang động gần đấy với các di hài của con người, bao gồm cả xương và tro bị đốt. Các khai quật của bà là toàn diện nhất dù đă có những cuộc khai quật khác.
Một quả bom của Hoa Kỳ đă phá hỏng một động trong thời kỳ chiến tranh bí mật khi quân đội Pathet Lào sử dụng hang động làm căn cứ -
Cánh đồng chum: Site 1
Jar Site 1
Jar Site 3
Vị trí
Nguồn gốc của những chiếc chum
Madeleine Colani suy doán, với nhiều bằng chứng kèm theo, rằng các cánh đồng chum có liên hệ với một con đường bộ hành từ bắc Ấn Độ.
T́nh trạng hiện nay
Cánh đồng chum vẫn là một trong những địa điểm khảo cổ nguy hiểm nhất thế giới. Những quả bom chưa nổ sót lại thời chiến tranh thuộc Chiến tranh bí mật vẫn gây thương thích mỗi tuần. Trong thời kỳ chiến tranh đó, không quân Mỹ đă rải bom dày đặc khu vực này. Du khách đến đây chỉ được tham quan an toàn ở 3 vị trí là Vị trí 1, 2 và Vị trí 3 và phải theo chỉ dẫn của các biển báo các quả bom chưa nổ nhưng nhiều người vẫn không để ư đến các biển báo này
florida80
05-01-2019, 18:13
Xe ngựa chiến
Buớc tưới chuyển hướng
Bước tới t́m kiếm
Bản đồ lịch sử xấp xỉ về sự lan truyền của chiến xa, 2000-500 TCN
Chiến xa là một loại xe do động vật kéo (chủ yếu là ngựa nên có thể gọi là xe ngựa),[1] sơ khai và đơn giản nhất, được sử dụng cả trong chiến tranh cũng như thời b́nh như là phương tiện quan trọng bậc nhất của nhiều dân tộc cổ đại. Chiến xa được tạo ra ở khu vực Lưỡng Hà bởi các cư dân ở đây ngay từ khoảng năm 3000 TCN và tại Trung Quốc trong khoảng thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Chiến xa nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau. Cỗ xe kéo nhỏ với một khung chắn bảo vệ cao đến thắt lưng ở phía trước. Chiến xa, điều khiển bởi một người đánh xe, được sử dụng cho chiến tranh thời cổ đại trong suốt thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Cỗ xe này tiếp tục được dùng trong di chuyển, diễu hành và trong các cuộc thi đấu, các cuộc đua sau khi nó không c̣n được dùng với mục đích quân sự.
Những chiến xa ngựa kéo sử dụng trong chiến trận có những bánh xe lắp nan hoa. Hầu hết những con ngựa trong thời kỳ này không thể chịu được trọng lượng của một người đàn ông trong trận chiến. Kỵ binh đă được sử dụng ở Trung Á từ năm 3000 TCN và cuối cùng đă thay thế lực lượng quân đội chiến đấu trên những cỗ xe ngựa.
Những chiến xa có bánh xe nan hoa sớm nhất đă tồn tại từ năm 2000 TCN và cách sử dụng chúng đạt đến đỉnh cao vào khoảng năm 1300 TCN (điển h́nh là trong trận Kadesh). Chiến xa mất ư nghĩa quan trọng trong quân đội vào thế kỷ thứ 4 TCN nhưng những cuộc đua xe ngựa vẫn tiếp tục phổ biến ở Constantinopplis cho đến tận thế kỷ thứ 6.
