View Full Version : Tích Truyện Phật Giáo.
https://i.postimg.cc/WzJc8X4H/1013819-311229719013250-655121258-n.jpg
TÍCH TRUYỆN NHÂN QUẢ
NGHIỆP KHẨU VÀ QỦA BÁO
Ngày xưa trong thành Xá Vệ có một người nhà rất giàu, tên gọi là Sư Chất, đă hơn 40 tuổi rồi mà chưa có con. Hai vợ chồng rất lo lắng cho việc nối dơi tông đường, nên t́m đến một Bà La Môn xin bốc một quẻ bói xem sau này có sinh được đứa con trai hay con gái nào không? Nhưng họ vô cùng thất vọng khi nghe thầy bói trả lời rằng suốt đời họ sẽ không có con!
Sư Chất nghe thế k...hông chịu tin hẳn, lại đi t́m đến một ông thầy tướng số khác, cao tay ấn hơn, nhiều kinh nghiệm hơn, để xin bốc quẻ... Vị thầy tướng này vốn được mọi người tôn kính và khen ngợi là bói linh như thần, nhưng lạ thay lại cũng làm cho Sư Chất thất vọng v́ quẻ lại như lần đầu!.
Sư Chất về mà ḷng lúc nào cũng vấn vương phiền muộn, bỗng sực nhớ đến bậc Đại thánh Thích Ca Mâu Ni, tự nghĩ:
- Đức Phật là giáo chủ của trời và người, là bậc Nhất thiết trí, không có ǵ là Ngài không biết, không có ǵ là Ngài không hiểu, tại sao ta lại không đến gặp Ngài xin chỉ giáo?
Nghĩ đến đây ông bèn nhắm hướng Kỳ Viên tinh xá mà đi. Cung kính đảnh lễ Đức Phật xong, ông chắp tay bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn đại bi, xin Ngài thương xót chúng sinh ngu si mà chỉ giáo: Con có chút ưu tư, năm nay đă hơn 40 mà chưa có đứa con trai nối dơi, đó là do nhân duyên ǵ, cúi xin Đức Phật khai thị.
Đức Phật trả lời:
- Không lâu nữa ông sẽ có một đứa con trai, vừa có phúc lại vừa có đức, chỉ có điều là khi nó vừa lớn nó sẽ xin xuất gia.
Nghe tin này Sư Chất rất đỗi vui mừng, thành tâm đảnh lễ chân Phật, rồi thỉnh cầu:
- Cầu xin Thế Tôn và chư tăng cho phép chúng con được cúng dường vào trưa mai, để chúng con được kết thêm thiện duyên và trồng chủng tử vào ruộng phước của Như Lai. Đức Phật nhận lời rồi, Sư Chất hoan hỉ quay về chuẩn bị đàn trai. Hôm sau ông dẫn đầu gia nhân, chân thành cúng dường những món ăn thức uống ngon lành đẹp mắt nhất.
Đức Phật nhận cúng dường xong, thuyết một thời pháp rồi dẫn đầu tăng chúng quay về tinh xá. Đi được nửa đường, Đức Phật và tăng chúng ngồi dưới một gốc cây bên bờ sông nghỉ ngơi. Bỗng từ trên cây, một con khỉ nhẩy xuống xin mượn b́nh bát của Đức Phật. Nó ôm b́nh bát chạy đi thật xa rồi quay về, trong b́nh bát chứa đầy mật ngọt. Nó dùng hai tay kính cẩn dâng b́nh bát lên Đức Phật, Ngài nhận lấy và chia cho chư tăng dùng để con khỉ được nhiều phúc đức. Con khỉ thấy thế mừng rỡ nhẩy nhót. Không lâu sau nó đến ngày tận số, đầu thai làm người, sinh vào nhà của Sư Chất.
Lúc nó sinh ra, trong nhà phàm có vật dụng ǵ có thể chứa đựng thức ăn, th́ vật dụng ấy bỗng đầy ắp mật và đường. Vợ chồng Sư Chất thấy điều quái dị, bèn do nhân duyên này đặt tên con là Mật Thắng.
Thời gian vùn vụt trôi mau như tên bắn, hơn mười năm trôi qua như trong nháy mắt, Mật Thắng nay đă lớn khôn. Chú bé chán ngán chuyện thế tục, xin phép cha mẹ cho ḿnh được xuất gia, cha mẹ hết sức vui mừng mà trả lời:
- Lúc con chưa ra đời, Đức Phật đă biết sẽ có ngày hôm nay. Bây giờ con muốn xuất gia, cha mẹ rất hoan hỉ. Không bao giờ cha mẹ ngăn chận con một cách vô lư.
Được cha mẹ hoan hỉ cho phép rồi, Mật Thắng đến Kỳ Viên tinh xá xin xuất gia với Đức Phật. Nhờ có tiền duyên, Mật Thắng chứng quả rất mau.
Một hôm, thầy đang trên đường đi độ hóa với các bạn đồng tu, cảm thấy vừa nóng vừa khát lạ thường, ai nấy đều ao ước có một cái ǵ uống. Tỳ kheo Mật Thắng bèn cầm bát tung lên trời rồi sau đó dùng hai tay tiếp lấy bát trở về. Bấy giờ trong bát đựng đầy mật ngọt, Mật Thắng bèn chia cho chúng tăng giải khát.
Về tới tinh xá, một vị tỳ kheo đi t́m Đức Phật xin thỉnh giáo:
- Trong quá khứ tỳ kheo Mật Thắng đă tu được phúc đức ǵ mà bây giờ bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có thể có đường và mật?
Đức Phật trả lời:
- Các ông có nhớ có một lần lâu lắm rồi, có một con khỉ đem mật ngọt đến cúng dường Như Lai và chúng tăng không? Nhờ bố thí với thiện tâm, chết rồi nó được sinh ra làm người và nhờ nó chân thành cúng mật ngọt cho Phật nên kiếp này nó có thể được mật bất cứ lúc nào và ở đâu.
Đức Phật nói xong, vị tỳ kheo nọ hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Thế th́ tiền kiếp Mật Thắng do nhân duyên ǵ mà bị đọa xuống làm khỉ?
Lúc ấy xung quanh Đức Phật có rất nhiều đệ tử vân tập, Ngài nh́n họ một lúc rồi đáp:
- Thầy ấy bị đọa xuống làm khỉ là do một nhân duyên xẩy ra cách đây 500 kiếp trước, thời Ca Diếp Như Lai c̣n tại thế. Lúc đó có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, t́nh cờ thấy một vị tỳ kheo khác đang băng qua một con suối nhỏ, vị trẻ tuổi bèn cười chế nhạo, bảo là dáng điệu của vị tỳ kheo kia giống hệt như con khỉ. Vị tỳ kheo trẻ tuổi đă phạm tội ác khẩu nên bị đọa xuống làm khỉ, nhưng sau đó thầy ấy biết lỗi lầm của ḿnh, đến xin sám hối với vị tỳ kheo mà ḿnh đă chế nhạo. Nhờ thắng duyên ấy mà kiếp này mới được gặp Phật và được Phật độ, chứng quả A La Hán một cách mau chóng.
Nghe Đức Phật giảng xong, các vị tỳ kheo đều nhận ra rằng một câu nói ác cũng có thể chiêu cảm nghiệp khổ, v́ thế không c̣n ai dám ác khẩu, ngay cả đến một câu nói đùa cũng không dám nói.
Trích trong truyện cổ Phật Giáo.
Ps.Nếu bạn không thích đọc cũng không sao, nhưng hy vọng bạn đừng phỉ báng hay dùng ngôn từ không đẹp. Hăy tôn trọng ngướ cũng như là tôn trọng chính ḿnh.:eek::thankyou:
https://i.postimg.cc/Vk7mG5wy/10162-312203118915910-648974150-n.jpg
CÔNG ĐỨC SÁM HỐI
Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Vơ Đế, có quen với một vị Ḥa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày tṛ chuyện với nhau rất thân thiết.
Hoàng hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Vơ Đế chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm nhân bánh,rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng.
Ai ngờ Ḥa thượng Chí Công đă biết trước, nên dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong tay áo, lấy bánh chay ra ăn.
Bà Hi Thị đợi tin Ḥa thượng ăn rồi, tức th́ tâu với vua rằng: “Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ ǵ cả, nay bệ hạ c̣n làm bạn nữa chăng?”.
Vua nghe nói nổi giận, liền mang gươm đến chùa mà giết Ḥa thượng.
Khi ấy,ngài Chí Công cũng đă biết trước, nên ra ngoài cửa chùa đứng đợi.
Lúc vua ngự đến trông thấy Ḥa thượng th́ hỏi rằng: “Ông ra đứng đây mà làm chi?”.
Ngài Chí Công đáp rằng: “Bần tăng biết bệ hạ đến giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết hại, th́ ô uế chốn Già lam càng tội nghiệp lắm!”.
Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật và sám hối, rồi liền mời Ḥa thượng vào chùa mà hỏi rằng: “Ngài đă tiên tri được như vậy, v́ sao c̣n ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?”.
Ngài Chí Công bèn đáp rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu!”
Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó lên,thấy vẫn c̣n đủ 120 cái. Ḥa thượng bèn lấy nước Tịnh thuỷ phun vào, tức th́ mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, h́nh thể vận động như thường.
Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết ḷng lễ sám hối những sự lỗi lầm.Từ ấy Vơ Đế càng yêu mến Ḥa thượng Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.
Đến niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi bào thai làm con rắn măng xà ở sau hậu cung ẩn ḿnh không cho ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Vơ Đế hay rằng: “Khi thiếp c̣n sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. V́ cớ ấy nên nay thiếp phải làm thân măng xà, thân đă dài, vóc lại lớn, ḅ lết không nổi,đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, c̣n mỗi trong chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật là khó chịu! Thiếp nghĩ v́ thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, t́nh vợ nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quư một ḿnh mà không t́m phương chi cứu thiếp,nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ tŕ, thoát ra khỏi ṿng ác báo, th́ thiếp cảm ơn đời đời”.
Vua Vơ Đế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ khóc lóc một hồi; sáng ra liền truyền lệnh rước các thầy Sa môn nhóm tại điện mà hỏi rằng: “Vậy trong hàng chư tăng, ai có phép chi cứu giải Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?”.
Ḥa thượng Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hăy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối, th́ mới cứu được”.
Vua Vơ Đế bằng ḷng, liền cầu Ḥa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung là chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu. Có một hôm kia, khi trai đàn gần măn có mùi hương nồng nă bay khắp trong cung điện.Vua Vơ Đế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng: “Thiếp nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đă thoát được thân măn xà mà sanh về cơi trời Đao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm vậy – Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại b́nh an”. Bà nói rồi liền ẩn ḿnh không thấy nữa.
Khi ấy vua Vơ Đế nửa mừng nửa khóc, khôn xiếc sự t́nh bèn lui vào cung mời Ḥa thượng Chí Công mà hỏi rằng: “Hoàng hậu của Trẫm buổi c̣n sống, hết sức thù ghét Ḥa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán như vậy?”.
Ngài Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu oán duyên do kiếp trước có một vị Trú tŕ và một vị Giám tự ở chung một chùa. Trong chùa ấy có cái đôn(cái lu, vại) để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay con vạt sành vậy.Thường khi ông Trú tŕ tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt th́ cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường nhân luân.
Một bữa kia ông Trú tŕ đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho ḷng ông không được thanh tịnh và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.
Qua bữa sau ông Trú tŕ về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa,bèn kiếm dưới chân đôn, th́ thấy nó đă chết rồi. – Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt,rồi đem chôn sau vườn chùa.
Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp này làm thân Hoàng hậu; c̣n vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng đây. – V́ vậy oan gia gặp nhau toan đ̣i nợ trước, nếu tôi kiếp này tu hành lơ láo, th́ có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!”.
Vua Vơ Đế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng: “Hèn ǵ Hoàng hậu của Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm không biết cớ làm sao. – Có một đêm Hoàng hậu ngũ mê, Trẫm lén mở sợi dây ấy ra,th́ Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào, tức th́ không đau nữa. Nay Ḥa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, th́ biết Phật nói “NHÂN QUẢ” thiệt là không sai”.
Từ ấy,vua Vơ Đế lại càng tin tưởng Phật pháp, trọng đăi Chúng Tăng và nguyện một ḷng phụng sự Tam Bảo…
"Chúng sanh khi xả báo thân này th́ thọ báo thân khác. Nếu trong khi t́m thọ thân khác mà chưa đủ nhân duyên th́ thân nầy chưa xả. Ví như con sâu đo, trong khi đàng đuôi bám chặt một nơi th́ đàng đầu ngóc lên t́m kiếm. Hễ đàng đầu t́m được chỗ mà bám xuống th́ đàng đuôi mới nhả ra. – Con người trong lúc nằm thiêm thiếp chờ chết, chính là lúc nghiệp thức t́m kiếm nơi thác sanh. Nếu được nơi rồi th́ liền chết, bỏ xác thân nầy mà thọ thân khác."
Trích trong truyện Phật Giáo Gương Nhân Quả.
https://i.ibb.co/vBzd5sd/1010249-312676015535287-607739579-n.jpg
QUỶ ĐÓI LƠA H̀NH
Vô cớ phỉ báng tăng ni,
Chuyển sinh quỷ đói lơa h́nh.
... Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có vị A-la-hán Năng Hỉ thường xuyên dùng thần thông đi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân gian, thiên thượng, quán sát chỗ thọ khổ và vui sướng của các cơi chúng sinh ấy, như những nỗi khổ lạnh, nóng, thiêu đốt, giết hại của chúng sinh trong địa ngục; cho đến các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, mong cầu mà không được, oán thù phải gặp nhau, đố kị... của người thế gian; lại c̣n khổ năo của chư thiên lúc sắp bị chết.
Thầy tỳ-kheo Năng Hỉ đem những thống khổ ḿnh thấy nghe trong năm đường chúng sinh kể lại cho mọi người, khiến họ sinh tâm chán ghét, xa ĺa, sợ hăi sinh tử luân hồi, phát khởi ḷng tin vào đạo lư nhân quả báo ứng.
