nguoiduatinabc
09-09-2019, 01:12
Công ty CP Bóng đèn phích nước Rạng Đông bốc cháy khiến người dân hoang mang, sống trong nỗi sợ hăi. Một vụ cháy nghiêm trọng đúng ra phải được gọi là thảm hoạ. Vậy mà chính quyền dường như đă vô cảm trong sự việc này.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1449580&stc=1&d=1567991551
Ngày 6/9, hơn một tuần sau khi vụ cháy xảy ra, lănh đạo Công ty Cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông mới gửi thư xin lỗi.
Trong danh sách được xin lỗi, nhân dân hai phường Hạ Đ́nh và Thanh Xuân Trung - những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của những hệ quả từ vụ cháy - xếp sau cùng. Được nhắc đến đầu tiên là lănh đạo TP Hà Nội, rồi sau đó quận, phường và các cơ quan đơn vị.
Công ty Rạng Đông xin lỗi v́ đă “làm bận tâm, phiền hà đến lănh đạo thành phố, lănh đạo quận Thanh Xuân, ảnh hưởng sức khỏe của lực lượng PCCC và đặc biệt với nhân dân hai phường sát công ty”.
Thế nhưng, hăy thử điểm lại chính quyền đă "bận tâm" như thế nào trong suốt một tuần qua.
Tối 28/8, vụ cháy Rạng Đông xảy ra. Hơn một tuần sau, chính quyền TP Hà Nội mới tổ chức họp bàn về nguyên nhân, hậu quả và hướng giải quyết.
Trong suốt thời gian đó, người dân không hề thấy một phát ngôn, thông báo nào của lănh đạo thành phố ngoại trừ tranh căi giữa lănh đạo quận Thanh Xuân với cấp dưới và các cơ quan chuyên môn khác.
Điều này khiến không ít người ngạc nhiên, băn khoăn và đặt câu hỏi: Lănh đạo chính quyền Hà Nội ở đâu trong suốt mấy ngày người dân thấp thỏm lo âu, sống trong sợ hăi?
Báo chí thậm chí c̣n bị cản trở tham dự cuộc họp chiều 5/9. Phía quận Thanh Xuân th́ tảng lờ mọi câu hỏi của báo chí.
Người dân có quyền thắc mắc v́ sao phía các cơ quan chính quyền phải giấu giếm và t́m cách lảng tránh trách nhiệm như thế?
Trong những sự cố lớn về môi trường xảy ra trong thời gian vừa qua, chúng ta dễ dàng nhận thấy nhiều bất cập và lúng túng của cơ quan chức năng trong việc công bố thông tin. Điều đó khiến cho tin đồn, thông tin thất thiệt, thiếu tin cậy lan tràn, gây hoang mang cho người dân.
Trong những biến cố như vậy, nhất thiết phải có cơ quan đứng ra phát ngôn, cung cấp thông tin - đó là chức năng mà các cơ quan, tổ chức ngoài chính quyền không thể làm thay được. Người dân phải được quyền thông tin đầy đủ về sự việc và tác động đến cuộc sống của họ.
Ở trường hợp cháy Rạng Đông vừa rồi, phản ứng của chính quyền cơ sở (phường Hạ Đ́nh) là rất kịp thời, trách nhiệm và cẩn trọng. Nguyên tắc pḥng ngừa phải được đặt lên trước khi chưa có thông tin đầy đủ.
Tuy nhiên, phản ứng của chính quyền quận Thanh Xuân và TP Hà Nội thực sự chậm chạp, lúng túng và né tránh trách nhiệm như nhiều tờ báo đă chỉ trích. Cách UBND quận Thanh Xuân buộc phường Hạ Đ́nh thu hồi thông báo, kiểm điểm và kỷ luật cấp dưới, thông tin sai sự thật cho người dân khiến công chúng đặt ra nhiều câu hỏi.
Và chính quyền không phải là bên duy nhất làm người dân thêm hoang mang v́ sự thiếu minh bạch thông tin trong bối cảnh họ cần thông tin hơn bao giờ hết.
Hầu hết mọi người chỉ biết đấy là một vụ cháy lớn. Ít ai biết được trong số hàng hóa, nguyên vật liệu của nhà máy có chứa hóa chất cực độc thủy ngân.