https://i.imgur.com/ZEqDBye.png
Những phương tiện có bánh xe đầu tiên ở Sumer[sửa | sửa mă nguồn]
Chiến xa có lẽ bắt nguồn ở Lưỡng Hà và khoảng năm 3000 TCN. Sự mô tả sớm nhất về những cỗ xe trong bối cảnh chiến tranh là ở trên "Cờ hiệu của Ur" ở Nam Lưỡng Hà, khoảng năm 2500 TCN (Ur là một thành phố cổ của người Sumer, ngày nay nằm ở phía Nam Bagdad, Iraq). Chúng được gọi một cách đúng đắn hơn là xe ḅ hay xe ngựa, có trục xe đôi và được kéo bởi những con ḅ hay những con lừa thuần dưỡng, trước khi đưa ngựa vào sử dụng khoảng năm 2000 TCN. Mặc dù đôi khi chở theo một binh sĩ dùng giáo cùng với người đánh xe, những cỗ xe nguyên thủy nặng nề thuộc loại này, được chống đỡ trên những bánh xe bằng gỗ đặc, có lẽ là một phần của đoàn xe chở hàng hơn là những phương tiện trong chiến trận. Người Sumer cũng có một loại chiến xa 2 bánh nhẹ hơn, được kéo bởi những con lừa, nhưng vẫn là với những bánh xe đặc. Bánh xe nan hoa không xuất hiện ở Lưỡng Hà cho đến những năm 2000 TCN.
Người Ấn-Iran thời kỳ đồ đồng[sửa | sửa mă nguồn]
Sự phát triển đầy đủ của chiến xa được biết đến sớm nhất là từ những nơi chôn cất chúng (nơi mà người chết được chôn cùng cỗ xe của họ) từ khoảng năm 2000 TCN ở Andronovo (Timber-Grave), khu vực thuộc về nền văn hóa Sintashta-Petrovka ở Nga và Kazakhstan hiện nay. Nền văn minh này ít nhất có một phần được bắt nguồn từ nền văn minh Yamna trước đó. Nó đă tạo dựng lên những khu định cư vững chắc, tiến hành những hoạt động luyện kim loại đồng trên quy mô chưa từng thấy cho đến nay và thực hiện những nghi lễ mai táng phức tạp gợi đến những nghi lễ của người Aryan. Nền văn minh Andronovo trong vài thế kỷ tiếp đó đă lan rộng ra khắp các thảo nguyên từ dăy núi Uran đến dăy núi Thiên Sơn, có thể tương ứng với nền văn minh Iran-Ấn sơ khai, cuối cùng cũng truyền bá đến Iran và Ấn Độ trong thiên niên kỷ thứ 2 TCN.
Vùng Cận Đông cổ đại
Một số nhà nghiên cứu đưa ra ư kiến rằng chiến xa rất có khả năng là sản phẩm của vùng Cận Đông cổ đại vào đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN.
Hittite[sửa | sửa mă nguồn]
Chiến xa Hittite (theo bản vẽ Ai Cập)
Bằng chứng cổ nhất của chiến tranh sử dụng chiến xa ở vùng Cận Đông cổ đại là văn bản của Anitta bằng tiếng Hittite cổ (thế kỷ 18 TCN, nói đến 40 đội ngựa (40 ?Í-IM-D̀ ANŠE.KUR.RA?I.A) trong trận bao vây Salatiwara, Anatolia. Bởi v́ chỉ có "những đội ngựa" được đề cập đến ở đây chứ không rơ ràng là những chiến xa, vậy nên sự hiện diện của chiến xa trong thế kỷ 18 được coi là có phần không chắc chắn. Bằng chứng đích xác đầu tiên về chiến xa ở đế quốc Hittite là vào cuối thế kỷ 17 TCN (thời kỳ vua Hattusili I). Một văn bản về việc huấn luyện ngựa của người Hittite vẫn c̣n tồn tại, được cho là của Kikkuli (một nhà nuôi ngựa nổi tiếng thế kỷ 15 TCN)
Người Hittite nổi tiếng về khả năng điều khiển chiến xa. Họ đă phát triển một kiểu chiến xa mới, có những bánh xe nhẹ hơn với bốn nan hoa chứ không phải tám, và chở được ba người lính chứ không phải hai. Sự thịnh vượng của Hittite phần lớn là phụ thuộc vào sự kiểm soát của họ vào tuyến đường buôn bán và tài nguyên thiên nhiên, cụ thể là các kim loại. Khi người Hittite giành được quyền thống trị trên khắp vùng Lưỡng Hà, t́nh trạng căng thẳng bùng lên giữa những nước láng giềng là Assyria, Hurian và Ai Cập. Dưới thời Suppiluliuma I, người Hittite xâm chiếm Kadesh và cuối cùng là toàn bộ Syria. Trận Kadesh năm 1299 TCN có lẽ là trận chiến lớn nhất mà chiến xa tham gia, bao gồm khoảng chừng 5 ngh́n cỗ xe.