Một lần nọ, tỳ-kheo Năng Hỉ đang ở thành Xá-vệ, dùng sức thần thông đến bên bờ biển nọ. Thầy thấy trên bờ biển có một con quỉ đói lơa thể, tóc tai rối bời, trần truồng, mắt mù, trong miệng, mũi có rất nhiều ḍi, trùng luôn ḅ ra lúc nhúc, ăn thịt, uống máu; thân thể nó giống như khúc cây bị cháy xém, mùi hôi thối xông ra quanh đó đến cả do-tuần; vả lại c̣n bị loài chó hoang đốm đuổi theo cắn xé, làm cho thân tâm của nó thống khổ không thể chịu nỗi, cho nên chạy loạn xạ, la hét ầm ĩ.
Thầy Năng Hỉ xem thấy t́nh cảnh như vậy, liền dùng trí tuệ thiền định Thanh văn của ḿnh quán sát. Th́ ra con quỉ đói lơa thể này vào thời đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế là một vị tỳ-kheo ni có tính xấu nóng nảy, ngổ ngáo, thường xuyên vô cớ phỉ báng chư tỳ-kheo ni và tăng chúng, làm cho rất nhiều người mất ḷng tin vào Ba ngôi báu. Do nghiệp ác như thế nên đời này mới thọ ác báo như vậy.
A-la-hán Năng Hỉ thầm nghĩ: “Tuy ḿnh cơ bản đă biết được duyên do, nhưng nếu đem chuyện này bạch lên đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài chỉ dạy, th́ chắc chắn sẽ có lợi ích rất lớn đối với nhiều chúng sinh.” Nghĩ vậy rồi, trong nháy mắt thầy đă bay trở về thành Xá-vệ.
Lúc đó, đức Như Lai đang thuyết giảng giáo pháp giải thoát trước đại chúng. A-la-hán Năng Hỉ thấy cơ duyên rất tốt liền đến trước đức Như Lai chắp tay cung kính thưa:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Đệ tử thường đi vào các cơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân gian, thiên giới, đem những thống khổ được mắt thấy tai nghe trong sáu đường kể lại cho mọi người, hầu giúp họ sinh tâm chán ghét, xa ĺa, sợ hăi sinh tử luân hồi, sinh khởi tín tâm chân thật đối với giáo lư nhân quả. Lần này, con dùng sức thần thông đến bên bờ biển, thấy một con quỉ đói tóc tai bù xù, thân như khúc cây cháy xém, hai mắt mù, miệng, mũi lúc nào cũng có loài trùng nhỏ ḅ ra, rúc rỉa thịt của nó; mùi hôi thối phát ra từ thân thể nó bay xa đến cả do-tuần cũng c̣n ngửi thấy; phía sau lại có loài chó hoang rượt theo cắn xé, vô cùng thống khổ, chẳng lúc nào được yên ổn. Kính bạch đức Thế Tôn! Chẳng hay đây là nghiệp duyên ǵ mà khiến nó phải chịu quả báo như vậy? Ngưỡng mong Ngài từ bi giảng nói, chúng con đều rất muốn được nghe.
Đức Như Lai từ ḥa bảo thầy Năng Hỉ và đại chúng:
– Này các tỳ-kheo! Trong Hiền kiếp này, khi đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế, tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, có một vị thí chủ sinh hạ được đứa con gái hết sức xinh đẹp, đoan chính. Gia đ́nh tổ chức lễ ăn mừng rất lớn và long trọng, chọn tên thích hợp với ḍng tộc để đặt cho em, nuôi dưỡng bằng sữa tươi và đủ các loại thực phẩm tốt nhất. Em bé lớn nhanh như hoa sen dưới hồ. Lớn lên, phát khởi ḷng tin thanh tịnh vào giáo pháp giải thoát của đức Ca-diếp Thế Tôn, do đó phát tâm xuất gia sống đời tỉnh thức, siêng năng tu học tam tạng giáo điển, trở thành vị pháp sư tài ba lỗi lạc. Vị sư cô này chẳng những khuyến hóa được rất nhiều thí chủ phát tâm xây dựng kinh đường, tháp Phật, mà chính bản thân sư cô cũng thường xuyên cúng dường Đức Phật và chúng tăng.
Song, v́ sư cô quá xinh đẹp, sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh giàu sang phú quí được nâng niu chiều chuộng từ nhỏ, lại do có tài thuyết pháp hay, nên được rất nhiều thí chủ thường xuyên cúng dường y phục và đồ dùng khác. Họ luôn vây quanh cô cung kính, hết lời ngợi khen xưng tán..., khiến cho tâm kiêu mạn của cô dần dần phát triển, ngày càng nghiêm trọng hơn.
Sau đó, sư cô phạm giới căn bản, song vẫn trực tiếp hưởng dụng tài vật và chi phí sinh hoạt của chúng tăng. Các vị tỳ-kheo ni khác thấy cô đă phạm giới căn bản mà vẫn trực tiếp hưởng thọ tài vật của tăng chúng, do đó họp chúng quyết định mời cô ra khỏi tăng đoàn.
Đối với chuyện bị mời ra khỏi tăng đoàn, cô ta hết sức tức giận, căm thù, bèn bày ra nhiều mưu kế, bịa chuyện để phỉ báng chư tỳ-kheo ni hữu học[26] và vô học[27] khác. Cô đi đến đâu cũng bịa đặt ra những lời như:
– Tỳ-kheo ni đó phạm vào giới này, tỳ-kheo ni kia cũng phạm vào giới này, giới này...
Lúc đó, cô ấy vô duyên vô cớ bêu xấu rất nhiều tăng ni, lại c̣n ác khẩu mắng chửi họ. Mặc dù phạm giới và bị trục xuất khỏi tăng đoàn, nhưng cô vẫn không chút phản tỉnh hay ăn năn nhận ra sai lầm, mà vẫn giữ nguyên tập quán xấu không thay đổi, đi đến đâu cũng nói lỗi của tăng ni với cư sĩ, song những lỗi này là do cô bịa ra chứ không hề có thật.
Tuy vậy, những lời phỉ báng bịa đặt của cô đă thực sự làm cho chúng tăng mất đi sự ḥa hợp, khiến cho nhiều vị trong tăng đoàn sinh ḷng nghi kị lẫn nhau, lại cũng làm cho nhiều cư sĩ tại gia sinh khởi tà kiến đối với tăng đoàn, bởi có rất nhiều người tuy không hiểu được sự việc, nhưng chỉ v́ mù quáng tin theo lời bịa đặt của cô nên thối thất tín tâm đối với Ba ngôi báu, không cúng dường cho tăng chúng nữa.
Vị tỳ-kheo ni bịa chuyện phỉ báng tăng chúng thuở đó chính là con quỉ đói lơa thể ngày nay. Do ác nghiệp của sự bịa chuyện phỉ báng chư tỳ-kheo ni hữu học, vô học nên cô phải bị chuyển sinh làm quỉ đói. Lại do sự vô duyên vô cớ ác khẩu chửi mắng chư tỳ-kheo ni, cho nên trong miệng, mũi có rất nhiều trùng nhỏ ḅ ra cắn, rỉa. Hơn thế nữa, v́ sau khi đă phá giới mà vẫn hưởng thọ tài vật của tăng chúng, cho đến vô duyên vô cớ phỉ báng chúng tăng, làm cho người cư sĩ tại gia thối thất tín tâm đối với Ba ngôi báu, nên chiêu cảm có rất nhiều chó hoang đuổi cắn không buông tha. C̣n về hai mắt bị mù, là do lúc mắng chửi cô luôn trừng trừng nh́n người khác với tâm khinh miệt và đầy sân hận.
Khi đức Như Lai nói rơ nhân duyên của con quỉ đói này xong, tất cả đại chúng đang có mặt đều khởi tâm xa rời, chán ghét, sợ hăi sinh tử, chỉ muốn vượt thoát khỏi thế gian đau khổ này. Đức Thế Tôn thấy nhân duyên giáo hóa của họ đă thành thục, liền thuyết giảng giáo pháp giải thoát thích hợp với từng người.
Nghe pháp xong, có một số vị liền được Noăn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất pháp của Gia hạnh đạo; có những vị đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; có người được vương vị Kim luân; có người được giai vị Phạm thiên và Đế-thích thiên; có những vị chứng được quả vị Duyên giác; có vị gieo trồng nhân Vô thượng Bồ-đề; tất cả những người c̣n lại đều phát khởi niềm tin thanh tịnh, chân thật vào Ba ngôi báu và phát tâm quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng-già.
Trích từ Truyện Nhân Quả
https://i.postimg.cc/mrPX7jth/1013403-313240392145516-1205343772-n.jpg
LĂO GIÀ
Trăm đời làm cha Phật không tiếp tục,
Bởi gây chướng ngại Bồ Tát đạo.
... Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có một lần đức Như Lai đang trên đường đến vườn Kỳ-đà bỗng gặp một ông già Bà-la-môn. Ông già này vừa thấy đức Như Lai, không cầm được ḷng liền gọi lớn một cách mừng rỡ:
– Con yêu của cha! Con yêu của cha!
Nói xong, ông cắm đầu chạy nhanh đến, định ôm chầm lấy đức Như Lai. Ngay tức khắc, các thầy tỳ-kheo đi phía sau vội bước tới cản lại, không cho ông làm như vậy.
Đức Như Lai từ bi bảo các vị tỳ-kheo:
– Các con không nên ngăn cản ông ấy, bằng không ông ta sẽ lập tức thổ huyết chết.
Các vị tỳ-kheo liền buông ông già ra, ông nhào đến ôm chầm lấy đức Như Lai, giống như người cha lâu ngày thương nhớ con, cuối cùng đă được gặp, miệng lắp bắp gọi:
– Con yêu của cha! Con yêu của cha!
Đức Như Lai vẫn đứng yên như vậy rất lâu. Ông già khi ấy mới nhẹ nhàng buông tay ra, tâm kích động dần dần lắng xuống, ông b́nh tĩnh trở lại.
Lúc đó, đức Như Lai liền thuyết giảng với ông giáo pháp giải thoát thích hợp. Ngay tức khắc, ông già này được chứng đắc quả Dự lưu.
Sau khi chứng quả, ông quỳ xuống phát nguyện với đức Như Lai:
– Con mong muốn được xuất gia trong giáo pháp của đức Như Lai, xin Ngài từ bi chấp nhận.
Đức Như Lai hoan hỷ nhận lời, lại dùng cách gọi “thiện lai tỳ-kheo” để truyền giới cụ túc cho ông.
Sau khi xuất gia sống đời tỉnh thức, ông luôn nghiêm tŕ giới luật, tinh tấn tu tập đúng theo Chánh pháp.
Sau đó, đức Như Lai tùy theo căn cơ của ông mà thuyết giảng những pháp giải thoát thích hợp. Ông nỗ lực tu tập tinh tấn, không bao lâu dứt trừ được hết phiền năo trong Ba cơi, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Lúc đó, chúng tỳ-kheo cung kính đảnh lễ thưa hỏi đức Như Lai:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Trong ngàn vạn người nam từng quỳ mọp đảnh lễ Ngài, chẳng có ai cư xử với Phật giống như ông già này. Hành vi kỳ lạ của ông già này, rốt cuộc là do nhân duyên như thế nào? Ngưỡng mong đức Như Lai từ bi giảng nói cho chúng con được rơ.
Đức Như Lai từ bi nh́n khắp đại chúng một lượt rồi chậm răi nói:
– Này các tỳ-kheo! Ông lăo này đă từng làm cha của ta trong suốt 500 kiếp trước. Do tập khí đời trước c̣n sót lại nên mới có hành vi như vậy.
Chúng tỳ-kheo lại bạch hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Ông lăo này đă làm cha Ngài suốt 500 kiếp, vậy sao đời này lại không tiếp tục như vậy?
Đức Như Lai đáp:
– Khi ta tu hành đạo Bồ Tát, rất ưa thích sự bố thí rộng khắp, tâm xuất ly mănh liệt, nhưng ông lăo này trong suốt 500 đời đó thường không ủng hộ ta, cố ư tạo ra rất nhiều chướng ngại, nghịch duyên. V́ thế ta đă phát nguyện là sau này ông ấy sẽ không làm cha ta nữa. Ngoài ra, đức vua Tịnh-phạn, cha của ta trong đời này, trước đây đă từng phát nguyện khi ta thành Phật sẽ được làm cha ta. Do hai nhân duyên đó nên đời này ông ta không c̣n được làm cha ta nữa.
Các vị tỳ-kheo lại thưa hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy không biết vào đời trước vua Tịnh-phạn đă có nhân duyên phát nguyện như thế nào?
Đức Phật dạy:
– Cách đây 91 đại kiếp về trước, vào thời đức Phật Câu-lưu-tôn c̣n tại thế, có một người lái buôn lớn cúng dường đức Phật Câu-lưu-tôn, thấy sắc thân vàng ṛng đủ 32 tướng tốt, vô cùng thù thắng trang nghiêm của đức Như Lai, ông ta liền phát nguyện:
“Do công đức cúng dường đức Phật hôm nay, nguyện cho sau này tôi sẽ có được người con giống như Đức Phật.”
Người lái buôn thuở đó nay chính là vua Tịnh-phạn. Do nguyện lực ngày trước nên đời này trở thành cha của ta.
Chúng tỳ-kheo lại thưa hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy do nhân duyên ǵ mà ông lăo Bà-la-môn đó phải chịu quả báo đời này bần cùng, măi đến cuối đời mới gặp được đức Như Lai và xuất gia sống đời tỉnh thức?
Đức Phật dạy:
– Này các tỳ-kheo! Do nhân duyên nhiều đời gây chướng ngại cho sự bố thí rộng khắp và sinh tâm xuất ly của Đại Bồ Tát, nhất là ngăn cản sự xuất gia sống đời tỉnh thức, như vậy tạo tác không ít duyên xấu. V́ thế nên đời này ông ấy phải chịu quả báo nghèo khổ, măi đến những năm cuối đời mới được gặp Phật, xuất gia sống đời tỉnh thức.
