troopy
06-07-2019, 10:27
Đi nắng rất nhiều người bị say, nặng có thể bất tỉnh. Nếu gặp trường hợp này hăy lập tức dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt nhân trung và thập tuyên.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1396826&stc=1&d=1559903180
Trong y học cổ truyền, say nắng say nóng được gọi là chứng Trúng thử với cơ chế sinh bệnh là do: trên cơ sở chính khí hư suy (giảm sức đề kháng), hai nhân tố gây bệnh là thử nhiệt hoặc thử thấp xâm nhập vào c,ơ th.ể, uất lại và nung đốt làm hao tổn âm dị.ch mà tạo thành bệnh.
Nếu nặng th́ thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu tân dị.ch bị hao tổn quá nhiều th́ phát sinh chứng hư thoát.
Say nắng, say nóng thường thể hiện ở hai mức độ: Nhẹ th́ đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi ră rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vă; Nặng th́ ngoài các triệu chứng trên c̣n có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vă mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.
Huyệt Thái xung.
Về mặt trị liệu, khi gặp t́nh trạng này phải hết sức nhanh chóng tiến hành các biện pháp sau đây:
Khẩn trương đưa người bệnh đến chỗ râm mát, thoáng gió, cởi bỏ và nới rộng quần áo, cho uống một ít nước muối nhạt hoặc nước chín mát, dùng khăn thấm ướt nước lạnh hoặc rượu trắng lau các hốc tự nhiên như hơm nách, bẹn...
Nếu nặng, bất tỉnh nhân sự th́ lập tức dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt nhân trung và thập tuyên. Vị trí huyệt nhân trung: ở điểm nối 1/3 trên với 2/3 dưới của rănh nhân trung, giữa đáy rănh. Vị trí huyệt thập tuyên: ở đỉnh cao nhất giữa 10 đầu ngón tay. Bấm các huyệt này có tác dụng khai khiếu (làm thức tỉnh) và tiết nhiệt (thải nhiệt, giải nhiệt). Sách Châm cứu khổng huyệt cập kỳ liệu pháp tiện lăm đă viết: “Thập tuyên là kỳ huyệt... dùng kim tam lăng hoặc kim lớn châm ra m.á.u chủ trị tất cả các chứng mất thần cấp tính”.
Dùng gốc bàn tay day ḷng bàn tay, ḷng bàn chân và chỗ hơm giữa thắt lưng của người bệnh (có thể dùng một chút rượu trắng để xoa) sao cho tại chỗ nóng lên là được. Trong tư thế bệnh nhân nằm sấp, x.á.c định và day mạnh huyệt đại chuỳ nằm ở ngay dưới chỗ lồi lớn của ụ xương cổ thứ 7. Sau đó huyệt này có tác dụng thanh nhiệt và thông dương khí. Kinh nghiệm của cổ nhân thường phối hợp kí.ch thí.ch thập tuyên với đại chuỳ để trị sốt cao và chống say nắng.
Nếu bệnh nhân đă tỉnh nhưng c̣n mệt th́ dùng tay xoa, day và vê các ngón chân của người bệnh. Điều này rất có lợi v́ như vậy tác động đến các huyệt vị như ẩn bạch, chí âm, hành gian, thái xung, đại đôn, lệ đoài, túc khiếu âm. Kế đó, dùng ngón tay cái nhẹ nhàng day huyệt thái dương và dọc theo hai lông mày với một lực vừa phải.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, người ta c̣n có thể chọn dùng một trong các biện pháp kí.ch thí.ch hồi tỉnh như: dùng lá hẹ tươi hoặc nga bất thực thảo tươi hoặc gừng tươi hoặc tỏi tươi rửa sạch, giă nát, ép lấy nước để nhỏ vào lỗ mũi; dùng trầm hương và đàn hương đốt khói xông hai lỗ mũi... Khi bệnh nhân tỉnh, có thể cho uống nước sắc lá sen, lá hoắc hương và lá hương nhu tươi. Chú ư: dù người bệnh đă tỉnh hẳn vẫn không nên cho trở lại làm việc trong điều kiện nắng nóng ngay mà phải được nghỉ ngơi trong một thời gian thích đáng.
Vị trí huyệt
Ẩn bạch: ở mé trong ngón chân cái, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.
Chí âm: ở mé ngoài đầu ngón chân út, cách góc móng khoảng 0,1 tấc về phía sau.
Hành gian: cách mép kẽ ngón chân 1 và 2 một khoảng 0,5 tấc.
Thái xung: ở kẽ ngón chân 1 và 2, cách mép da 2 tấc.
Đại đôn: ở mé ngoài ngón chân cái, tại điểm giữa đường nối góc ngoài móng chân và khớp liên đốt ngón chân cái.
Lệ đoài: ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.
Túc khiếu âm: Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0,1 tấc về phía sau.