Ai Cập
Bài chi tiết: Chiến xa thời Ai Cập cổ đại
Chiến xa, cũng như cùng với loài ngựa, được đưa vào sử dụng ở Ai Cập bởi những kẻ xâm lược Hyksos trong thế kỷ 16 TCN và rơ ràng đă đóng góp vào những thành tựu quân sự của họ. Trong nghệ thuật của Ai Cập và Assyria c̣n tồn tại, có nhiều sự miêu tả h́nh tượng của chiến xa. Những cỗ chiến xa của Ai Cập và Assyria, với người lính lấy cung làm vũ khí tấn công chính, được trang bị đầy đủ những ống đựng đầy các mũi tên. Người Ai Cập phát minh ra ách để thắng cho những con ngựa ở chiến xa của họ và khoảng năm 1500 TCN. H́nh mẫu được lưu giữ tốt nhất của chiến xa Ai Cập là 4 mẫu vật từ lăng mộ của Pharaon Tutankhamun.
Ba Tư[sửa | sửa mă nguồn]
Người Ba Tư kế tiếp người Elam vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Họ có lẽ là những người đầu tiên buộc ách cho bốn con ngựa (hơn là hai con) vào cỗ xe chariot của họ. Họ cũng đă dùng scythed chariot. Hoàng tử Cyrus em đă đưa vào sử dụng loại chiến xa này với số lượng lớn.
Nhà sử học Hy Lạp Herodotus đề cập rằng người Libya đă cung cấp kỵ binh và chiến xa cho quân đội của hoàng đế Xerxes Đại đế. Tuy nhiên, vào thời gian này, kỵ binh có hiệu quả và nhanh nhẹn hơn nhiều so với chiến xa, và thất bại của vua Darius III trong trận Gaugamela (331 TCN), khi quân đội của Alexandros bỏ trống hàng ngũ để cho chiến xa vượt qua rồi tấn công họ từ đằng sau, đánh dấu sự chấm dứt của kỷ nguyên chiến tranh dùng chiến xa.
Ấn Đo
Cỗ xe ngựa kéo được khắc vào mandapam tại đền Airavateswarar, Darasuram, khoảng thế kỷ 12 TCN (trái). Xe ngựa và bánh (phải) được điêu khắc với các chi tiết tinh xảo
Có một vài khắc họa chiến xa trên những bức tranh điêu khắc trên đá sa thạch của dăy núi Vindhya. Hai bức họa về chiến xa được t́m thấy ở Morhana Pahar, huyện Mirzapur. Một bức thể hiện cỗ xe song mă với một người điều khiển hữu h́nh. Bức kia là cỗ xe được kéo bởi bốn con ngựa, với những bánh xe có 6 nan hoa, và thể hiện một người điều khiển đứng trong một toa xe kéo lớn. Cỗ xe chariot này đang bị tấn công, với một nhân vật đang cầm một cái khiên và một cái chùy, một nhân vật khác trang bị cung tên đang hăm dọa từ phía bên phải. Người ta đưa ra giả thuyết rằng bức vẽ này ghi lại một câu chuyện, hầu như chắc chắn là có niên đại từ những thế kỷ xa xưa trước công nguyên, từ một vài trung tâm của khu vực đồng bằng sông Hằng và sông Jamuna cho đến lănh thổ vẫn c̣n là các bộ lạc săn bắn của thời kỳ đồ đá mới.
Chiến xa gắn dao được sáng chế ra bởi vua vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà vào khoảng năm 475 trước công nguyên. Ông đă sử dụng những cỗ xe ngựa này để chống lại Licchavis. Một cỗ xe ngựa gắn dao là một chiến xa với những lưỡi dao sắc h́nh liềm được gắn vào mỗi đầu của trục xe. Lưỡi dao, dùng như một vũ khí, kéo dài theo chiều ngang khoảng 1 mét ở hai phía của xe.
