PDA

View Full Version : Du Tử Lê - một đời sông ra biển


florida80
09-02-2019, 17:28
Đă 40 năm xa xứ, thơ ông như một ấn chứng của những liền lạc trong tâm thức người Việt sau những đoạn ĺa, mất mát, những ngộ nhận không tránh khỏi bởi chiến tranh, và chính thơ đă soi sáng con đường ḥa hợp bởi măi măi thơ mang những tự t́nh dân tộc khó ḷng dứt bỏ...

Ông sinh ngày 10.11.1942 tại làng Vân Lâm (Kim Bảng, Hà Nam). Đời thơ Du Tử Lê cũng như thân phận của bao người Việt xa xứ, lúc nào cũng mang “nỗi sầu xứ” gần như chung mệnh. Sau Hiệp định Genève 1954, Lê Cự Phách - tên thật của ông - cùng gia đ́nh di cư vào Nam. Đầu tiên ông định cư ở phố cổ Hội An, sau đó ra Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài G̣n, theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An và Đại học Văn Khoa. Bút hiệu Du Tử Lê lần đầu xuất hiện vào năm 1958 cùng bài thơ “Bến tâm hồn” đăng trên Tạp chí Mai, xuất bản tại Sài G̣n.


https://i.imgur.com/7vk5Gq6.jpg


Du Tử Lê và nhà văn Trung Trung Đỉnh
trong buổi ra mắt tập thơ tại Hà Nội tháng 5.2014.
Ảnh: Gallery 39A.


Ngay ở bài thơ đầu tay, ông đă nói về một xa ĺa của hồn ḿnh với ḍng sông xứ Bắc, với mây trời, mưa lũ, với “bờ hoang, bến quạnh” và dường như từ thuở tuổi 16 đă chất ngất trong ông một “nỗi niềm cố lư”:

“Lênh đênh hồn phủ phương này/ Thương mưa Hà Nội nhớ mây Hồng Hà/ Mười năm dài những xót xa/ Bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn...”. Khi đọc “Năm mười sáu tuổi tôi chính thức khai sinh tên tôi lần thứ hai/ sau lần khai sinh của bố mẹ/ Từ đó tôi bắt đầu làm thơ/ tôi bắt đầu sống - bắt đầu đời tôi/ như con sông bắt đầu ra biển” (Tôi, Du Tử Lê), nhà phê b́nh Nguyễn Thị Khánh Minh phát hiện “A. Vừa bắt đầu là có điểm hẹn với bao la rồi. Biển. Nhưng người thơ ơi. Bước hăm hở ấy qua mấy ghềnh thác?” (_www.dutule.com).

Rồi trong dài dặc chiến tranh, trong vai một người lính của chế độ cũ, người thơ Du Tử Lê thường nói về sự cô đơn, điêu linh, hoang hoải, sự tàn hủy cả tạo vật bên ngoài lẫn bên trong tâm thức con người của chiến tranh: “đêm có sông/ có đồng cát lở/ đêm có khăn tang/ quấn phủ đầu ḿnh/ đêm vuốt mặt anh - đêm ủ mặt em/ đêm có một ḿnh - có một ḿnh anh”. Du Tử Lê chọn nói về t́nh yêu đôi lứa như một miền đất hứa để cứu văn những tàn hoại của chiến tranh, nhưng chung cuộc thơ vẫn là kẻ thua cuộc:

“Người về đâu không người không về đâu/ chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu/ tôi cây me đứng rung từng lá/ lá vàng rồi tôi cũng vàng theo.../ khi người về tôi không buồn không trông/ ḷng tôi sông nước đủ trăm ḍng/ quanh co một nỗi buồn vô hạn/ qua suốt một đời vẫn nhớ thương” (Khi người về).