Các vị tỳ-kheo lại hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy do nhân duyên ǵ mà ông ấy khởi tâm hoan hỉ đối với Như Lai, lại xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát, chứng đắc quả vị A-la-hán?
Phật dạy:
– Đây đều là do nguyện lực đời trước của ông ấy, đến đời này đă thành thục. Trong Hiền kiếp này, lúc đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế, tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, có một vị tỳ-kheo khi lâm chung phát nguyện rằng:
– Do công đức xuất gia sống đời tỉnh thức, trọn đời giữ giới thanh tịnh, tu tập giáo pháp giải thoát của Phật-đà, nguyện cho sau này tôi sẽ được sinh trong giáo Phật của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, khởi tâm hoan hỉ, xuất gia sống đời tỉnh thức, dứt trừ hết phiền năo trong Ba cơi, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Do nguyện lực ấy, ngày nay ông ấy được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát, trở thành bậc A-la-hán.
Đại chúng tỳ-kheo nghe Phật thuyết dạy nhân duyên đời trước, thảy đều sinh tâm hoan hỷ, tin sâu giáo lư nhân quả, cung kính đảnh lễ lui ra.
Trích từ Truyện Nhân Quả-
ChickenGook
04-02-2020, 17:21
...yesterday i was clever, so i wanted to change the world.
Today i am wise, so i am changing myself........
https://i.ibb.co/44PPfw0/1001053-313772645425624-1785696551-n.jpg
TỲ- KHEO NI KIM SẮC
Cô gái xấu xí cúng dường tháp Phật
Cảm được thân thể màu vàng ṛng
... Lúc đức Như Lai ở thành Vương-xá, có người phụ nữ gia đ́nh nghèo sinh hạ một em bé gái có 18 tướng xấu. Cha mẹ của em đều hết sức buồn rầu. Cha em nói:
– Đứa con xấu như vậy, nhân lúc trời tối, hăy đem nhận nước cho chết đi.
Người mẹ đau buồn nói:
– Chàng không nên nói như vậy, giết người là hành động trời đất không thể dung thứ, huống ǵ nó lại là con của chúng ta. Ít ra hăy đợi nó lớn lên, có thể tự sinh sống, rồi hăy đuổi nó ra khỏi nhà cũng không muộn.
Người chồng suy nghĩ, đồng ư.
Từ đó về sau, hai vợ chồng họ giấu kín em trong nhà, không để cho bất ḱ ai thấy mặt. Đến lúc em có thể tự nuôi sống lấy ḿnh, vợ chồng họ bèn đuổi em ra khỏi nhà.
Em đi lang thang khắp đầu đường cuối xóm, xin ăn khắp nơi, nhưng ngày ngày đều cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Em vốn dĩ tướng mạo đă xấu xí, bây giờ lại bị bệnh hủi, quả thật thống khổ không thể chịu nổi, luôn lăn lóc rên siết bên lề đường.
Thầy A-nan xem thấy t́nh cảnh thảm thương của em như vậy, bất chợt trong tâm cảm thấy thương xót vô cùng. Không chần chừ, thầy liền bước đến ôn ḥa hỏi thăm:
– Này em bé! Em tên ǵ? Nhà ở đâu? Sao lại ra nông nổi thế này?
Thần trí của em vẫn c̣n tỉnh táo, bèn cầu xin thầy một cách hết sức bi thương:
– Kính bạch Tôn giả! Nhất định là do chiêu cảm nghiệp xấu đời trước nên con mới bị t́nh cảnh như ngày hôm nay. Ngưỡng mong Tôn giả từ bi giúp con tiêu trừ nghiệp xấu này!
Thầy A-nan thương xót an ủi em:
– Em không nên lo lắng, thầy sẽ dạy em tu thiện, dùng nghiệp lành để tiêu trừ nghiệp xấu.
Thế là thầy A-nan t́m một ít dầu vừng, hương hoa, đưa cho em rồi bảo em mang đến tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai để cúng dường...
Khi ấy, đúng lúc trưởng giả Cấp-cô-độc cũng vừa đến nơi đó, thấy chuyện như vậy bèn thưa hỏi thầy A-nan. Thầy liền kể lại ngọn ngành sự việc cho ông ta nghe. Trưởng giả Cấp-cô-độc thấy quần áo của em rách nát, ḷng từ bi sinh khởi, liền tặng em một bộ áo quần mới.
Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai quán xét biết rơ về em bé đáng thương này, bèn đích thân đến nơi tháp. Em bé xấu xí nh́n thấy kim thân đức Như Lai tam môn[3] tịch tĩnh, tướng hảo trang nghiêm, viên măn nghiêm sức, liền sinh khởi tín tâm cực lớn, thầm nghĩ: “Công đức ḿnh cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai đă rất lớn, nếu hôm nay có thể cúng dường kim thân của Ngài, công đức càng không thể nghĩ bàn”. Em suy nghĩ trong giây lát, liền dùng bộ áo quần trưởng giả vừa cho ḿnh để cúng dường đức Thế Tôn. Cúng dường xong, em chắp tay cầu nguyện một cách vui mừng khôn xiết. Ngay lúc đó em qua đời với tâm đầy hoan hỉ.
Sau khi chết, em được đầu thai vào một gia đ́nh lái buôn giàu có. Lúc vừa chào đời em đă được thân thể hết sức đoan trang xinh đẹp, da màu vàng ṛng, do đó cha mẹ đặt tên là “Kim Sắc”.
Năm Kim Sắc vừa tṛn 7 tuổi đă sinh khởi niềm tin thanh tịnh vào Phật pháp. Khi được sự đồng ư của cha mẹ, em xuất gia sống đời tỉnh thức theo giáo pháp giải thoát của đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni. Sau khi xuất gia, em ngày đêm tinh tấn tu tập, không bao lâu đă dứt hết phiền năo, chứng đắc thánh quảA-la-hán, trở thành một vị A-la-hán đầy đủ thần thông.
Sau khi chứng quả, Kim Sắc dùng thần thông quán sát đời trước của ḿnh, biết được nhờ thầy A-nan cứu ḿnh thoát khỏi thân người bần tiện với 18 tướng xấu xí, cho nên hết sức cảm kích, ngày nào cũng cung kính cúng dường thầy.
Chúng tỳ-kheo thấy chuyện như vậy bèn đến thưa thỉnh đức Thế Tôn:
– Kính bạch đức Thế Tôn! A-la-hán Kim Sắc có nhân duyên ǵ mà được sinh vào gia đ́nh giàu sang phú quí, toàn thân có màu vàng ṛng? Lại v́ sao khi tuổi hăy c̣n nhỏ mà đă có niềm tin thanh tịnh vào giáo pháp giải thoát của đức Như Lai, xuất gia chứng quả? Xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con được rơ.
Đức Thế Tôn ôn tồn nói:
– Các con có c̣n nhớ cô gái với 18 tướng xấu ở thành Xá-vệ trước kia không?
– Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con c̣n nhớ! Cô ta thật hết sức xấu xí.
– Lúc cô gái ấy cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của ta, ta đích thân đến thọ nhận. Khi vừa thấy ta, cô gái ấy liền sinh khởi tín tâm và vui mừng cực độ. Ngay trong lúc tràn đầy tín tâm và niềm vui đó, cô qua đời. Do đó, cô chuyển sinh vào gia đ́nh lái buôn giàu sang, vừa ra đời đă có được thân thể màu vàng ṛng.
Các vị tỳ-kheo lại cung kính bạch hỏi đức Như Lai:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Thế th́ trước đây cô ta từng gây tạo nghiệp xấu ǵ mà phải chịu quả báo bần tiện, có 18 tướng xấu như vậy?
Đức Như Lai từ tốn đáp:
– Đây là do nghiệp lực đời trước của cô ta đă thành thục. Vào thời đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế, tuổi thọ con người tới 20.000 tuổi, tại vườn Lộc Dă ở Ấn Độ có người con gái của một thương gia, sinh khởi niềm tin thanh tịnh với đức Phật Ca-diếp, cũng xin cha mẹ cho cô được xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi xuất gia, cô bộc lộ bản tính cứng đầu, cậy tài háo thắng, thường mắng nhiếc người khác là “người hèn”, “người xấu”... Sau đó, cả đời tu hành thanh tịnh Phạm hạnh, trước khi lâm chung cô phát nguyện:
“Cả đời con xuất gia tu hành phạm hạnh, tuy chẳng có được thành tựu ǵ to lớn lắm, song nhờ công đức xuất gia này, hi vọng được an trú trong giáo pháp của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, được Phật hoan hỉ, xuất gia tu hành chứng quả A-la-hán, và nguyện cho ác nghiệp mắng chửi người sẽ không thành thục.”
Nhưng, nhân quả không hư dối, nghiệp ác mắng chửi người đó thành thục trước, khiến cô trở thành cô gái bần tiện có 18 tướng xấu. Sau đó, nguyện lành thành thục, được gặp Phật và sinh tâm tín ngưỡng, vui mừng đối với Như Lai, do đó được chuyển sinh thành cô gái có sắc thân màu vàng ṛng, cuối cùng được xuất gia chứng quả A-la-hán. Đây là nhân duyên đời trước của A-la-hán Kim Sắc.”
Trích từ Truyện Nhân Quả-
https://i.postimg.cc/YCt7TFkh/1010730-314572908678931-2120188526-n.jpg
T̀ KHEO NI CAM-TẠNG-CA
Năm trăm đời làm mẹ đức Như Lai,
Giảng kinh đệ nhất trong ni chúng.
... Lúc đức Như Lai trú trong khu rừng tịch tĩnh bên ngoài thành Ốc-đạt-na, có một buổi sáng khi Ngài cùng các vị tỳ-kheo ôm bát vào thành hóa duyên, bỗng xa xa về phía trước xuất hiện một người phụ nữ áo quần lam lũ, đội b́nh nước. Bà vừa nh́n thấy thân sắc vàng trang nghiêm 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của đức Như Lai th́ vui mừng vô cùng, liền bỏ b́nh nước xuống, cắm đầu cắm cổ chạy nhanh về hướng đức Thế Tôn, vừa chạy vừa gọi: “Con yêu! Con yêu! Con yêu của mẹ!”, và bà định ôm choàng lấy đức Như Lai.
Rất nhiều thầy tỳ-kheo tiến đến cản lại, nhưng đức Như Lai bảo họ:
– Đừng ngăn cản bà ấy, nếu không bà ta sẽ thổ huyết mà chết.
Mọi người liền để yên cho bà ta tiến đến. Nhanh như chớp, bà liền choàng tay lên ôm cổ đức Như Lai, miệng vẫn cứ nói:
– Con yêu của mẹ! Con yêu của mẹ!
Đợi khi bà b́nh tĩnh trở lại, đức Như Lai quán sát căn cơ của bà rồi thuyết giảng giáo pháp giải thoát thích hợp, khiến cho bà có thể dùng trí tuệ kim cang phá trừ các kiến giải Tát-ca-da, chứng đắc quả Dự lưu.
Người phụ nữ ấy sau khi chứng đắc thánh quả liền quỳ xuống trước Đức Phật, chắp tay phát nguyện:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Con xin Ngài cho phép con được xuất gia, thọ giới tỳ-kheo ni, sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát của Ngài.
Đức Thế Tôn liền chấp thuận, sau đó đưa bà về giao cho Trưởng lăo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề[22] thế phát truyền giới, giảng dạy phương pháp tu tập tương ứng. Bà tinh tấn nỗ lực thực hành giáo pháp, phá trừ phiền năo trong Ba cơi, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Đức Như Lai c̣n đặc biệt ngợi khen bà:
– Tỳ-kheo ni Cam-tạng-ca là vị giảng nói Phật pháp đệ nhất trong giáo pháp của Như Lai và chúng tỳ-kheo ni Thanh văn.
Các vị tỳ-kheo đều thắc mắc, thưa hỏi đức Như Lai:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Trong khi Ngài đi hóa duyên có hàng ngàn phụ nữ đủ phước báu được gặp Ngài, song chẳng có người nào dám ôm Ngài như Cam-tạng-ca. Việc này có nhân duyên như thế nào? Xin đức Như Lai giảng nói cho chúng con được rơ, chúng con rất muốn nghe.
Đức Như Lai từ ḥa nói với chúng tỳ-kheo:
– Đây là do nhân duyên nhiều đời trước. Trong suốt 500 đời trước đây, bà ấy luôn làm mẹ của ta. Sở dĩ hôm nay bà ấy làm như vậy là do tập khí đời trước c̣n lưu lại.
Chúng tỳ-kheo lại bạch hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Bà ấy đă từng làm mẹ Ngài trong suốt 500 đời, sao đời này lại không tiếp tục làm mẹ Ngài?
Đức Như Lai nh́n đại chúng một lượt rồi nói:
– Đời này bà ấy không làm mẹ thầy, có hai nhân duyên. Một là v́ phu nhân Ma-da từng phát nguyện khi ta thành Phật sẽ làm mẹ của ta, và nguyện lực ấy đă được thành tựu; hai là v́ trong những đời trước, lúc làm mẹ ta bà ấy đă có một số hành vi không đúng chánh pháp, khiến ta sinh tâm khó chịu.
Chư tỳ-kheo lại thưa hỏi:
– Kính bạch đức Thế Tôn! V́ sao lúc đó Ngài sinh tâm khó chịu?
Đức Phật đáp:
– Đại Bồ Tát dùng tâm hoan hỉ bố thí, đầy đủ tâm xuất ly. Trong 500 đời làm mẹ ta, bà ấy thường nhân lúc ta thực hành bố thí, sinh tâm xuất ly mà tạo ra rất nhiều nghịch duyên ngăn cản, khiến ta sinh tâm khó chịu.