Có một cỗ xe được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia AP, Hyderabad, Andhra Pradesh.
Trung Quốc[sửa | sửa mă nguồn]
Địa chủ trên xe ngựa (Đông Hán, 25–220 CN, An B́nh, Hà Bắc)
Khu vực lăng mộ xe ngựa sớm nhất ở Trung Quốc được khám phá vào năm 1933 tại tỉnh Hà Nam, có niên đại vào thời kỳ trị v́ của vua Vũ Đinh của nhà Hậu Thương (khoảng năm 1200 TCN). Nhưng những cỗ xe ngựa có lẽ được biết đến từ trước đó, ngay từ triều đại nhà Hạ (thế kỷ 17 TCN).
Trong suốt triều nhà Thương, những thành viên hoàng gia được mai táng với một gia đ́nh đầy đủ và những người nô bộc, bao gồm cả một cỗ xe ngựa, những con ngựa và một người đánh xe. Xe ngựa thời nhà Thương thường được kéo bởi hai con ngựa, nhưng những cỗ xe tứ mă thỉnh thoảng cũng được t́m thấy trong các hầm mộ. Đội ngũ trên một cỗ chiến xa gồm có một cung thủ, một người đánh xe, và đôi khi có một người thứ ba được trang bị giáo hay mác. Trong suốt thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 5 TCN, người Trung Quốc sử dụng chiến xa đạt đến đỉnh cao, chúng xuất hiện với số lượng ngày càng to lớn, nhưng bộ binh lại thường đánh bại chúng trong chiến trận.
Chiến xa trở thành lỗi thời trong thời kỳ Chiến Quốc, lư do chính là sự phát minh ra nỏ và sự ra đời của kỵ binh bắn tên, những thứ có hiệu quả hơn
florida80
05-01-2019, 18:15
Văn hóa Hầm mộ hay văn hóa Catacomb (từ tiếng Nga và tiếng Ukraina катакомба nghĩa là hầm mộ hay mộ động), khoảng 2000-1250 TCN, là thuật ngữ chỉ một văn hóa đầu thời đại đồ đồng trên khu vực về cơ bản ngày nay là phía đông và nam Ukraina, các vùng Hạ Volga, bắc Kavkaz và dọc sông Đông. Nó có quan hệ mật thiết với văn hóa Yamna (khoảng 3600-2300 TCN), và dường như có thể là thuật ngữ mang tính khu vực nhiều hơn để nói tới một vài văn hóa
nhỏ hơn có liên quan về mặt khảo cổ học, như văn hóa Donetsk, văn hóa Pred-Kavkaz và văn hóa Kharkiv-Voronezh v.v. Được V. A. Gorodtsov phát hiện đầu thế kỷ 20.
Kinh tế và nghi thức mai táng
Tên gọi của văn hóa này xuất phát từ thực tiễn chôn cất người chết của nó. Những ngôi mộ này là tương tự như các ngôi mộ của văn hóa Yamna, nhưng với khoảng không trống rỗng ngoài đường hầm chính, tạo ra 'hầm mộ'. Các di vật động vật được kết hợp lại thành phần nhỏ của các ngôi mộ.
Trong một số ngôi mộ nhất định có một thực tiễn đặc biệt về lớp mặt nạ bằng đất sét màu đỏ (tượng trưng cho lửa) trên khuôn mặt người chết trong tư thế nằm nghiêng trên một bên hông, tạo ra một sự kết nối hiển nhiên (dù không nhất thiết là chính xác) với mặt nạ bằng vàng nổi tiếng của Agamemnon (xem thêm văn hóa Tashtyk).
Kinh tế về cơ bản là chăn thả gia súc, mặc dù các dấu vết của hạt cây lương thực cũng được t́m thấy. Tuy nhiên, ở đây dường như có các thợ lành nghề khéo tay, cụ thể là trong lĩnh vực luyện kim.