Làm sao họ biết được khi bản thân lănh đạo Công ty Rạng Đông không thông tin? Họ chỉ làm vậy vào chiều ngày 30/8, hai ngày sau khi đám cháy xảy ra. Qua báo cáo của công ty, người dân mới biết được có hơn 4 triệu sản phẩm bóng đèn có chứa amalgam, một hợp chất có chứa thủy ngân, nằm trong khu vực nhà kho bị cháy.
Đến ngày 4/9, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết có khoảng 27,2 kg thủy ngân đă bị phát tán ra môi trường. Đấy là c̣n may mắn khi một lượng lớn nguyên liệu amalgam c̣n nguyên vẹn, không bị ảnh hưởng bởi vụ cháy.
NHỌC NHẰN ĐI T̀M CÔNG LƯ
Sự giấu giếm thông tin, thiếu minh bạch của doanh nghiệp và chính quyền có vẻ như là điểm chung của nhiều sự việc ô nhiễm môi trường có tác động nghiêm trọng đến người dân.
Nổi tiếng và dai dẳng nhất có thể nói là vụ Minamata cái tên địa danh giờ đă thành tên một căn bệnh, và cũng là tên của công ước quốc tế về ngăn chặn ô nhiễm thủy ngân mà Việt Nam là thành viên.
Bệnh Minamata là một căn bệnh thần kinh do nhiễm độc thủy ngân. Triệu chứng bao gồm mất điều ḥa hoạt động, tứ chi run rẩy do yếu cơ, tầm nh́n hướng tâm bị che khuất, mất khả năng thính giác, nói khó khăn.
Trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến chứng điên cuồng, tê liệt, hôn mê, cuối cùng bệnh nhân tử vong sau vài tuần kể từ khởi phát triệu chứng đầu tiên. Dạng bất thường bẩm sinh của bệnh có thể ảnh hưởng đến bào thai trong bụng mẹ.
Bệnh Minamata lần đầu tiên được phát hiện ở thành phố Minamata, Kumamoto, Nhật Bản vào năm 1956. Từ năm 1932 đến 1968, Nhà máy hóa chất của Tập đoàn Chisso đă xả thải ra Vịnh Minamata và các khu vực lân cận, trong đó có chất methyl thủy ngân.
Chất hoá học cực độc này đă tích tụ sinh học lại trong nhuyễn thể cũng như cá ở vịnh Minamata và biển Shiranui, sau đó nhiễm độc người dân thông qua chuỗi thức ăn.
Tính đến tháng 3/2001, đă có 2.265 người được xác nhận là mắc bệnh Minamata, trong đó có 1.784 người đă chết. Tập đoàn Chisso đă phải bồi thường cho hơn 10.000 người với khoản chi trả tính đến năm 2004 là hơn 86 triệu USD. Nhiều nạn nhân chưa được bồi thường vẫn tiếp tục quá tŕnh khiếu kiện, đ̣i quyền lợi từ Chisso.
Quá tŕnh đi t́m sự thật và công lư của người dân Minamata không hề đơn giản.
Phải mất 12 năm kể từ khi phát hiện ra căn bệnh th́ Chính phủ Nhật Bản mới kết luận nguyên do là từ Chisso gây ô nhiễm. Trong quá tŕnh điều tra do Trường đại học Kumamoto thực hiện, Tập đoàn Chisso đă liên tục thiếu hợp tác, bưng bít thông tin về quy tŕnh sản xuất và chất thải.
Thậm chí, tập đoàn này che giấu kết quả thí nghiệm của nội bộ, đánh lừa người dân bằng cách lắp đặt hệ thống xử lư nước thải mà họ thừa biết không hề được xử lư, chuyển địa điểm xả thải sang khu vực khác… Chisso cũng t́m cách chia rẽ cộng đồng nạn nhân và tŕ hoăn việc bồi thường.
Tại Canada, từ năm 1962 đến 1970, Công ty hóa chất Dryden, một công ty con của Tập đoàn Reed International (nay là Tập đoàn RELX) đă xả xuống hệ thống sông Wabigoon-English (tỉnh Ontario) hơn 9.000 kg thủy ngân, chưa kể lượng thủy ngân thải ra không khí không đo đếm được.
Hai cộng đồng người bản địa sinh sống tại khu vực tây bắc Ontario đă bị mắc bệnh Minamata do ăn phải cá có tích lũy chất độc thủy ngân. Hậu quả lên sức khỏe của người dân vẫn c̣n dai dẳng đến tận thời điểm hiện nay, thậm chí ở cả thế hệ trẻ.