Chúng tỳ-kheo lại hỏi tiếp:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Bà ấy gây tạo nghiệp ǵ mà đời này phải chuyển sinh làm người bần cùng, măi đến tuổi xế chiều mới được xuất gia sống đời tỉnh thức?
Đức Phật đáp:
– Đây là nghiệp báo của các loại nghịch duyên chướng ngại khi ta bố thí và khởi tâm xuất ly trong suốt thời gian bà ấy làm mẹ ta. Nghiệp báo ấy làm cho bà sinh trong đời này phải chịu bần cùng, đến tuổi xế chiều mới được xuất gia sống đời tỉnh thức.
Chư tỳ-kheo lại hỏi:
– Bạch Thế Tôn! Vậy do nhân duyên ǵ mà bà ấy được xuất gia sống đời tỉnh thức trong pháp lành của đức Như Lai và chứng đắc quả vị A-la-hán, trở thành vị tỳ-kheo ni giảng nói kinh điển đệ nhất?
– Đây là do nguyện lực đời trước của bà ấy đă thành tựu. Trong Hiền kiếp này, vào lúc đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế, tuổi thọ con người lên tới 20.000 tuổi, có một vị tỳ-kheo ni theo học với một vị thầy là bậc giảng nói kinh điển đệ nhất trong giáo pháp của đức Phật Ca-diếp. Sau đó, vị tỳ-kheo ni này suốt đời hành tŕ tịnh giới, đến lúc sắp mạng chung phát nguyện rằng:
“Con đă được sống trong pháp lành và xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát của đức Ca-diếp Thế Tôn, suốt đời hành tŕ tịnh giới, tuy không đạt được thành tựu ǵ to lớn, song nhờ công đức đó xin nguyện cho sau này con được xuất gia sống đời phạm hạnh trong giáo pháp của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, sinh tâm hoan hỉ, giống như thầy của con, sẽ trở thành vị tỳ-kheo ni giảng nói kinh điển đệ nhất, chứng đắc quả vị A-la-hán.”
Do nguyện lực phát ra lúc lâm chung đến nay đă thành thục nên người phụ nữ này được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp của ta, sinh khởi ḷng hoan hỉ đối với ta, chứng đắc quả vị A-la-hán và trở thành vị tỳ-kheo ni thuyết pháp đệ nhất trong hàng ni chúng.
Đức Phật giảng nói xong về nhân duyên đời trước của tỳ-kheo ni Cam-tạng-ca, tất cả đại chúng đều lây làm hoan hỷ, phát khởi ḷng tin sâu xa vào giáo lư nhân quả của Phật Đà.
Trích từ Truyện Nhân Quả
https://i.postimg.cc/xTfZ7H4s/1002728-315624061907149-1398612958-n.jpg
Thần Thông Không Chống Được Nghiệp Lực (Tôn giả MỤC KIỀN LIÊN)
Trong số 16 vị đệ tử công hành siêu việt của Đức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai nhân vật xuất sắc nổi bật nhất. Nói đến trí huệ của Xá Lợi Phất và thần thông của Mục Kiền Liên, th́ ai ai cũng đều phải công nhận rằng không có vị đệ tử nào khác có thể so sánh được với hai ngài, chính Đức Phật cũng thường hay khen ngợi những thành tựu thù thắng ấy của hai ngài.
Hai ngài là bạn thân với nhau từ lâu, thường hay cùng nhau đi lại trong những cảnh giới cơi trời, cơi người và cả địa ngục hay súc sinh, vận dụng thần thông và trí huệ để giải cứu những người đang gặp khổ nạn và giáo hóa những chúng sinh ngu si.
Có một hôm, hai vị đi tới địa ngục vô gián, nhiệt độ trong ngục rất cao giống như một ḷ than hồng, ngọn lửa bốc lên phừng phực, hơi nóng từ vạc dầu sôi tỏa ra không ngừng, bao phủ cả địa ngục. Những người chịu tội h́nh th́ kêu la than khóc, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bèn rưới nước mưa pháp thanh tịnh cho họ, khiến những thống khổ của họ tạm dừng được trong chốc lát.
Lúc ấy có một tội nhân rất dễ sợ, thân h́nh to lớn kệch cỡm, c̣n cái lưỡi th́ vừa rộng vừa dài, bên trên có 500 lưỡi cày bằng sắt cày lên trên ấy như cày trên một thuở ruộng hoàn toàn hoang dă, khiến máu tươi từ lưỡi nhỏ xuống từng giọt, từng giọt. Người tội nhân này thấy Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên th́ mừng rỡ như bắt được báu vật, vội vàng chạy đến cầu khẩn:
- Bạch hai vị tôn giả, con tên là Bộ Lợi Nă, lúc c̣n sống con là nhà truyền bá tà giáo, chuyên môn thuyết tà pháp và phỉ báng Tam Bảo, nên hôm nay phải chịu khổ báo này. Giả như hai vị có đi Nam Thiệm Bộ Châu, xin nói với môn đồ của con đừng lễ bái cái tháp gỗ nơi họ thờ phụng con nữa, điều đó làm cho tội báo của con ngày thêm nặng nề, đồng thời nói với họ đừng phỉ báng Tam Bảo, đừng lấy tà giáo mà lừa gạt chúng sinh nữa, để họ đừng dẫm theo bước chân của con mà đọa lạc xuống nơi này.
Hai vị tôn giả ra khỏi địa ngục vô gián, và trở về thành Vương Xá, trên đường về th́ gặp một nhóm ngoại đạo, trên tay người nào cũng cầm vơ khí như cây, gậy gỗ v.v... Những người này chuyên môn chận đường những người xuất gia đi ngang qua đấy và c̣n nhục mạ, đánh đuổi họ nữa.
Xá Lợi Phất đi trước, thấy họ vung gậy lên toan đánh, bèn dùng lời ḥa nhă để ngăn họ, th́ những ngoại đạo ấy tuy ngừng tay lại nhưng vẫn dùng tia mắt hung dữ nh́n tôn giả đi quạ Nhưng đến khi Mục Kiền Liên tiến đến th́ họ lại vung vơ khí trở lên trở lại.
- Đợi một chút, Mục Kiền Liên đưa tay lên chận lại, chúng ta vừa từ địa ngục vô gián lên, gặp sư phụ của các người là Bộ Lợi Nă ở trong ấy đang chịu những khổ báo cực kỳ nặng nề, lưỡi ông ấy bị cày bằng cày sắt, máu tươi dầm dề, khổ sở không bút nào tả xiết. Ông ấy nhờ ta chuyển lời đến cho các người, hăy ngừng hủy báng Tam Bảo, không được tuyên thuyết tà pháp, và mong không có ai dẫm lên bước chân của ông ấy, đồng thời đừng lễ bái tháp gỗ nữa, để cho ông được bớt khổ một chút.
Mục Kiền Liên v́ ḷng tốt mà nói lại cho họ nghe lời của thầy họ, nghĩ rằng điều ấy có thể làm cho họ hối lỗi và giải tỏa những oan khiên giữa đôi bên lúc ấy. Nào ngờ lời chưa dứt, bọn ngoại đạo đă hung bạo ùa tới như một bầy hổ sói bao quanh ngài tấn công:
- Đánh hắn! Hắn dám phỉ báng sư phụ của chúng ta! Đánh hắn! Đánh tên sa môn này đi!
Nào cây nào gậy tới tấp như mưa rơi lên thân của Mục Kiền Liên, ngài bị đánh đến nỗi thương tích đầy người.
Mục Kiền Liên, bậc đệ nhất thần thông, thần lực bất khả tư ngh́, đă từng dùng ngón chân ấn lên cung điện của trời Đế Thích làm cung điện này giao động và sụp đổ nữa, vậy th́ tại sao ngài lại không đem sức thần thông ấy ra đối phó khi bị ngoại đạo bao vây đánh đập? Lúc ấy chiến thắng một vài ngàn ngoại đạo không phải là dễ dàng như trở bàn tay sao?
Mục Kiền Liên tôn giả dùng thần thông chống đỡ tấm thân đầy thương tích vào thành khất thực, trở về tinh xá dùng cơm, xếp đặt lại y bát gọn gàng xong đến gặp Đức Phật, đi nhiễu xung quanh Thế Tôn lễ bái và thưa:
- Con vừa mới trả xong nợ tội, không lâu nữa Xá Lợi Phất sẽ nhập Niết Bàn, chúng con là hai người bạn thân nhất trong thế giới loài người, con nghĩ ḿnh phải đi theo ngài. Xin Thế Tôn từ bi tha thứ cho đệ tử!
Mục Kiền Liên với tâm cung kính chân thành nhất đi nhiễu xung quanh Đức Phật ba ṿng theo chiều tay phải, sau đó ngài trở về quê từ biệt gia đ́nh bạn hữu và độ hóa cho những người có duyên với ngài, rồi lên núi Kỳ Xà Lê tiến nhập Niết Bàn.
Giữa tăng đoàn, Đức Phật kể lại cho chúng đệ tử nghe chuyện "đánh một thả một", tức là chuyện kiếp xưa của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên:
Ngày xưa có hai vị tu đạo một hôm đi qua ngôi làng nọ, th́ có một bọn trẻ con ngu si trong làng, thấy hai vị từ xa đi tới, tâm liền loạn động, chúng bàn tính với nhau nên làm khó dễ hai vị ấy như thế nào.
- Chừng nào th́ khí hậu mới trở lạnh?
Bọn trẻ du côn kia chắn ngang giữa đường hỏi vị tu đạo đầu tiên mới đi ngang.
- Không kể xuân hạ thu đông, hễ ngày nào có gió có mưa th́ cảm thấy lạnh.
Vị tu đạo cười đáp. Bọn trẻ nhường cho vị ngày đi qua đường nhưng lại vội vă chận đường trở lại, cản không cho vị tu đạo thứ hai đi tiếp và lại hỏi:
- Bao giờ trời trở lạnh?
- Mùa đông thời tiết lạnh lẽo, mặt trời mặt trăng cùng tinh tú xoay chuyển là điều tự nhiên, xuân hạ thu đông bốn mùa, đến mùa đông th́ lạnh, đó là định luật tự nhiên của trời đất, ai ai cũng biết điều đó, chỉ có đứa ngu mới không biết.
Bọn trẻ nghe thế, nhặt đá dưới đất và thi nhau ném vào người vị tu đạo thứ hai. Vị tu đạo thứ nhất chính là Xá Lợi Phất, và vị thứ hai là Mục Kiền Liên. Chuyện xảy ra giống như ngày hôm nay vậy.
Nói tới đây, Đức Phật biết có rất nhiều người, thấy Mục Kiền Liên gặp nạn như thế bèn sinh ḷng nghi ngờ đối với thần thông, v́ thế Ngài nói tiếp:
- Các ông chớ nên nghi ngờ, diệu dụng của thần thông không phải là một điều hư dối, nhờ thần thông tôn giả có thể lên trên trời, chui xuống ḷng đất, biến hóa khôn lường, tự do tự tại không có chướng ngại. Mục Kiền Liên có sức mạnh bất khả tư ngh́ như thế. Tôn giả cũng không hề mất thần thông của ḿnh, chỉ v́ khi nào nghiệp lực hiện tiền th́ Mục Kiền Liên biết rằng đă có nợ th́ phải trả cho hết. Đến Như Lai c̣n không đi ngược lại luật nhân quả được, người nào cũng thế, khi nào nghiệp báo tới thời trổ quả th́ chỉ có cúi đầu mà nhận chịu thôi. Thuận theo nhân quả mới phù hợp với lư tính của chư pháp. V́ thế mọi người nên vui vẻ mà chấp nhận nghiệp báo, đừng nên trốn tránh, cũng không nên oán hận nó. Cũng v́ thế, mọi người nên biết rơ rằng nghiệp báo rất đáng sợ mà tinh tiến tu hành, cẩn thận mỗi hành vi của chính ḿnh, dựng một bức tường xung quanh thân khẩu ư mà pḥng ngừa. Mục Kiền Liên hiểu rơ giáo pháp của ta một cách chân chính, tôn giả rất giỏi thần thông nhưng không dùng thần thông để che đậy cho tội lỗi của ḿnh.
Mục Kiền Liên bị nạn là một tấm gương sáng, là một bài học rất tốt cho chúng ta chiêm nghiệm.
Trích từ Truyện Nhân Quả
https://i.ibb.co/mTR2F67/1044190-315637125239176-2051877330-n.jpg
CỨU ĐÀN KIẾN, TĂNG TUỔI THỌ
Thuở xưa có một chú Sa di xuất gia theo một vị cao Tăng. Một bữa nọ, vị cao Tăng đón biết chú Sa di này trong ṿng bảy hôm nữa sẽ mệnh chung, nên ḷng rất băn khoăn thương xót. V́ chú ấy từng hết ḷng hầu hạ, cung kính vâng lời, nên thầy tính kế làm sao cho được vẹn toàn, liền bảo chú: "Này con, đă khá lâu mà con chưa về thăm cha mẹ, hôm nay ta cho con về hầu thăm cha mẹ cho trọn t́nh hiếu tử, rồi sau tám hôm con sẽ trở lại chùa".
V́ thầy nghĩ rằng chú ấy sẽ không sống quá bảy hôm nữa, nên cho phép về nhà, tám hôm sau trở lại. Nào ngờ dúng hẹn, tám hôm sau chú trở lại chùa. Vị cao Tăng vô cùng ngạc nhiên thấy chú vẫn c̣n sống, đồng thời thấy thần sắc ửng hồng hiện lên trên má chú lan tỏa đến mắt, không hiểu v́ cớ ǵ, nên hỏi: "Ngày con, xưa nay ta đoán việc như thần, chưa bao giờ lầm lẫn, ta tưởng con sẽ chết trong ṿng bảy ngày, không hiểu v́ sao đến hôm nay, sau tám ngày, mà con vẫn c̣n sống, trở về mạnh khỏe, và thần sắc tươi sáng tướng tai ách trên mắt con lại biến mất?"