Nguồn gốc và sự biến mất
Nguồn gốc của văn hóa Hầm mộ gây tranh căi. Jan Lichardus[1] liệt kê 3 khả năng:
Chỉ là sự phát triển địa phương tách ra khỏi văn hóa Yamna trước đó.
Sự di cư từ Trung Âu.
Nguồn gốc Đông phương.
Văn hóa này là đầu tiên trong việc giới thiệu các họa tiết trang trí đồ gốm dạng sọc nổi vào vùng thảo nguyên và thể hiện sự sử dụng đa dạng các dạng ŕu chiến được chau chuốt, đưa ra mối liên kết với phương Tây (văn hóa Ŕu chiến, khoảng 3200-1800 TCN). Giống với văn hóa Afanasevo (3500-2500 TCN), bao gồm các biến dạng hộp sọ, lại đưa ra mối liên kết với phương Đông.
Văn hóa Hầm mộ được thay thế bằng văn hóa Srubna (văn hóa Mộ gỗ, khoảng thế kỷ 16 tới thế kỷ 9 TCN) từ khoảng thế kỷ 17, gắn liền với sự mở rộng của Iran hay bằng Cimmeria (được phân loại như là các tộc người có nguồn gốc Iran, Thracia hay Celt).
Ngôn ngữ
Thành phần hợp thành về mặt ngôn ngữ của văn hóa Hầm mộ là không rơ ràng. Trong ngữ cảnh của giả thuyết Kurgan do Marija Gimbutas đề xuất, thành phần Ấn-Âu khó có thể phủ nhận, cụ thể là ở các giai đoạn muộn hơn. Việc đặt tổ tiên của các ngôn ngữ như tiếng Hy Lạp, tiếng Armenia và các phương ngữ Cổ-Balkan vào đây là đáng chú ư, do nó có thể giải thích rơ nét và gọn gàng ngăn nắp một số các đặc trưng chia sẻ chung nhất định.
Gần đây hơn, nhà khảo cổ học người Ukraina là V. Kulbaka đă cho rằng các văn hóa Hậu Yamna trong khoảng 3200-2800 TCN; đặc biệt là các nhóm Budzhak, Starosilsk, Novotitarovka; có thể là đại diện cho các tổ tiên Hy Lạp-Armenia-"Arya"(=Ấn-Iran) (ngôn ngữ Graeco-Arya, ngôn ngữ Graeco-Armenia), và văn hóa Hầm mộ là của các tộc người Ấn-Iran "hợp nhất" (tới khoảng 2500 TCN) và sau đó "phân chia".
Phiên bản năm 1998 của S. A. Grigoryev[2] cho giả thuyết Armenia gắn văn hóa Hầm mộ với các dân tộc Ấn-Arya, do nghi thức chôn cất hầm mộ có nguồn gốc tại Tây Nam Turkmenistan từ đầu thiên niên kỷ 4 TCN (nghĩa địa Parkhai).
florida80
05-01-2019, 18:18
Văn hóa Abashevo là một văn hóa khảo cổ thuộc thời đại đồ đồng ở khoảng nửa sau thiên niên kỷ 2 TCN trên vùng lănh thổ Nga thuộc châu Âu, từ tỉnh Kaluga tới miền nam cộng ḥa Bashkiria. Văn hóa này có tên gọi từ tên làng Abashevo (cộng ḥa Chuvashiya), nơi vào năm 1925 lần đầu tiên một đoàn các nhà khảo cổ dưới sự chỉ đạo của V. F. Smolin đă t́m thấy các g̣ mộ của nó[1]. Trong thập niên 1950-1960 K. V. Salnikov đă phân chia ra các biến thể Trung
Volga, Sterlitamaksk (Bashkiriya), Magnitogorsk (Ngoại Ural), Trung sông Đông và Hạ sông Đông của văn hóa Abashevo, c̣n A. D. Pryakhin (1976, 1977) lại cho rằng văn hóa Abashevo có điểm chung về mặt lịch sử, trong đó chứa các văn hóa khảo cổ Đông-Volga, Trung sông Đông và Ural (Balanbash
Nguồn gốc dân tộc
Theo một số nhà nghiên cứu, văn hóa Abashevo và văn hóa Fatyanovo, theo nguồn gốc của ḿnh có liên quan với văn hóa Trung Dnepr và là sự phát triển của biến thể địa phương của văn hóa Srubna. Những người chết thuộc chủng Kavkaz mặt dài nằm trong các ngôi mộ kiểu Srubna được thể hiện rơ trong các mộ táng của văn hóa Abashevo. Về mặt dân tộc học th́ dân cư của văn hóa Abashevo là người Aria, được xác nhận bằng nhiều điểm tương đồng với kinh Vệ Đà cổ đại, với các dữ liệu của khảo cổ học và nhân loại học[2].