Các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi chất thải thủy ngân đă tiến hành nhiều vụ kiện. Vào năm 1982, Chính phủ Canada đă đóng góp 2,2 triệu USD cho các chương tŕnh phát triển kinh tế, xă hội và giáo dục tại khu tự trị Wabaseemoong. Đến năm 1984, chính phủ tiếp tục đóng góp 4,4 triệu USD cho khu tự trị Grassy Narrows nhằm phát triển kinh tế và các dịch vụ xă hội.
Năm 1986, Chính phủ Canada và các công ty có liên quan đă kư thỏa thuận bồi thường cho các cộng đồng bị ảnh hưởng với tổng số 16,67 triệu USD. Tuy nhiên, người dân bị ảnh hưởng vẫn chưa được hưởng lợi nhiều từ khoản bồi thường này do cơ chế và yêu cầu đặt ra trong thỏa thuận.
Hậu quả để lại của các vụ việc ô nhiễm chất độc như thủy ngân lên người dân và hệ sinh thái là rất nghiêm trọng và lâu dài. Con đường đi t́m sự thật và công lư của những người bị ảnh hưởng không hề đơn giản khi vấn đề liên quan đến lợi ích của các bên có quyền lực, tiền bạc và ảnh hưởng.
THẢM HỌA PHẢI ĐƯỢC GỌI LÀ THẢM HỌA
Công luận chắc sẽ bàn tán nhiều về lá thư xin lỗi của công ty Rạng Đông. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, để khắc phục hậu quả của vụ cháy, công ty này c̣n phải làm nhiều việc hơn là xin lỗi.
Rạng Đông phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người dân bị ảnh hưởng, thiệt hại lên môi trường, chi trả các khoản chi phí khắc phục ô nhiễm... Tùy thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan chức năng, thậm chí họ có thể phải chịu trách nhiệm h́nh sự đối với vụ hỏa hoạn.
Trong vụ cháy, nhiều người dân cũng băn khoăn liệu có phải do thiếu các kịch bản ứng phó nên chính quyền mới lúng túng và thiếu hành động nhất quán như vậy?
Nếu nh́n nhận vụ việc là sự cố hóa chất, Quy chế Hoạt động ứng phó sự cố hóa chất độc ban hành kèm theo Quyết định số 26/2016/QĐ-TTg quy định rất rơ ràng và chi tiết về quy tŕnh cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là trong Danh mục các loại hóa chất độc kèm theo Quy chế này không có thủy ngân và các hợp chất có thủy ngân.
Nếu nh́n nhận vụ việc là sự cố môi trường th́ hiện tại chưa có quy tŕnh chính thức cho việc ứng phó. Quy chế ứng phó sự cố môi trường do Bộ Tài nguyên và Môi trường soạn thảo từ năm 2018 hiện vẫn đang ở t́nh trạng dự thảo.
Sau sự việc vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần gấp rút tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành ngay Quy chế này và hướng dẫn, phổ biến đến chính quyền các cấp, cũng như tổ chức công tác diễn tập định kỳ ở những điểm có nguy cơ cao xảy ra sự cố, thảm họa.
Tuy nhiên, công việc ứng phó thiên tai, thảm họa không phải là quá mới mẻ đối với Việt Nam. Kinh nghiệm ứng phó đă được đúc kết thành nguyên tắc “4 tại chỗ” và “3 sẵn sàng” và áp dụng nhuần nhuyễn ở nhiều địa phương trong các sự cố khẩn cấp, thiên tai.
Điều cuối cùng, có vẻ như cơ quan chức năng rất sợ từ “thảm họa”. Nhiều vụ việc nghiêm trọng được gọi tên “sự cố” dường như không ổn. Việc phân định rơ ràng mức độ nghiêm trọng của vụ việc từ quy mô sự cố đến thảm họa sẽ giúp có phản ứng phù hợp, kịp thời hơn.
Theo quy chuẩn ứng phó với thảm hoạ do Mỹ ban hành, quá tŕnh tiến hành phục hồi - bao gồm tái phát triển và hỗ trợ cộng đồng bị ảnh hưởng - được tiến hành ngay trong lúc quá tŕnh ứng phó với thảm hoạ đang diễn ra.
Đó cũng là tiêu chí các nước phát triển khác ban hành. Điều này không nằm ngoài mục đích hạn chế thấp nhất những hậu quả nặng nề do thảm họa gây ra.