Sa di nhớ lại việc ḿnh đă làm, thành thực đáp: "Vâng thưa thầy, lúc đi về nhà, đệ tử trông thấy một đàn kiến đang bị nước lũ cuốn trôi, động ḷng trước cảnh thương tâm ấy nên đệ tử dùng một cành cây cứu chúng thoát nạn".
"Con này, làm điều nhân chắc chắn được sống lâu, như cổ đức từng nói: "Cứu một mạng người c̣n hơn xây dựng một ngôi tháp chín tầng". Con đă giải cứu vô số sinh mạng tương lai chắc chắn sẽ sống lâu, phúc đức của con sau này không nhỏ, ấy là nhờ ơn cứu mạng sinh linh. Thế nên, công tác hoằng pháp lợi sanh của đạo Phật chính là phát huy tinh thần từ bi cứu thế, lợi lạc chúng sinh, và luôn luôn cổ vũ đức tính bất sát và công việc phóng sinh".
Chú Sa di kính cẩn ghi nhớ lời thầy, về sau trở thành một bậc cao Tăng đức độ.
Tác Giả: Pháp Sư Tịnh Không.
Việt Dịch: Thượng Tọa Thích Phước Sơn
https://i.ibb.co/HpHBNXZ/1001625-316022785200610-2133997651-n.jpg
CHÉP KINH HÓA GIẢI ĐƯỢC OAN GIA
Vào thời nhà Đường, trong kinh đô có một người họ Phan tên thường gọi là Quả. Lúc c̣n trẻ, nhờ biết chút vơ nghệ, lại thêm có đức tính nhân từ, v́ thế xin được một chân tiểu lại trong huyện đường. Do đó mà Quả có cơ hội chơi bời cùng các bạn đồng trang lứa.
Một ngày nọ, trông thấy một con dê do chủ của nó bỏ sót lại trên một băi đất hoang. Thấy chú dê ta đang gặm cỏ và lá một ḿnh, Phan Quả đă hợp sức cùng bạn bè bắt dê trói lại, sau đó mang về nhà. Trên đường mang về, dê ta khiếp sợ kêu to làm cho Quả lo sợ chủ nó sẽ nghe thấy. Do đó, Quả bèn cắt đứt lưỡi dê. Sau khi hành động xong, lại cho ḿnh là có tài trí hơn người, xử lư t́nh thế hợp t́nh hợp lư.
Sau khi mang dê về nhà, Quả đă cùng bạn bè giết dê làm thịt, chè chén vui chơi với nhau thỏa thích.
Nào ai có biết, một năm sau đột nhiên Phan Quả phát hiện lưỡi của ḿnh ngày một ngắn dần và teo lại, phát âm khó khăn và ngọng nghịu. Quả biết ḿnh đă lâm bệnh lạ, bèn xin từ chức tiểu lại.
Song quan huyện Phú B́nh lúc bấy giờ là Trịnh Dư Khánh t́nh nghi anh ta có điều ǵ hư ngụy và gian dối. Cho nên gọi đến khám xét th́ mới hay lưỡi của anh không được b́nh thường, chỉ c̣n ngắn ngủn, nhỏ xíu. Quan huyện mới hỏi nguyên nhân, Phan Quả bèn dùng bút viết rơ mọi sự t́nh. Ngay lập tức, quan huyện ra lệnh cho thuộc hạ làm phúc để hồi hướng cho dê. Ngoài ra, c̣n khuyên Quả chép kinh Pháp Hoa để tiêu trừ nghiệp chướng. Phan Quả nghe phát tâm thành kính tha thiết, giữ ǵn trai giới, v́ dê tu phúc. Sau một năm, thật ngạc nhiên, lưỡi của Quả từ từ b́nh phục như xưa.
Phan Quả vui sướng vạn phần, vội đem mọi sự t́nh tŕnh lại cho quan huyện. Khi hay tin, vị quan huyện cũng vui mừng khôn xiết, lại c̣n thăng chức cho Quả. Viên quan huyện Trịnh Dư Khánh vốn là một người thanh liêm chánh trực, tiếng tốt đồn xa, ông được nhân dân khắp nơi ca tụng. Vào năm Trinh Quán thứ chín, ông được triều đ́nh thăng đến chức Giám Sát Ngự Sử. Đây là câu chuyện do ông kể lại nhằm giúp cho mọi người cùng chiêm nghiệm v́ lư nhân quả trong cuộc sống hằng ngày.
Trích từ truyện nhân quả
https://i.ibb.co/sCHYyRr/1044373-316385925164296-1729645593-n.jpg
ĐỒNG TỬ BẢO HẢI
Tu sửa cúng dường tháp Phật,
Cảm được kho báu tràn đầy.
... Lúc đức Như Lai ở thành Vương-xá, trong thành có một vị phú ông rất giàu có, tài sản tương đương với Đa văn thiên tử. Ông cùng vợ có một cuộc sống hạnh phúc mỹ măn.
Sau khi vợ ông mang thai, tự nhiên xuất hiện rất nhiều điềm lạ, như trong nhà bỗng dưng xuất hiện nhiều đồ trang sức, cờ báu, lọng báu..., hoa nở rộ khắp nơi, hương thơm ngào ngạt, giường ngủ cũng biến thành giường báu của chư thiên. Những điềm lành này làm cho vị phú ông rất nghi hoặc, không hiểu ǵ cả. Ông lo sợ rằng vợ ḿnh bị ma nhập hoặc bị dạ-xoa làm hại.
Do đó, ông vội vàng t́m đến một thầy tướng, hỏi xem rốt cuộc th́ những hiện tượng này là điềm lành hay dữ? Vị thầy tướng sau khi xem xong liền nói:
– Đây chẳng phải tai họa ǵ đâu, mà là do phước đức của thai nhi mới xuất hiện ra những tướng lành này. Ông không nên lo lắng.
Nghe vị thầy tướng nói thế, ông phú hộ mới yên tâm phần nào.
Sau 10 tháng mang thai, người vợ phú ông sinh hạ được một bé trai hết sức khả ái, tướng mạo đoan nghiêm, không giống người b́nh thường. Thân thể em khi sinh ra vô cùng sạch sẽ, không những chẳng dính nhau thai và máu dơ, mà trên người lại sẵn có những bảo châu, chuỗi ngọc, y phục cơi trời quư báu vô cùng...
Lúc những người hầu tắm rửa cho em, mỗi khi vừa cởi bỏ y phục trên người em ra liền tức thời xuất hiện y phục khác, khiến họ chẳng biết phải làm thế nào, chỉ c̣n cách để nguyên y phục và trang sức của em mà tắm rửa. Tắm rửa xong, khi những người hầu đặt em lên giường th́ giường ấy lập tức biến thành giường lớn, được trang hoàng bằng trân bảo vi diệu xinh đẹp. Trên trần nhà lại xuất hiện ṭa cung điện trang nghiêm, phía trên cung điện có những cờ báu, phướng báu..., bên trong cung điện có hoa tươi và hương thơm ngào ngạt, trước giường lại xuất hiện một tháp báu, trong tháp có chứa các loại vật báu, lấy hoài không hết, quả thật là hy hữu vô cùng.
Vị phú ông vui mừng không sao nói hết, liền tổ chức tiệc mừng hết sức long trọng. Bởi lúc em vừa sinh ra th́ bảo châu trong nhà tự nhiên xuất hiện nhiều như nước biển, nên ông liền đặt tên cho em là đồng tử Bảo Hải.
Đồng tử Bảo Hải được tám vị nhũ mẫu nuôi nấng bằng những thức ăn bổ dưỡng, như sữa tươi, sữa chua, khô dầu... Em lớn lên rất nhanh, và mỗi khi em đi đến đâu đều có những hàng phi nhân[19] hiện ra trải thảm đỡ chân, lại có những phi nhân, thiên nữ rải hoa cúng dường.
Lớn lên, chàng Bảo Hải tinh thông các môn học vấn thế gian như văn học, y thuật, tám loại quán sát... Cha chàng đặc biệt xây dựng bốn cung điện riêng biệt thích hợp với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông để chàng lúc nào cũng có nơi ở thật thoải mái. Trên các cung điện ấy tự nhiên xuất hiện những cờ báu, lọng báu, lại có các thiên nữ hiện xuống cùng vui chơi. Chàng hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp đó một cách thỏa thích.
Một hôm, chàng Bảo Hải phát khởi ḷng tin lớn đối với Ba ngôi báu,[20] tự suy nghĩ rằng: “Phước báo nhân thiên của thế gian ḿnh đă được hưởng đầy đủ, giờ chính là lúc nên xuất gia sống đời tỉnh thức, tinh tấn tu tập giáo pháp giải thoát của Phật-đà để đoạn trừ tất cả thống khổ của sinh tử luân hồi.”
Thế là chàng đem hết tài sản ra bố thí, giúp cho rất nhiều người được an lạc, sau đó đến đảnh lễ đức Như Lai xin theo Ngài xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi xuất gia, đồng tử Bảo Hải đi đến bất cứ nơi đâu cũng vẫn có rất nhiều phi nhân hiện ra làm cho mặt đất bằng phẳng, dựng cờ báu, che lọng báu và vô số thiên nữ vây quanh.
Một số người xuất gia cảm thấy như vậy là không hợp lư. Họ x́ xầm bàn tán với nhau:
– Tỳ-kheo Bảo Hải đă là người sống đời thoát tục, v́ sao đi đến nơi nào cũng mang theo những cờ báu, lọng báu, lại có thiên nữ vây quanh. Nếu c̣n ham thích năm món dục th́ ông ấy đến đây để làm ǵ?
Đồng tử Bảo Hải cũng v́ chuyện này mà sinh tâm phiền năo, bèn đến thưa hỏi đức Thế Tôn, cầu mong Ngài chỉ dạy cho cách đối trị như thế nào.
Đức Như Lai dạy:
– Nếu con quán xét tất cả những thứ ấy đều không cần thiết, tự nhiên chúng sẽ biến mất.
Tỳ-kheo Bảo Hải liền thực hành theo đúng lời dạy của đức Như Lai, quả nhiên tất cả đều không c̣n nữa. Thầy cảm thấy nhẹ nhàng thư thái, càng tinh tấn tu tŕ, không bao lâu sau đă đoạn trừ được hết phiền năo trong Ba cơi, chứng đắc thánh quả A-la-hán.
Lúc đó, các vị tỳ-kheo liền đến thỉnh vấn đức Như Lai:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Đồng tử Bảo Hải có nhân duyên nghiệp lành như thế nào mà được sinh vào gia đ́nh giàu sang phú quí, tướng mạo đoan trang, trời sinh có đầy đủ các loại trang sức châu báu, khi chào đời thân thể không dơ bẩn, tự nhiên xuất hiện cung điện, bảo tháp, hoa tươi, đi đến đâu cũng đều có phi nhân và thiên nữ trải thảm, rải hoa cúng dường? Lại do nhân duyên ǵ phát khởi được ḷng tin thanh tịnh vào Ba ngôi báu, xuất gia sống đời tỉnh thức, chứng đắc quả vị A-la-hán? Ngưỡng mong đức Như Lai từ bi giải thích cho chúng con được rơ, chúng con rất muốn nghe.
Đức Như Lai nh́n khắp đại chúng một lượt rồi nói:
– Đây là sự thành tựu nguyện lực đời trước của tỳ-kheo Bảo Hải. Trong Hiền kiếp này, vào lúc tuổi thọ con người là 20.000 tuổi, đức Phật Ca-diếp c̣n tại thế. Khi đó, tại vườn Lộc Dă ở Ấn Độ có một vị trưởng giả giàu có ngang với Đa văn thiên tử, có niềm tin thanh tịnh và vào Ba ngôi báu. Ông ta đặc biệt xây dựng giảng đường, cung thỉnh đức Phật Ca-diếp và toàn thể tăng chúng đến thuyết pháp và cúng dường lên chư vị đủ các loại thức ăn thơm ngon, lại c̣n thỉnh đức Như Lai và chư tỳ-kheo tắm rửa thay y phục, rồi thu nhặt tóc và móng tay của đức Phật Ca-diếp để xây tháp cúng dường.
Ngày nọ, có rất nhiều chim đến làm tổ trên ngọn tháp. Ông ta thấy vậy cho là bất kính, liền xây thêm một tầng lầu bên trên tháp, lại dùng các loại phướng báu, lọng báu để trang sức, bên trong dùng các loại châu báu, chuỗi ngọc quư giá để trang hoàng, trông thật trang nghiêm, xinh đẹp vô cùng. Sau đó, ông phát nguyện:
– Nhờ tất cả công đức tu tạo bảo tháp này, nguyện cho con được đời đời kiếp kiếp sinh vào gia đ́nh giàu sang, tướng mạo đoan trang, trời sinh đầy đủ các loại bảo vật trang sức, khi chào đời thân thể không dơ bẩn, tự nhiên hiển hiện cung điện, bảo tháp, hoa tươi, bên trong bảo tháp cất chứa nhiều báu vật lấy hoài không hết, đi đến đâu cũng đều có phi nhân và thiên nữ trải thảm, rải hoa. Sau cùng, sinh khởi ḷng tin thanh tịnh vào Ba ngôi báu, được xuất gia đắm ḿnh trong pháp lành của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Đức Phật kể xong nhân duyên nghiệp lành đời trước của tỳ-kheo Bảo Hải, tất cả đại chúng đều sinh tâm hoan hỷ, đảnh lễ tin nhận.
Trích từ Truyện Nhân Quả
https://i.postimg.cc/N0dHF9wf/1011718-316885678447654-1866539903-n.jpg
PHẢI TRẢ NGHIỆP DO THAM LAM
Trong một lần Đức Phật đang thuyết pháp, có một ông già bần cùng mà thọ đến hai trăm tuổi, lông mày dài đẹp, hai lỗ tai rộng lớn, răng trắng và đều đặn, hai tay dài quá gối, dung mạo tựa như người có phước tướng nhưng chịu phải cảnh nghèo khổ, quần áo không đủ để che thân, rách nát lơa lồ, lại thường bị cảnh đói khát, kéo lê từng bước, vừa đi vừa thở một cách mỏi mệt. Đă trải qua mười năm, ông nghe có Phật tại thế, trong ḷng rất vui mừng, ngày đêm luôn luôn phát nguyện được gặp Phật.