VietBF @ sưu tầm
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1396826&stc=1&d=1559903180
Trong y học cổ truyền, say nắng say nóng được gọi là chứng Trúng thử với cơ chế sinh bệnh là do: trên cơ sở chính khí hư suy (giảm sức đề kháng), hai nhân tố gây bệnh là thử nhiệt hoặc thử thấp xâm nhập vào c,ơ th.ể, uất lại và nung đốt làm hao tổn âm dị.ch mà tạo thành bệnh.
Nếu nặng th́ thanh khiếu bị che phủ, kinh khí bế tắc gây nên hôn mê, nếu tân dị.ch bị hao tổn quá nhiều th́ phát sinh chứng hư thoát.
Say nắng, say nóng thường thể hiện ở hai mức độ: Nhẹ th́ đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, lợm giọng, buồn nôn, khát nước, da nóng, không có mồ hôi, toàn thân mệt mỏi ră rời hoặc có biểu hiện bồn chồn, vật vă; Nặng th́ ngoài các triệu chứng trên c̣n có thêm sắc mặt nhợt nhạt, vă mồ hôi, chân lạnh, thậm chí xuất hiện hôn mê bất tỉnh, co giật tứ chi.
Huyệt Thái xung.
Về mặt trị liệu, khi gặp t́nh trạng này phải hết sức nhanh chóng tiến hành các biện pháp sau đây:
Khẩn trương đưa người bệnh đến chỗ râm mát, thoáng gió, cởi bỏ và nới rộng quần áo, cho uống một ít nước muối nhạt hoặc nước chín mát, dùng khăn thấm ướt nước lạnh hoặc rượu trắng lau các hốc tự nhiên như hơm nách, bẹn...
Nếu nặng, bất tỉnh nhân sự th́ lập tức dùng ngón tay cái lần lượt bấm mạnh huyệt nhân trung và thập tuyên. Vị trí huyệt nhân trung: ở điểm nối 1/3 trên với 2/3 dưới của rănh nhân trung, giữa đáy rănh. Vị trí huyệt thập tuyên: ở đỉnh cao nhất giữa 10 đầu ngón tay. Bấm các huyệt này có tác dụng khai khiếu (làm thức tỉnh) và tiết nhiệt (thải nhiệt, giải nhiệt). Sách Châm cứu khổng huyệt cập kỳ liệu pháp tiện lăm đă viết: “Thập tuyên là kỳ huyệt... dùng kim tam lăng hoặc kim lớn châm ra m.á.u chủ trị tất cả các chứng mất thần cấp tính”.
Dùng gốc bàn tay day ḷng bàn tay, ḷng bàn chân và chỗ hơm giữa thắt lưng của người bệnh (có thể dùng một chút rượu trắng để xoa) sao cho tại chỗ nóng lên là được. Trong tư thế bệnh nhân nằm sấp, x.á.c định và day mạnh huyệt đại chuỳ nằm ở ngay dưới chỗ lồi lớn của ụ xương cổ thứ 7. Sau đó huyệt này có tác dụng thanh nhiệt và thông dương khí. Kinh nghiệm của cổ nhân thường phối hợp kí.ch thí.ch thập tuyên với đại chuỳ để trị sốt cao và chống say nắng.
Nếu bệnh nhân đă tỉnh nhưng c̣n mệt th́ dùng tay xoa, day và vê các ngón chân của người bệnh. Điều này rất có lợi v́ như vậy tác động đến các huyệt vị như ẩn bạch, chí âm, hành gian, thái xung, đại đôn, lệ đoài, túc khiếu âm. Kế đó, dùng ngón tay cái nhẹ nhàng day huyệt thái dương và dọc theo hai lông mày với một lực vừa phải.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm dân gian, người ta c̣n có thể chọn dùng một trong các biện pháp kí.ch thí.ch hồi tỉnh như: dùng lá hẹ tươi hoặc nga bất thực thảo tươi hoặc gừng tươi hoặc tỏi tươi rửa sạch, giă nát, ép lấy nước để nhỏ vào lỗ mũi; dùng trầm hương và đàn hương đốt khói xông hai lỗ mũi... Khi bệnh nhân tỉnh, có thể cho uống nước sắc lá sen, lá hoắc hương và lá hương nhu tươi. Chú ư: dù người bệnh đă tỉnh hẳn vẫn không nên cho trở lại làm việc trong điều kiện nắng nóng ngay mà phải được nghỉ ngơi trong một thời gian thích đáng.
Vị trí huyệt
Ẩn bạch: ở mé trong ngón chân cái, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.
Chí âm: ở mé ngoài đầu ngón chân út, cách góc móng khoảng 0,1 tấc về phía sau.
Hành gian: cách mép kẽ ngón chân 1 và 2 một khoảng 0,5 tấc.
Thái xung: ở kẽ ngón chân 1 và 2, cách mép da 2 tấc.
Đại đôn: ở mé ngoài ngón chân cái, tại điểm giữa đường nối góc ngoài móng chân và khớp liên đốt ngón chân cái.
Lệ đoài: ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách góc móng chân 0,1 tấc về phía sau.
Túc khiếu âm: Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0,1 tấc về phía sau.
VietBF @ sưu tầm