Những vụ việc có quy mô ảnh hưởng lớn, mức độ nghiêm trọng cần được gọi đúng bản chất của nó là thảm họa. Đó là điều tối thiểu người dân có quyền đ̣i hỏi từ một chính quyền minh bạch và có trách nhiệm.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1449580&stc=1&d=1567991551
Ngày 6/9, hơn một tuần sau khi vụ cháy xảy ra, lănh đạo Công ty Cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông mới gửi thư xin lỗi.
Trong danh sách được xin lỗi, nhân dân hai phường Hạ Đ́nh và Thanh Xuân Trung - những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của những hệ quả từ vụ cháy - xếp sau cùng. Được nhắc đến đầu tiên là lănh đạo TP Hà Nội, rồi sau đó quận, phường và các cơ quan đơn vị.
Công ty Rạng Đông xin lỗi v́ đă “làm bận tâm, phiền hà đến lănh đạo thành phố, lănh đạo quận Thanh Xuân, ảnh hưởng sức khỏe của lực lượng PCCC và đặc biệt với nhân dân hai phường sát công ty”.
Thế nhưng, hăy thử điểm lại chính quyền đă "bận tâm" như thế nào trong suốt một tuần qua.
Tối 28/8, vụ cháy Rạng Đông xảy ra. Hơn một tuần sau, chính quyền TP Hà Nội mới tổ chức họp bàn về nguyên nhân, hậu quả và hướng giải quyết.
Trong suốt thời gian đó, người dân không hề thấy một phát ngôn, thông báo nào của lănh đạo thành phố ngoại trừ tranh căi giữa lănh đạo quận Thanh Xuân với cấp dưới và các cơ quan chuyên môn khác.
Điều này khiến không ít người ngạc nhiên, băn khoăn và đặt câu hỏi: Lănh đạo chính quyền Hà Nội ở đâu trong suốt mấy ngày người dân thấp thỏm lo âu, sống trong sợ hăi?
Báo chí thậm chí c̣n bị cản trở tham dự cuộc họp chiều 5/9. Phía quận Thanh Xuân th́ tảng lờ mọi câu hỏi của báo chí.
Người dân có quyền thắc mắc v́ sao phía các cơ quan chính quyền phải giấu giếm và t́m cách lảng tránh trách nhiệm như thế?
Trong những sự cố lớn về môi trường xảy ra trong thời gian vừa qua, chúng ta dễ dàng nhận thấy nhiều bất cập và lúng túng của cơ quan chức năng trong việc công bố thông tin. Điều đó khiến cho tin đồn, thông tin thất thiệt, thiếu tin cậy lan tràn, gây hoang mang cho người dân.
Trong những biến cố như vậy, nhất thiết phải có cơ quan đứng ra phát ngôn, cung cấp thông tin - đó là chức năng mà các cơ quan, tổ chức ngoài chính quyền không thể làm thay được. Người dân phải được quyền thông tin đầy đủ về sự việc và tác động đến cuộc sống của họ.
Ở trường hợp cháy Rạng Đông vừa rồi, phản ứng của chính quyền cơ sở (phường Hạ Đ́nh) là rất kịp thời, trách nhiệm và cẩn trọng. Nguyên tắc pḥng ngừa phải được đặt lên trước khi chưa có thông tin đầy đủ.
Tuy nhiên, phản ứng của chính quyền quận Thanh Xuân và TP Hà Nội thực sự chậm chạp, lúng túng và né tránh trách nhiệm như nhiều tờ báo đă chỉ trích. Cách UBND quận Thanh Xuân buộc phường Hạ Đ́nh thu hồi thông báo, kiểm điểm và kỷ luật cấp dưới, thông tin sai sự thật cho người dân khiến công chúng đặt ra nhiều câu hỏi.
Và chính quyền không phải là bên duy nhất làm người dân thêm hoang mang v́ sự thiếu minh bạch thông tin trong bối cảnh họ cần thông tin hơn bao giờ hết.
Hầu hết mọi người chỉ biết đấy là một vụ cháy lớn. Ít ai biết được trong số hàng hóa, nguyên vật liệu của nhà máy có chứa hóa chất cực độc thủy ngân.
Làm sao họ biết được khi bản thân lănh đạo Công ty Rạng Đông không thông tin? Họ chỉ làm vậy vào chiều ngày 30/8, hai ngày sau khi đám cháy xảy ra. Qua báo cáo của công ty, người dân mới biết được có hơn 4 triệu sản phẩm bóng đèn có chứa amalgam, một hợp chất có chứa thủy ngân, nằm trong khu vực nhà kho bị cháy.