Ông chống gậy lần hồi t́m đến, cầu mong được yết kiến Ngài. Chẳng may vừa đến ngơ Tịnh Xá, ông lại gặp phải các vị Phạm Thiên, Đế Thích chặn lại không cho vào. Uất ức, ông già mới kêu than. Ở trong, Phật đă biết việc ǵ đang xảy ra giữa ông già và Phạm Thiên Đế Thích ở ngoài ngơ tịnh xá, Phật mới quay sang bảo A Nan hăy ra cho ông ấy vào.
Bấy giờ ông già ḷm c̣m đi vào, vừa trông thấy Phật, ông rưng rưng hai hàng nước mắt, vừa mừng vừa khóc, cúi đầu sụp lạy đức Phật, rồi quỳ thẳng, chấp tay sụt sùi kính bạch: “Con sinh ra đời bất hạnh, chịu cảnh bần cùng khốn khổ, đói khát lạnh lẽo. Cầu chết không được, sống th́ không biết nhờ cậy ai. Con nghe Thế Tôn là một bậc nhân từ yêu thương che chở khắp tất cả. Muôn vật đều được nhờ ân đức của Thế Tôn.
Tâm con vui sướng, đêm ngày phát nguyện, mong được một phen chiêm ngưỡng tôn nhan từ mười năm qua, nay mới được kết quả như nguyện. Phật dạy: “Phàm làm người ở cơi đời, sinh tử đều do nhân duyên. Do nhiều nhân duyên tạo ra gốc rễ tội lỗi. Ta sẽ nói cho ông rơ nguồn gốc của tội lỗi mà ngày nay ông đă gánh chịu: Đời trước ông sinh vào nhà Minh Huệ Vương là một ông Vua cai trị một đại cường quốc. Khi đó ông là Thái tử Kiêu Quí. Trên được Phụ Vương và Mẫu Hậu quí trọng, dưới được thần dân kính phụng. V́ thế nên ông hết sức kiêu căng, tự cao, tự đại, tâm ư buông lung, khinh ngạo mọi người, xem thường tất cả. Giàu có cự phú, tài sản muôn ức, đều là chiếm đoạt của dân. Trăm họ nghèo cùng bởi v́ thuế khóa thu hết.
Ông chỉ biết gom góp, chứ không biết bố thí. Bấy giờ có một vị Sa môn tên là Tịnh Chí từ xứ xa đi đến. V́ thiếu một cái pháp y, nên t́m đến ông, mong ông bố thí một cái mà thôi, chứ không mong cầu ǵ nhiều. Nhưng ông tuyệt nhiên không cho, lại c̣n đối xử một cách quá tệ ác, đă không cho pháp y, lại cũng không cho ăn. Ông bắt vị Sa môn vô tội ngồi măi trước nhà, muốn đi ông vẫn không cho. Qua bảy ngày đêm không thí cho một hớp nước. Thân thể đă ngất xỉu, hơi thở thoi thóp, tánh mạng sắp nguy kịch. Coi đó như một tṛ vui, cho tập trung nhiều người đến xem, ông lấy làm vui thích lắm! Lúc ấy có vị cận thần khuyên can ông rằng: “Thái tử chớ nên làm như vậy. Đây là một Sa môn hiền từ, khiêm tốn, bên trong mang cả tinh thần đạo đức. Sự lạnh lẽo bên ngoài, đối với con người ấy không có ǵ đáng gọi là lạnh lẽo, và sự đói khát cũng không đáng là đói khát. Sở dĩ đến đây xin là muốn gây phước đức cho kẻ khác thế thôi. Thái tử đă không bố thí cho th́ thôi, đừng nên gây cùng bức cho người ta. Tốt hơn là Thái tử trả tự do cho vị Sa môn này đi. Đừng nên gây thêm điều ǵ tội lỗi!”. Thái tử đáp rằng: “Đây là người ǵ mà giả xưng là đạo đức. Ta cho chịu khốn khổ thử chơi, chứ ai để cho chết làm ǵ? Khanh đừng lo. Thôi khanh thả cho ông đi.” Nói xong liền cho thả vị Sa môn đi ra khỏi thành.
Vị Sa môn đi cách thành khoảng mười dặm, lại gặp phải bọn giặc cướp bị đói lâu ngày muốn bắt vị Sa môn giết ăn thịt. T́nh cờ có Thái tử đi đến, thấy sự kiện như thế, tự nhủ rằng:
“Ta đă không cho cơm áo vị Sa môn ấy th́ thôi, chớ đâu lại nỡ để cho bọn giặc đói giết hại! Ta phải cứu người.” Bọn giặc đói thấy Thái tử can thiệp, nên cả bọn đều sụp lạy xin tha tội và thả vị Sa môn đi.
Vị Sa môn lúc đó nay là Bồ Tát Di Lặc đây, Thái tử Kiêu Quí lúc đó, nay là ông đây. Sở dĩ nay ông chịu phải tội bần cùng khốn khổ là do đời trước tham lam bỏn xẻn. Lư do nay ông được trường thọ là bởi cứu mạng sống vị Sa môn. Tội phước báo ứng như bóng theo h́nh! Ông già bạch Phật: “Việc quá khứ đă rơ ràng như vậy. Con xin nguyện được giũ sạch từ đây mà nguyện đem mạng sống thừa này được làm Sa môn, về sau đời đời được hầu bên Phật.”
Trích từ tích truyện Nhân Quả
https://i.postimg.cc/fbzqFRQQ/1044609-317443598391862-976319437-n.jpg
OAN OAN TƯƠNG BÁO
Thuở xưa vào thời chánh pháp của Đức Phật Thích Ca, có một vị trưởng giả giàu có. Vị này có hai người vợ, người vợ lớn không con, người vợ nhỏ sinh được một đứa con trai khôi ngô tuấn tú, cả gia đ́nh nhờ thế mà vui vẻ.
Khi ấy người vợ lớn sinh ḷng sân hận, đố kỵ, luôn t́m cách để hại đứa bé con người vợ nhỏ, nhưng bên ngoài bà tỏ ra hết ḷng thương yêu, chiều chuộng, không một chút ganh tỵ nào.
Một hôm người vợ nhỏ đi vắng, người vợ lớn lén lấy cái kim ghim vào đỉnh đầu đứa bé. Đứa bé từ ấy phát bệnh la khóc suốt ngày, bỏ ăn, bỏ uống, thân h́nh tiều tụy, qua bảy hôm th́ chết. Trong nhà ai cũng sầu khổ. Người vợ lớn cũng tỏ ra đau đớn, tiếc thương. C̣n người vợ nhỏ th́ vật ḿnh xuống đất, khóc than thảm thiết suốt cả ngày đêm. Nhưng cả nhà chẳng ai biết được v́ sao đứa bé ấy chết. Về sau bà vợ nhỏ biết được do ḷng ganh tị của người vợ lớn và chính bà ấy giết. Bà vợ nhỏ lập tâm báo thù. Bà đến chùa hỏi các thầy tỳ kheo: “Bạch đại đức, muốn toại nguyện ḷng mong cầu, phải làm công đức ǵ?” Các thầy tỳ kheo đáp: “Muồn toại nguyện ḷng mong cầu th́ phải thọ tŕ bát quan trai giới, điều cầu xin sẽ được như ư.
Nghe xong, bà xin thọ bát quan trai giới. Sau đó bảy ngày bà chết đầu thai làm con gái bà vợ lớn, thân tướng đẹp đẽ. Bà vợ lớn thương yêu, quí trọng hơn vàng, nhưng oan nghiệt thay, đứa bé ấy chỉ sống được một năm rồi chết khiến cho người mẹ khổ sở đau đớn khôn cùng, khóc lóc thảm thương, bỏ ăn quên ngủ. Oan oan tương báo như thế đến bảy lần, bà vợ lớn đoán biết đây là sự báo oán của người vợ nhỏ.
Cho đến lần cuối cùng, bà vợ lớn sinh được một bé gái lại càng đẹp đẽ, thân thể đoan trang hơn mấy lần trước, nhưng lần này đứa bé sống được 14 tuổi, sắp có gia đ́nh. Một hôm đang đêm nàng bước ra khỏi cửa, liền ngă lăn ra chết. Bà mẹ khóc lóc kêu gào la hét suốt ngày, ḷng thương con cùng cực, khiến bà phát cuồng, không c̣n biết ǵ nữa. Bà để xác con giữa nhà, chẳng chịu liệm càng nh́n xác con càng thấy đẹp lạ thường.
Một buổi sáng nọ, các thầy tỳ kheo thiền định, dùng từ tâm quán khắp tâm chúng sinh, thấy người đàn bà ấy bị một chuỗi oan nghiệt nối dài và nay chính là lúc nhờ sự đau khổ cùng tột có thể làm tâm bà bừng sáng. Sau khi dùng từ tâm quán sát, thầy tỳ kheo liền khoác y ôm bát, đến nhà bà vợ lớn khất thực. Đến nơi trước nhà vắng vẻ, bên trong nghe tiếng khóc than quằn quại, thầy rung tích trượng, hồi lâu có kẻ đầy tớ mang cơm ra cúng: “Bạch Ngài, bà chủ con bận việc không thể ra, xin Ngài từ bi nạp thọ”. Thầy sa môn im lặng, không mở bát ra mà nói: “Ta muốn gặp thí chủ”.
Người đầy tớ trở vào thưa cùng bà vợ lớn rằng thầy sa môn nuốn gặp bà. Bà chủ nói: “Ta có chuyện buồn khổ, chỉ muốn chết thôi, ta không muốn gặp ai cả, mày hăy mang cơm ra cúng dường thầy sa môn ấy và xin Ngài hăy đi đi. Nhưng khi người giúp việc mang cơm ra, Ngài cũng không nhận và nói như trước. Bà vợ lớn tự nghĩ: “Ta đang lúc khổ sở mà vị sa môn này chẳng hiểu được tâm ta, sai ngưởi đem cúng dường mà chẳng nhận, quyết muốn gặp ta, không biết Ngài muốn ǵ?” Khi bà bước ra, thầy sa môn vừa trông thấy liền hỏi:
“Này thí chủ, v́ sao bà có vẻ sầu khổ, đầu tốc rối bù, mặt mày hốc hác tiều tụy đến thế?”. “Bạch Ngài, từ ngày tôi có gia đ́nh đến nay, sinh bảy đứa con gái đứa nào cũng đẹp đẽ dễ thương, nhưng khi đến một hoặc hai ba tuổi th́ chết, duy chỉ có đứa con này đến 14 tuổi, đêm hôm vừa bước ra khỏi nhà liền té xuống đất chết ngay. Tôi quá khổ sở, chỉ có muốn chết nữa mà thôi”. Nói xong bà khóc nức nở. Thầy sa môn bảo: “ Hăy rửa mặt, chải đầu rồi ta sẽ nói cho bà nghe”.
Nhưng bà ta vẫn khóc, thầy sa môn nói: “Này bà, người vợ nhỏ của ông chủ nhà này v́ sao chết?”. Bà vợ lớn nghe nói trong ḷng bối rối sợ hăi, tự nghĩ sao vị sa môn này lại biết được việc nhà ta?
Thầy sa môn nói: “Người vợ nhỏ của nhà này sinh được một đứa con trai, v́ sao đưa con ấy lại chết đi?”. Bà vợ lớn nghe nói trong ḷng càng sợ hăi, run rẩy chẳng nói nên lời. “Này bà, do bà giết đứa bé ấy, nên người mẹ của nó đau khổ rồi chết theo, v́ oan oan tương báo, người mẹ của đứa bé quyết báo thù, nên bảy lần sinh làm con của bà rồi lại chết, để bà phải đau khổ mà chết theo như bà đă gây ra cho người vợ nhỏ. Giờ đây đứa con bà vừa mới chết, bà hăy xa ra th́ sẽ biết đứa con ấy thể nào?”. Nghe vị sa môn nói, bà quay lại th́ toàn thân đứa con ấy tan ră, hôi thối vô cùng. Trong ḷng cảm thấy hổ thẹn khủng kiếp, bà cúi đầu đảnh lễ vị sa môn cầu xin cứu độ.
“Ngày mai bà hăy đến chùa ta sẽ làm lễ qui y cho”. . Ngay khi ấy, xác đứa con gái liền biến thành rắn độc, biết được bà vợ lớn sẽ đi thọ giới, nên rắn nằm ngang chặn giữa đường. Thầy sa môn nói với rắn : “Oan nghiệt đă trải qua mấy đời. Người vợ lớn chỉ giết có một người con của nhà ngươi, tại sao nhà ngươi lại làm khổ người ta đến bảy lần. Tội nhà ngươi rất lớn, hôm nay lại muốn cản đường không cho người ta đi quy y tam bảo nữa, tội này đời đời sẽ đọa vào địa ngục, hiện tại nhà ngươi chỉ là thân rắn đâu được thân người”.
Rắn nghe nói, liền nhớ lại kiếp trước, đau đớn trong ḷng, vặn ḿnh uốn khúc, đập đầu xuống đất, hướng về vị sa môn mà sám hối. Vị sa môn nói : Hai người đời trước đă tạo oan nghiệt gây khó cho nhau. Vậy kể từ nay tội lỗi mỗi người sẽ được chấm dứt, đời đời không được có ư niệm giết hại nhau nữa. Cả hai đều ăn năn, rắn độc nhờ sức chú nguyện của vị sa môn liền được thác sinh làm thân người.
Trích từ truyện Nhân Quả
https://i.postimg.cc/4NJx6mh9/998022-319737534829135-611644208-n.jpg
HIỂU ĐẠO & TU ĐẠO
Có hai anh em nhà nọ cùng xuất gia với Đức Phật. Họ tu một thời gian th́ từ từ tách nhau ra, mỗi người rẽ sang một lối khác biệt nhau. Người anh th́ rất tinh tấn hành đạo, c̣n người em th́ hết sức cố gắng hiểu đạo.