Địa điểm
Các di vật khảo cổ của văn hóa Abashevo được t́m thấy tại Chuvashiya (trên thực tế là làng Abashevo), Mari El, Bashkiria cũng như các tỉnh Voronezh[3] và Lipetsk[4].
Theo quan điểm của A. D. Pryakhin, văn hóa Abashevo h́nh thành tại vùng Trung sông Đông và khu vực phụ cận trong thế kỷ 17-18 TCN trên cơ sở các truyền thống văn hóa của dân cư vùng rừng và rừng-thảo nguyên Đông Âu, trang trí các nồi, niêu, xoong, chậu của ḿnh bằng các họa tiết dạng dây nổi, với sự tham gia tích cực của các nhóm dân cư thảo nguyên. Từ các vùng xuất phát điểm ban đầu này dân cư của văn hóa Abashevo đă tỏa ra để định cư tại các khu vực khác: Sursk-Volga, Đông-Volga và Ural. Trong thế kỷ 16-17 TCN dân cư Abasevo đă trở thành một trong các hợp phần tạo thành dân cư giai đoạn đầu của các văn hóa như Alakul và Srubna tại các khu vực thảo nguyên và rừng-thảo nguyên tại miền bắc đại lục Á-Âu[1].
Đặc điểm
Các điểm dân cư Abashevo phân bố trên các mũi đất tại các địa h́nh băi bồi ven sông[1]. Các ngôi nhà của người Abashevo là các kết cấu với khung nhiều buồng trên mặt đất và móng đào nông vào trong ḷng đất. Mái nhà là dạng 2 hay 4 mặt nghiêng được lợp bằng các loại vật liệu hữu cơ (lau sậy, cỏ, vỏ cây, v.v.). Bên trong nhà có các bếp ḷ và các hốc nội trợ. Đồ gốm Abashevo là b́nh dạng chậu và hộp, nét đặc trưng dân tộc của b́nh chậu Abashevo là dạng chuông. Người ta cũng t́m thấy các sản phẩm kim loại (vũ khí h́nh phiến lá, dao, dao găm, dao trổ, ŕu, ŕu cuốc, đầu mũi giáo, các móc bọc lót, dùi, nhiều đồ trang sức đa dạng - ṿng, khuyên tai v.v), xương (dao trổ, khóa cài, v.v.), đá (ŕu, chày, búa, đe, v.v.), đá phiến silic (mũi tên, các tấm nạo, các tấm dạng dao). Hầu như trong tất cả các ngôi nhà của văn hóa Abashevo đều có dấu vết của việc gia công kim loại[1].
Lĩnh vực chính của nền kinh tế của dân cư văn hóa Abashevo là chăn thả gia súc lưu động không nhốt trong chuồng trại, luyện kim và gia công đồng thiếc[1]. Một yếu tố quan trọng của các nền văn hóa Abashevo là việc chăn nuôi ngựa. Họ đă có thể sản xuất ra các cỗ xe do ngựa kéo[5]. Công cụ lao động bằng đá, đồng và xương gia súc cùng động vật hoang dă chứng thực về các nghề săn bắn, chăn thả gia súc và nông nghiệp. Người Abashevo là những người đầu tiên khai thác các mỏ kim loại màu tại khu vực Ural[6]. Các khu dân cư của văn hóa Abashevo chỉ được t́m thấy tại khu vực ven Ural.