Đến ngày 4/9, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết có khoảng 27,2 kg thủy ngân đă bị phát tán ra môi trường. Đấy là c̣n may mắn khi một lượng lớn nguyên liệu amalgam c̣n nguyên vẹn, không bị ảnh hưởng bởi vụ cháy.
NHỌC NHẰN ĐI T̀M CÔNG LƯ
Sự giấu giếm thông tin, thiếu minh bạch của doanh nghiệp và chính quyền có vẻ như là điểm chung của nhiều sự việc ô nhiễm môi trường có tác động nghiêm trọng đến người dân.
Nổi tiếng và dai dẳng nhất có thể nói là vụ Minamata cái tên địa danh giờ đă thành tên một căn bệnh, và cũng là tên của công ước quốc tế về ngăn chặn ô nhiễm thủy ngân mà Việt Nam là thành viên.
Bệnh Minamata là một căn bệnh thần kinh do nhiễm độc thủy ngân. Triệu chứng bao gồm mất điều ḥa hoạt động, tứ chi run rẩy do yếu cơ, tầm nh́n hướng tâm bị che khuất, mất khả năng thính giác, nói khó khăn.
Trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến chứng điên cuồng, tê liệt, hôn mê, cuối cùng bệnh nhân tử vong sau vài tuần kể từ khởi phát triệu chứng đầu tiên. Dạng bất thường bẩm sinh của bệnh có thể ảnh hưởng đến bào thai trong bụng mẹ.
Bệnh Minamata lần đầu tiên được phát hiện ở thành phố Minamata, Kumamoto, Nhật Bản vào năm 1956. Từ năm 1932 đến 1968, Nhà máy hóa chất của Tập đoàn Chisso đă xả thải ra Vịnh Minamata và các khu vực lân cận, trong đó có chất methyl thủy ngân.
Chất hoá học cực độc này đă tích tụ sinh học lại trong nhuyễn thể cũng như cá ở vịnh Minamata và biển Shiranui, sau đó nhiễm độc người dân thông qua chuỗi thức ăn.
Tính đến tháng 3/2001, đă có 2.265 người được xác nhận là mắc bệnh Minamata, trong đó có 1.784 người đă chết. Tập đoàn Chisso đă phải bồi thường cho hơn 10.000 người với khoản chi trả tính đến năm 2004 là hơn 86 triệu USD. Nhiều nạn nhân chưa được bồi thường vẫn tiếp tục quá tŕnh khiếu kiện, đ̣i quyền lợi từ Chisso.
Quá tŕnh đi t́m sự thật và công lư của người dân Minamata không hề đơn giản.
Phải mất 12 năm kể từ khi phát hiện ra căn bệnh th́ Chính phủ Nhật Bản mới kết luận nguyên do là từ Chisso gây ô nhiễm. Trong quá tŕnh điều tra do Trường đại học Kumamoto thực hiện, Tập đoàn Chisso đă liên tục thiếu hợp tác, bưng bít thông tin về quy tŕnh sản xuất và chất thải.
Thậm chí, tập đoàn này che giấu kết quả thí nghiệm của nội bộ, đánh lừa người dân bằng cách lắp đặt hệ thống xử lư nước thải mà họ thừa biết không hề được xử lư, chuyển địa điểm xả thải sang khu vực khác… Chisso cũng t́m cách chia rẽ cộng đồng nạn nhân và tŕ hoăn việc bồi thường.
Tại Canada, từ năm 1962 đến 1970, Công ty hóa chất Dryden, một công ty con của Tập đoàn Reed International (nay là Tập đoàn RELX) đă xả xuống hệ thống sông Wabigoon-English (tỉnh Ontario) hơn 9.000 kg thủy ngân, chưa kể lượng thủy ngân thải ra không khí không đo đếm được.
Hai cộng đồng người bản địa sinh sống tại khu vực tây bắc Ontario đă bị mắc bệnh Minamata do ăn phải cá có tích lũy chất độc thủy ngân. Hậu quả lên sức khỏe của người dân vẫn c̣n dai dẳng đến tận thời điểm hiện nay, thậm chí ở cả thế hệ trẻ.