Trước 1975, những người yêu thích t́nh ca thời chiến ở miền Nam thường nghe những bài hát mà ca từ được trích để phổ nhạc là thơ Du Tử Lê, như “Trên ngọn t́nh sầu” (nhạc Từ Công Phụng), “Khi cuộc t́nh đă chết” (nhạc Phạm Đ́nh Chương),... Thơ Du Tử Lê thường viết về những cuộc t́nh dang dở, những chia biệt buồn sầu, đau đớn trên nền cảnh chiến tranh, tao loạn với ngôn từ gần gụi, dễ cảm nhưng không thiếu những thi ảnh lạ do sự chọn lựa đầy thi tính của người viết - điều đă khiến ngôn từ vừa tàn hủy vừa tái sinh khi được đứng cùng nhau trong câu chữ kiểu “tóc thề nẻo gió”, “mắt xa ngh́n núi lạ”, “ngực hai mươi hai mốt”, “một hồn đầy môi người”, “mắt lá me”, “môi đưa băo gió”, “nhớ cơn mơ lẻ”, “đêm bưng mặt”, “máu rất buồn”...

Thơ ông luôn ngơ ngác trước định phận tao loạn của t́nh yêu và thân phận trong thời chiến: “Như con chim bói cá/ tôi lặn sâu trong bùn/ hoài công t́m ư nghĩa/ của cảnh t́nh hôm nay” (Khúc thụy du). Quê hương và người t́nh luôn đồng nhất trong ông như một t́nh tự dân tộc, niềm yêu miên viễn mà ông khó dứt bỏ, v́ lẽ ấy chăng, mà năm 1977 khi xa cố xứ, ông có bài “Khi tôi chết hăy mang tôi ra biển”: “Khi tôi chết hăy mang tôi ra biển/ đời lưu vong không cả một ngôi mồ/ vùi đất lạ thịt xương e khó ră/ hồn không đi sao trở lại quê nhà/ khi tôi chết hăy đem tôi ra biển/ nước ngược ḍng sẽ đẩy xác trôi đi/ bên kia biển là quê hương tôi đó/ rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh ŕ...”. Thơ ông từ đó càng thêm day dứt v́ nỗi sầu xứ như ông thú nhận: “Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn”.

Du Tử Lê được giới nghiên cứu đánh giá là một khuôn mặt độc đáo - vừa rất dân tộc, vừa rất đương đại của thơ Việt hải ngoại. Thơ ông được chọn (một trong 5 tác giả Việt Nam) để in vào cuốn “Thế kỷ XX: Thi ca Việt Nam” khi tái bản tuyển tập: “World Poetry An Anthology of Verse From Antiquyti to Our Present Time” (Tuyển tập thi ca thế giới từ xưa đến nay) của Nhà xuất bản W.W.Norton, New York, năm 1998.

https://i.imgur.com/uBKgT51.jpg










Du Tử Lê có nhiều đóng góp vào việc cách tân thơ lục bát theo lối chấm, phẩy, cách ḍng giữa câu kiểu như “đứng. đi. tôi đó. nói. cười/ lúc quay lưng lại tôi ngùi, ngậm tôi”, “cuối cùng đời xuống mênh mông/ hồn đi thu băi, ḷng không, tiếp trời” (Mưa h́nh dung H.T). Du Tử Lê có những câu thơ hay đến “lạnh người” khi ông nhớ người mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, nhớ cả chiếc nhau ḿnh: “Gọi ai gió nổi bốn trời/ chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia” (Thấy b́nh minh trên sa mạc Utah, Nhớ Mẹ Già).

Cuối cùng, th́ người thơ đa đoan với nỗi buồn nhớ ấy đă quay về tuổi nhỏ, với ḍng sông cố lư bằng hành tŕnh “thiền ư” - một quy hồi tâm tưởng và một “điểm hẹn rực rỡ” (chữ của Khánh Minh) đầy nhân bản ở nẻo về:

“Cúi xuống một ḍng sông/ nhớ ǵ không bé dại?/ nghe tự hồn lược gương/ tuổi thơ quành bước lại...”.

Ông có hai lần trở về quê hương sau 1975, lần thứ nhất bằng tác phẩm, đó là tập “Thơ Du Tử Lê” do NXB Văn nghệ TPHCM in năm 2005, và lần thứ hai ông về bằng xương bằng thịt vào đầu tháng 6.2014, đồng thời với việc xuất bản tập thơ “Giỏ hoa thời mới lớn” (Cty Truyền thông Liên Việt, NXB Hội Nhà văn ấn hành 2014).