Sau một vài năm người th́ chăm chỉ sớm tối, người th́ chỉ lo nghiên cứu, cả hai đều có chỗ thành đạt. Người anh th́ chứng quả A La Hán, người em th́ đă thâm nhập ba tạng kinh điển của Phật pháp.
Tuy nhiên, người em thường cho là ḿnh học rộng nghe nhiều, tự vỗ ngực khoe khoang tỏ ra thông minh, làm cho mọi người phải biết đến tên ḿnh, cho rằng như thế mới là vinh dự. Khi người anh biết điều ấy rất lấy làm lo lắng cho em, cảm thấy sự thành công của em ḿnh không có triển vọng tốt đẹp, nên có lần khuyên nhủ em rằng:
- Thân người khó được, gặp Phật tại thế cũng rất khó. Chính Đức Phật đă có nói, cơ hội mất thân người th́ ví như mặt đất mênh mông, c̣n cơ hội được thân người th́ ví như chút bùn dính trên móng taỵ Bây giờ hiền đệ đă có thân người, nên lấy việc tu hành làm trọng, việc t́m hiểu để sau, hiền đệ phải hết sức thận trọng chọn lựa việc ưu tiên mà làm.
Người em nghe nói thế không thấy anh ḿnh có lư nên bỏ ngoài tai, c̣n bác bỏ rằng:
- Điều huynh nói, đệ nghĩ rằng không hẳn đă đúng. Đệ cảm thấy sự hiểu biết về Phật pháp của đệ tuy chỉ như giọt nước trong biển cả, và tuy chưa vào được cốt tủy của đạo, song đă đi th́ phải đi cho trót. Đợi đệ tinh thông tam tạng giáo nghĩa, đảm nhiệm chức vị "thầy của trời người", sau đó tu hành cũng chẳng muộn.
- Nhưng đời người vốn vô thường ngắn ngủi, lỡ như hiền đệ chưa học xong tam tạng giáo nghĩa đă bị vô thường cuốn mất th́ sao? Cho nên chuyện tu hành là chuyện cấp bách nhất!
Nhưng người em vẫn chấp chặt vào ư kiến của ḿnh, không chịu nghe lời khuyên của anh. Không lâu sau, người em mắc phải một cơn bệnh quái dị, không có thuốc nào cứu chữa chỉ c̣n chờ chết. Biết là không thể nào thoát chết, người em vô cùng khiếp sợ nói với người anh rằng:
- Lúc trước tiểu đệ ngu si đui mù, không chịu nghe lời khuyên bảo của hiền huynh. Bây giờ đứng trước cửa tử, tu hành không kịp nữa rồi!
Người em nói mà nước mắt dàn dụa, xin lỗi anh và không lâu sau trút hơi thở cuối cùng. Người anh niệm t́nh anh em, bèn nhập định quan sát xem người em đầu thai đi về chốn nào. Khi thấy người em đă thác sinh vào nhà một ông trưởng giả, người anh bèn nghĩ đến chuyện cứu độ em.
Nhà của người trưởng giả ở gần một ngôi chùa, người anh về đấy tu để ḍ xét chờ đợi cơ hội cứu độ em.
Người em trong đời sống mới vừa lên ba tuổi, bèn được người anh quy y cho và dạy cho niệm Phật. Đó là một đứa bé thông minh khéo léo, học đâu biết đó nên được mọi người yêu mến.
Khi nó được bốn tuổi, một hôm được bà nhũ mẫu bồng lên chùa trên núi thăm sư phụ. Chùa tọa lạc trên một ngọn núi cao, các bậc thang bằng đá th́ khúc khuỷu gập ghềnh, bà nhũ mẫu bồng đứa bé trong ḷng sơ ư vuột tay, đứa bé rơi xuống núi, máu đổ thịt rơi, thân h́nh tan tác, chết một cách thê thảm.
Trong ngay cái sát na nó ĺa đời, trong tâm sinh khởi niệm ác, oán hận bà nhũ mẫu ôm ḿnh không cẩn thận khiến cho ḿnh gặp tai nạn như thế này. V́ cái niệm sân hận trong tâm đó nên chết rồi là đọa ngay xuống địa ngục.
Khi người anh biết được chuyện này, thương xót đứa em bất hạnh đă đành, nhưng ông c̣n nhập định xem nó thác sinh vào chốn nào. Bỗng nhiên trong định, ông thấy em ḿnh đă rơi xuống địa ngục, bất giác than dài :
- Trong địa ngục khổ sở đến chừng nào, khó độ đến chừng nào! Chư Phật và chư Bồ Tát c̣n không cứu được, ta làm sao cứu được hiền đệ đây!
Phật pháp khó nghe, thân người khó đắc, mà một khi được rồi th́ có được bao năm? Chúng ta phải nắm bắt thời cơ, cố gắng tu hành. Trong đạo Phật, hiểu đạo là chuyện cấp bách nhưng hành đạo quan trọng hơn. Tốt nhất là nên tu và học cùng một lúc, hành và giải phải coi trọng ngang nhau.
https://i.postimg.cc/prHqCkyQ/1011864-320178021451753-1906999500-n.jpg
TRUYỆN VỊ LĂO TĂNG
Thế gian viễn hứa bi oan xạ
Dục nhập tham thiền vạn kiếp không.
Thời Trung Hoa Dân Quốc, Cư Sĩ Uông Hiểu Viên một hôm ra chợ thấy vị lăo Tăng đứng gó sửng vào hàng thịt, rưng rưng nước mắt, Cư Sĩ lấy làm lạ hỏi duyên cớ.
Lăo Tăng đáp:
“Câu chuyện rất dài, xin lược thuật phần đại khái, tôi nhớ được việc hai kiếp về trước, đời thứ nhứt, tôi là một tên Đồ Tể, hơn ba mươi tuổi măn phần, hồn bị người bắt trói đưa đi. Minh Quan trách làm nghiệp sát nặng, cho quỷ áp giải đến Tuy Chuyển Luân để thọ ác báo, lúc bị xô xuống con sông đen tối, tâm thức tôi hoảng hốt mơ màng. Thọt tiên, thật nóng như lửa đốt khó nhẫn, kế đó là cảm hơi mát mẽ, tĩnh ra th́ ḿnh đă sanh làm kiếp súc vật ở trong chuồn heo, sau khi dứt sữa thấy thức ăn không được sạch. Ḷng cũng biết nhườm gớm, nhưng v́ đói quá gan ruột cồn cào, nên bất đắc dĩ phải nhắm mắt mà nuốt vào.
Sau lần lần thông tiếng nói của loài heo, thường cũng hỏi hang nhau, trong đồng loại cũng có lắm kẻ nhớ biết kiếp trước của ḿnh. Xong không thể nói cho người hiểu được, đại để đều nhận thức ḿnh sẽ bị giết, nên có lúc rên rỉ đôi mắt ướt là tỏa dấu bi sầu.
Loài heo thân thể thô nặng, vào mùa hạ rất nóng khổ chỉ t́m vũng bùn nằm vùi mới đỡ, xong cũng không thường có được, bởi lông thưa và cứng, nên mùa đông lại khổ v́ lạnh thân thể giá buốt. Thấy loài dê chó lông nhiễn dầy, hằng mơ ướt xem như loài thú tiên, đến lúc bị bắt tự biết ḿnh không khỏi, nhưng sợ quá nhảy chạy càng, mong kéo hườn mạng sống được phút nào hay phút nấy.
Khi bị trói rút bốn chân khiên đi giây khuyết đau đến tận xương, lúc người bỏ lên xe chở về thân h́nh cùng đồng loại chồng chất đè lên nhau máu huyết ứ động gần như muốn đứt. Khi đến nhà ḷ, bị liện xuống đất gan ruột tựa hồ tan nát. Nh́n thấy dao bén, chảo vạc để hai bên ḷng bất rung sợ, không biết đến khi bi giết sẽ đau đớn như thế nào. Lúc thọc huyết thân tâm sản sốt rụng rời, thấy ánh dao chớp lên liền nhắm mắt không dám nh́n thẳng. Khi Đồ Tể ấn lưỡi dao vào cổ rung lắc mạnh cho huyết chảy xuống bồn. Ban đầu c̣n kêu la sau chỉ rên nhỏ trong cổ họng cho đến máu chảy đến tắt hơi, sự đau khổ thật không thể h́nh trạng. Bây giờ hoảng hốt mê ly như say như mộng, chừng tĩnh dậy thấy ḿnh đă thành h́nh người. Minh Quan xét thấy kiếp trước c̣n có nghiệp lành , nên cho chuyển sanh làm người, tức là thân người đời nay đây.
Vừa rồi tôi thấy loài heo bị giết thương nó đau đớn, nhớ lại kiếp trước ḿnh đă chịu khổ độc, rồi tiếc cho người Đồ Tể này, tương lai cũng bị nỗi khổ đó. Ba mối niệm giao cảm bất giác thương tâm không biết rơi lệ tự lúc nào”.
Nói xong quay mặt bỏ đi, lúc ấy người xung quanh nghe nói trỉ trơ bàn tán phân vân. Bác hàng thịt được biết câu chuyện sanh ḷng sợ hăi, từ đó về sau đổi nghề đi bán rau đậu.
“Trích Lục Phật Học Chỉ Nam”
https://i.ibb.co/gdhdHF6/1013580-320710008065221-1183297276-n.jpg
A LA HÁN GẶP NẠN
Ngày xưa ở nước Kế Tân,Tây Vực, có một vị cao tăng tên gọi là Ly Việt, lúc trẻ xuất gia, ở trong hang động trên một đỉnh núi hoang vắng học đạo, công phu tu hành thiền định rất chuyên cần, chứng được quả A La Hán và lục thần thông. V́ thế nên người người xa gần biết tiếng, t́m đến xin bái ngài làm sư phụ.
Dưới sự chỉ dẫn khéo léo và từ bi của ngài, đệ tử ngài cũng chứng quả A La Hán rất mau, chứng quả xong họ phân tán khắp nơi để lo việc hoằng pháp.
Tuy ngài Ly Việt đă chứng thánh quả nhưng vẫn không ngừng tinh cần tu tŕ, rất ít khi nghỉ ngơi. Một hôm có chút giờ nhàn rỗi, ngài mới nhân đó dọn dẹp hang động, chợt thấy tấm y màu xám mà ngài thường mặc đă theo thời gian mà ngả sang màu bạc trắng.
Không biết tại sao hôm ấy ngài lại nổi hứng lên núi hái rễ cỏ và vỏ cây làm thuốc nhuộm rồi đem tấm y trăm mảnh ra nhuộm lại. Bỏ tấm y trong nồi thuốc nhuộm rồi, ngài dùng một nhánh dương liễu khuấy nước để trộn thuốc nhuộm cho đều, th́ quái lạ thay, tấm y bỗng dưng biến thành một tấm da trâu! Chưa hết, thuốc nhuộm trong nồi đang đen như mực, bỗng biến thành màu đỏ như máu, và mấy cái rễ cỏ vỏ cây lại biến thành những miếng thịt trâu. Quái dị hơn nữa là mùi thịt trâu c̣n bốc ra từ cái nồi đang sôi, khiến ngài cứ trố mắt ra nh́n một cách kinh ngạc.
Đúng lúc ấy một người nông phu từ chân núi chạy lên, thấy ngay miếng thịt trâu trong nồi, bèn la hét giận dữ:
- A, ông thật là to gan! Hôm nay ông khai giới sát nên mới đem con trâu của tôi ra giết phải không! Sáng sớm tôi dắt trâu lên núi ăn cỏ, mấy phút sau không thấy nó nữa, đi t́m khắp nơi mà t́m không ra, may mà có mùi thịt dẫn đường nên tôi mới t́m được tới đây! Th́ ra là ông, một kẻ xuất gia, đă ăn trộm con trâu của tôi đem ra làm thịt! Bây giờ ông có ǵ nói để tự biện hộ không? Đi! Đi với tôi đến gặp vua ngay!
Người nông phu nóng nảy không chịu nghe lời phân trần, lôi Ly Việt xềnh xệch đi đến gặp vuạ Thời ấy không có toà án, không có pháp đ́nh, dân chúng hễ có việc ǵ bất b́nh là kéo nhau đi gặp vua, nhờ vua phân xử.
Khi người nông phu kể lể hết sự t́nh cho vua nghe, vua bèn hỏi Ly Việt có lời nào biện bạch không? Chứng cớ đă rành rành ra đó, c̣n có ǵ để nói nữa, do đó vua xử Ly Việt ngồi tù 12 năm.
Mười hai năm, tức là bốn ngàn ba trăm tám chục ngày hơn chứ có phải ít đâu! Ly Việt La Hán trong suốt thời gian tù tội phải đảm nhiệm công việc quét dọn nhà lao và chùi rửa cầu xí cho sạch sẽ. Buổi tối, ngài dụng công chuyên cần tu thiền định, không bao giờ nằm xuống. Ngài từ bi nhẫn nại như thế nên đến cả mấy người cai ngục, người nào cũng hết sức cảm động.
Thời gian 12 năm tù đă măn hạn, những người đệ tử ngày xưa tham thiền với ngài bỗng không hẹn mà cùng một lúc nhớ nghĩ đến sư phụ trong núi, tất cả bèn dùng thần thông quan sát, biết là sư phụ bị tù oan trong 12 năm trường.
Họ cưỡi gió bay về cung vua, trong không trung khua trống pháp để tỏ sự bất b́nh. Nhà vua nghe thế hết sức kinh ngạc, vội vàng tự tay phóng thích Ly Việt La Hán ra khỏi nhà giam.
Sau 12 năm tù đày, Ly Việt tóc th́ dài râu th́ trắng, nhưng khi ngài vừa bước chân ra khỏi cửa ngục th́ râu tóc tự động rụng xuống đất, rồi c̣n bay lên không trung, biến hiện vô lượng hóa thân, mỗi hóa thân phóng ra ánh sáng rực rỡ. Thái độ an nhiên của ngài không giống một người mới được thả ra khỏi tù chút nào.