Các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi chất thải thủy ngân đă tiến hành nhiều vụ kiện. Vào năm 1982, Chính phủ Canada đă đóng góp 2,2 triệu USD cho các chương tŕnh phát triển kinh tế, xă hội và giáo dục tại khu tự trị Wabaseemoong. Đến năm 1984, chính phủ tiếp tục đóng góp 4,4 triệu USD cho khu tự trị Grassy Narrows nhằm phát triển kinh tế và các dịch vụ xă hội.
Năm 1986, Chính phủ Canada và các công ty có liên quan đă kư thỏa thuận bồi thường cho các cộng đồng bị ảnh hưởng với tổng số 16,67 triệu USD. Tuy nhiên, người dân bị ảnh hưởng vẫn chưa được hưởng lợi nhiều từ khoản bồi thường này do cơ chế và yêu cầu đặt ra trong thỏa thuận.
Hậu quả để lại của các vụ việc ô nhiễm chất độc như thủy ngân lên người dân và hệ sinh thái là rất nghiêm trọng và lâu dài. Con đường đi t́m sự thật và công lư của những người bị ảnh hưởng không hề đơn giản khi vấn đề liên quan đến lợi ích của các bên có quyền lực, tiền bạc và ảnh hưởng.
THẢM HỌA PHẢI ĐƯỢC GỌI LÀ THẢM HỌA
Công luận chắc sẽ bàn tán nhiều về lá thư xin lỗi của công ty Rạng Đông. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, để khắc phục hậu quả của vụ cháy, công ty này c̣n phải làm nhiều việc hơn là xin lỗi.
Rạng Đông phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người dân bị ảnh hưởng, thiệt hại lên môi trường, chi trả các khoản chi phí khắc phục ô nhiễm... Tùy thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan chức năng, thậm chí họ có thể phải chịu trách nhiệm h́nh sự đối với vụ hỏa hoạn.
Trong vụ cháy, nhiều người dân cũng băn khoăn liệu có phải do thiếu các kịch bản ứng phó nên chính quyền mới lúng túng và thiếu hành động nhất quán như vậy?
Nếu nh́n nhận vụ việc là sự cố hóa chất, Quy chế Hoạt động ứng phó sự cố hóa chất độc ban hành kèm theo Quyết định số 26/2016/QĐ-TTg quy định rất rơ ràng và chi tiết về quy tŕnh cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là trong Danh mục các loại hóa chất độc kèm theo Quy chế này không có thủy ngân và các hợp chất có thủy ngân.
Nếu nh́n nhận vụ việc là sự cố môi trường th́ hiện tại chưa có quy tŕnh chính thức cho việc ứng phó. Quy chế ứng phó sự cố môi trường do Bộ Tài nguyên và Môi trường soạn thảo từ năm 2018 hiện vẫn đang ở t́nh trạng dự thảo.
Sau sự việc vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần gấp rút tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành ngay Quy chế này và hướng dẫn, phổ biến đến chính quyền các cấp, cũng như tổ chức công tác diễn tập định kỳ ở những điểm có nguy cơ cao xảy ra sự cố, thảm họa.
Tuy nhiên, công việc ứng phó thiên tai, thảm họa không phải là quá mới mẻ đối với Việt Nam. Kinh nghiệm ứng phó đă được đúc kết thành nguyên tắc “4 tại chỗ” và “3 sẵn sàng” và áp dụng nhuần nhuyễn ở nhiều địa phương trong các sự cố khẩn cấp, thiên tai.
Điều cuối cùng, có vẻ như cơ quan chức năng rất sợ từ “thảm họa”. Nhiều vụ việc nghiêm trọng được gọi tên “sự cố” dường như không ổn. Việc phân định rơ ràng mức độ nghiêm trọng của vụ việc từ quy mô sự cố đến thảm họa sẽ giúp có phản ứng phù hợp, kịp thời hơn.
Theo quy chuẩn ứng phó với thảm hoạ do Mỹ ban hành, quá tŕnh tiến hành phục hồi - bao gồm tái phát triển và hỗ trợ cộng đồng bị ảnh hưởng - được tiến hành ngay trong lúc quá tŕnh ứng phó với thảm hoạ đang diễn ra.
Đó cũng là tiêu chí các nước phát triển khác ban hành. Điều này không nằm ngoài mục đích hạn chế thấp nhất những hậu quả nặng nề do thảm họa gây ra.
Những vụ việc có quy mô ảnh hưởng lớn, mức độ nghiêm trọng cần được gọi đúng bản chất của nó là thảm họa. Đó là điều tối thiểu người dân có quyền đ̣i hỏi từ một chính quyền minh bạch và có trách nhiệm.