Tục thờ cúng lửa và thần Mặt Trời rất phát triển trong các bộ lạc Abashevo (tương tự như của Hỏa giáo).
Các di chỉ mộ táng - chôn cất dưới g̣ mộ - chủ yếu bắt gặp trong lưu vực các sông Belaya, Dema, Ik. Người ta phân biệt mộ kiểu các ụ đất đơn giản, các g̣ mộ với rào chắn bằng đá với dấu vết của các hàng rào dạng cột. Ngoài các hốc chôn cất đơn giản trong đất, cũng thấy có các khoang chôn cất, được tạo ra từ bên trong hốc đá hoặc hốc gỗ, trong một số trường hợp người ta cũng che phủ phía trên bằng đá hay gỗ. Trong các hốc chôn cất, ngoài xương người chết, c̣n t́m thấy một phần hay toàn bộ nồi niêu, cùng các đồ kim khí (dao, dao găm, đồ trang sức), xương và đá. Người ta cũng t́m thấy mộ chôn cất tập thể (Yukalikulevo, Ahmerova II) [1].
Trong các g̣ mộ được khai quật người ta thấy người Abashevo đă chôn cất người chết với các nồi niêu, xoong, chậu, b́nh, lọ bằng đất sét có trang trí và các đồ trang sức bằng đồng và bạc.
Tương tác với văn hóa Andronovo
Theo kiểu cách sinh sống th́ các bộ lạc Abashevo gần với các bộ lạc của văn hóa Andronovo. Người Abashevo ở Nam Ural có tiếp xúc gần gũi với các láng giềng phía đông - người Andronovo. Người Abashevo cũng vay mượn một số họa tiết trang trí của các bộ lạc Andronovo để trang trí các b́nh chậu bằng đất sét của ḿnh. Các b́nh chậu như vậy được t́m thấy khi khai quật mộ táng Metevtamaksk. Đồng thời, một số đặc điểm, là đặc trưng của văn hóa Abashevo, cũng được chuyển cho người Andronovo. Điều này lư giải cho rất nhiều các di vật là đồ trang sức kim khí kiểu Abashevo, được t́m thấy trong các di chỉ Andronovo.[7].
phokhuya
05-01-2019, 23:51
Hiện nay th́ gọi là thời đại "Khỉ Trường Sơn. Thời đại của đồ "Dzơm"
lol...:hafppy::hafpp y::hafppy:
tucodien
05-02-2019, 00:51
người ta chỉ cần 150-200 năm đă trở thành cường quốc
VN tới 4000 năm lịch sữ mà vẫn c̣n ở giai đoạn "Khỉ đội lốp người"
nó giống như 1 đứa trẻ học cả đời mà không bao giờ lên lớp.
nói thằng ra là 1 đứa trẻ bị bệnh thiểu năo. hai nói trắng ra là cái đám khỉ Bắc Trừong Sơn là đám khỉ bị bệnh thiểu năo.
đây cũng là nhờ ơn Đảng Và Bác.
wonderful
05-02-2019, 12:12
Hiện nay th́ gọi là thời đại "Khỉ Trường Sơn. Thời đại của đồ "Dzơm"
lol...:hafppy::hafpp y::hafppy:
người ta chỉ cần 150-200 năm đă trở thành cường quốc
VN tới 4000 năm lịch sữ mà vẫn c̣n ở giai đoạn "Khỉ đội lốp người"
nó giống như 1 đứa trẻ học cả đời mà không bao giờ lên lớp.
nói thằng ra là 1 đứa trẻ bị bệnh thiểu năo. hai nói trắng ra là cái đám khỉ Bắc Trừong Sơn là đám khỉ bị bệnh thiểu năo.
đây cũng là nhờ ơn Đảng Và Bác.
Phải nói cho đúng ra là gene của bác sản xuất ra một giống khỉ dử thiếu nảo và tham ăn.
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.