Lúc ấy, chư vị A La Hán muốn ra tay trừng phạt nhà vua làm việc không công minh, nhưng ngài Ly Việt ngăn lại:
- Các con không được ra tay, đây là nghiệp chướng của ta, không thể oán trách bất cứ ai khác.
Trong một kiếp quá khứ, ta là một người nông phu, có một con trâu đi lạc. Ta lên núi t́m nó, đi cùng hết núi t́m cũng không ra, mà lại gặp một vị xuất gia tu hành. Không suy nghĩ ǵ thêm, ta liền nghi ngờ chính vị này ăn cắp trâu của tạ Trong suốt 12 tiếng đồng hồ ngày hôm đó, trong tâm ta khởi đầy vọng niệm, ta muốn đuổi vị ấy ra khỏi núi, ta muốn bắt vị ấy đưa lên vua để vị ấy bị giam cầm vào ngục tối... Ta đă tạo nghiệp ác, khiến kiếp này phải bị 12 năm tù oan.
Giống như chuyện cho vay ăn lăi, thời gian càng lâu th́ tiền lăi càng cao, quả báo ta phải bồi thường lên tới 8 000 lần số "nợ" ta đă mượn.
Ta chỉ hận tại sao lúc đó không làm ǵ ích lợi cho người khác, không phát tâm bố thí rộng răi, có phải là kiếp này đă tiêu nghiệp chướng rồi không?
Các vị mới chứng quả A La Hán, nhà vua và đại thần nghe Ly Việt kể lại chuyện xưa như vậy, ai nấy đều tỉnh ngộ và đều hiểu rằng nguyên tắc nhân quả là một nguyên tắc bất di bất dịch, không một ai có thể đứng ngoài nguyên tắc này.
https://i.ibb.co/9brzhwv/995893-322820871187468-1896482476-n.jpg
CÓ LÀM CÓ CHỊU
Lúc đức Thích-ca Mâu-ni trụ tại thành Vương-xá, một hôm có một người lái buôn tên gọi là Phất Ca Sa muốn đi mua hàng hóa, nên sáng sớm đi đến thành La Việt, nhưng vừa tới cổng thành th́ đă bị một con trâu húc chết.
Chủ con trâu thấy thế, sợ nếu giữ con trâu hung ác này lại th́ về sau thế nào cũng sẽ xảy ra chuyện không lành, bèn đem con trâu đi bán với một giá rẻ mạt.
Người chủ mới mua trâu xong bèn dắt trâu về nhà. Đi được nửa đường gặp một con sông, ông muốn cho trâu uống nước. Không ngờ trâu chẳng những không uống nước mà c̣n nổi tính hung bạo dữ dằn, th́nh ĺnh dùng sừng húc người này chết tươi.
Người nhà của nạn nhân thấy thế nổi giận, đem con trâu ra giết, rồi đem thịt ra chợ bán. Có một người nông phu tham giá rẻ, mua đầu trâu về, lấy dây cột sừng trâu lại rồi xách về nhà.
Ấn Độ là một nước nhiệt đới, vô cùng nóng bức. Người nông phu đi được một đoạn đường th́ vừa nóng vừa khát, bèn treo đầu con trâu lên một cành cây rồi ngồi dưới gốc cây này nghỉ ngơi.
Quái lạ thay, sợi dây cột đầu con trâu mắc lên cành cây bỗng dưng vô cớ đứt đoạn, khiến đầu con trâu rơi xuống, trúng ngay đầu người nông phu khiến ông này bị trọng thương mà chết ngay tại chỗ.
Chỉ trong ṿng một ngày mà con trâu này đă giết chết ba người.
Vua Tần Bà Sa La nghe tin này rất lấy làm lạ, biết rằng bên trong phải có nguyên do ǵ đây. Ông bèn dẫn một số đại thần, đem hoa quả hương đèn tới núi Linh Thứu lễ Phật rồi thỉnh Ngài thuyết giải cho nghe.
Đức Phật kể cho vua Tần Bà Sa La nghe rằng:
– Thuở xưa có ba người lái buôn đi qua nước láng giềng làm ăn mua bán. Họ muốn để dành tiền nên chiều hôm ấy, thay v́ đi t́m nhà trọ th́ lại ghé đến nhà một bà lăo xin mướn một căn pḥng. Hai bên thỏa thuận giá cả xong, họ ở lại nhà bà lăo ngủ qua đêm ấy. Sáng hôm sau, bà lăo có việc phải đi ra ngoài, ba người thừa cơ hội bà vắng mặt lẻn trốn đi mất.
Về tới nhà thấy thế, bà lăo tức giận vô cùng, đuổi theo họ đ̣i tiền. Ba người phải gánh vác hành lư nặng nề nên đi chưa được xa đă bị bà lăo bắt kịp. Họ thấy bà lăo già cả, dễ ức hiếp, nên nặng lời nhục mạ chưởi mắng bà. Bà lăo không làm ǵ được họ, phẫn uất mà nói:
– Mấy người chỉ là một phường vô lại, thấy tôi già cả nên mới ức hiếp nhục mạ tôi. Nhưng hành động này của mấy người thế nào cũng có ngày trả báo. Kiếp này tôi không làm ǵ mấy người được, nhưng kiếp sau, dầu tôi có sinh ra làm người hay dầu có mất thân người đi nữa, tôi cũng quyết sẽ báo thù. Tôi sẽ giết hết cả ba người, có thế mới hả được niềm căm hận này.
Đức Phật thuyết câu chuyện nhân duyên ấy xong liền nói tiếp:
– Con trâu hung ác chỉ trong một ngày giết hại ba mạng người chính là bà lăo thuở trước. Ba người lái buôn đă khinh miệt bà lăo trong kiếp xưa, kiếp này đă lần lượt bị trâu húc chết trong ṿng một ngày.
Tội phúc như chiếc bóng đi theo mỗi người, nếu ḿnh khinh miệt người khác mà làm việc trái với lương tâm, th́ cũng chỉ có ḿnh tự chịu lấy quả báo đau khổ về sau mà thôi!
cha12 ba
05-17-2020, 21:29
Thank You chủ thớt
https://i.ibb.co/SBnbxtk/1006242-323645501105005-592050000-n.jpg
PHÀM LÀM VIỆC G̀, TRƯỚC PHẢI XÉT KỸ ĐẾN HẬU QUẢ CỦA NÓ
( Trích Bài Học Ngàn Vàng)
H.T Thích Thiện Hoa
CHƯƠNG I: ÔNG GIÀ BÁN BÀI HỌC NGÀN VÀNG[/B]
Ngày xưa, xưa lắm, ở vùng Tân Cương thuộc Trung Á, có một nước nằm giữa biên giớ́ Trung và Ấn Độ, gọi là Nhục Chi. Tuy là một tiểu quốc, nằm giữa hai đại cường quốc, nhưng Nhục Chi là một nước có một nền văn hóa tiến bộ và một nền kinh tế phồn thịnh. Kinh đô Nhục Chi nằm trên sườn núi lớn, cảnh trí rất đẹp, kiến trúc tân kỳ. Hoàng cung và đền đài nằm trên một vị trí cao nhất, rồi đến bộ viện, dinh thự của các công hầu khanh tướng, phía dưới chân núi là nhà dân chúng và phố phường buôn bán tấp nập quanh năm. Chính ở đây có một cái chợ lớn nhất. Cứ năm ngày lại có một phiên chợ, dân chúng từ các vùng lân cận đem hàng hóa vật thực thổ sản đến đây đổi lấy những vật dụng cần thiết. Hàng hóa không thiếu một thứ ǵ, từ ngũ cốc heo gà trâu ḅ đến hàng lụa, vải bô, quần áo; từ cày bừa, cuốc xuổng cho đến vàng bạc phấn son; từ trà rượu thuốc men cho đến hương hoa bánh trái ... người nào muốn cần thứ ǵ th́ có thứ ấy. Ngoài ra c̣n có những khu dành riêng cho các cuộc giải trí: ca hát, ăn chơi, cờ bạc, ruợu chè. Chính ở đây là nơi phức tạp nhất, tụ tập đủ hạng người: nào Kinh, nào Thượng; nào giàu sang, nào nghèo đói, nào hảo hán giang hồ, nào lưu manh trộm cướp; nào văn chương nho nhă, nào vũ phu côn đồ ...
Hôm nay cũng như mọi ngày phiên chợ khác, người mua kẻ bán đông đảo tấp nập chen chúc khắp nơi. Nhưng đặc biệt là ở khu giải trí, thiên hạ vây quanh một ông già rao bán một bài học ngàn vàng với giá là một ngàn lượng vàng.
Ông già vào khoảng 70 tuổi, đầu tóc bạc phơ, chít một cái khăn điều, râu trắng như cước, chảy dài xuống quá ngực, da nhăn nhưng mắt trong xanh như con nít. Ông mặc một cái áo dài xanh lam, có thêu chữ thọ lớn và một cái quần điều. Chân Ông mang giày thêu và tay chống một chiếc gậy có chạm một đầu rồng. Trên đầu rồng có treo lủng lẳng một cái đăy bằng gấm màu tía, bề dài độ một gang tay có thêu một con phượng ngậm hạt châu.
Ông lăo đưa chiếc gậy lên cao cho mọi người thấy, vừa đi qua đi lại, vừa rao với giọng rất trong trẻo:
- Ai muốn giàu, ai muốn sang, ai muốn mua may bán đắt, hăy mua bài học vô giá này! Ai muốn văn hay chữ tốt, ai muốn đỗ đạt làm quan, ai muốn trở thành công hầu khanh tướng, hăy mua bài học vô giá này! Ai muốn chồng ḥa vợ thuận, ai muốn gia đ́nh êm ấm, ai muốn xóm làng kính yêu, hăy mua bài học vô giá này! Ai muốn tu nhơn tích đức, ai muốn hưởng phước về sau, hăy mua bài học vô giá này! Hăy mua mau đi! Mua mau đi kẻo tiếc về sau!
Một bà ṭ ṃ chen vào hỏi thử:
- Cụ bảo bài học vô giá th́ c̣n biết bao nhiêu mà mua?
Ông lăo trả lời:
- Bà thử trả xem, được giá th́ tôi bán.
- Năm tiền nhé!
Ông lăo cười ph́:
- Năm tiền th́ bà để mua kẹo, mua bánh cho con cháu bà ăn!
Bà lăo vẫn cố nài:
- Th́ Ông muốn bao nhiêu?
- Đắt lắm, chắc bà không mua nổi đâu.
Ông lăo vừa nói vừa quay đi chỗ khác, nhưng vẫn nghe được bà già rủa ḿnh ở sau lưng:
- Ông lăo khinh người quá xá! Bà mà không mua nổi, th́ có quỷ sứ mới mua cho ông!
Một chàng thanh niên, ăn mặc xốc xếch, sặc mùi rưọu, chếnh choáng rẽ đám đông tiến vào ṿng trong. Anh ta gọi giật ngược Ông lăo:
- Ê, Ông già! Ông bán ǵ đó?
- Bài học vô giá, muốn làm ǵ th́ được nấy!
- Chà, bài học hay quá ta! Sao Ông không dùng cho Ông đi?
- Lăo đă dùng cho lăo rồi, và dùng rất có hiệu quả.
Anh chàng say rượu cười sặc sụa trước khi nói:
- Ông đă dùng cho Ông rồi à? Sao Ông vẫn nghèo?
- V́ lăo không muốn giàu!
- Sao Ông không thi đỗ làm quan?
- V́ lăo không muốn thi đỗ làm quan!
- Sao Ông không có gia đ́nh con cái ḥa thuận để Ông nhờ?
- V́ lăo không muốn lập gia đ́nh!
Anh chàng say rượu cáu tiết, chồm tới hỏi:
- Cái ǵ Ông cũng không muốn! Ông không muốn cái ǵ cả thật sao?
- Lăo chỉ muốn một chuyện.
- Muốn ǵ?
Ông già nh́n quanh, chậm răi trả lời:
- Lăo muốn bán bài học vô giá này cho người đời dùng. Lăo sanh ra đời chỉ để làm công việc này thôi.
Anh chàng thanh niên bực tức trả lời:
- Thế th́ Ông già điên rồi! Ai mà thèm mua bài học của Ông làm ǵ. Người ta mua lúa, mua gạo, mua ruộng, mua vườn, mua nhà, mua cửa, chứ ai mua bài học vô giá của Ông làm ǵ? Không bài học của Ông th́ thiên hạ cũng ăn uống no say, vui chơi phè phỡn, tạo nhà tạo cửa, giàu sang sung sướng cả đó ḱa, Ông già thấy không?
Ông già vừa xoay qua phía khác vừa trả lời:
- Nhưng nếu có bài học của lăo th́ thiên hạ càng giàu sang hạnh phúc hơn! Mua đi, mua đi kẻo tiếc!
Bỗng có tiếng oang oang từ ngoài vọng vào:
- Có ta đây! Để đó ta mua cho!
Một anh chàng lực sĩ, vai u thịt bắp, xô đẩy đám đông tiến vào. Anh ta mặc một cái áo cụt đen, không gài nút, để hở ngực hở bụng, một cái quần đen, hai ống bó túm ở phía dưới. Ngay hông có mang một đoản đao, giắt vào thắt lưng màu đỏ. Anh ta đứng chống nạnh hai tay vào hai bên hông, hất hàm hỏi Ông lăo:
- Biết ta là ai không?
- Biết làm ǵ?
Anh chàng lực sĩ cười gằn:
- Nhu vậy th́ lăo ngu thật! Lăo vào buôn bán ở chợ này mà không cần biết đến ta, vậy th́ đời lăo tàn rồi. Chợ này là giang sơn của ta. Ta muốn cho ai buôn bán ở đây th́ cho, bằng không th́ phải lo mà chuồn đi; nếu lôi thôi th́ ta sẽ đánh bỏ mạng.
Ông lăo vẫn điềm nhiên hỏi:
- Anh là Quản thị hả? Hay là chàng thâu thuế?
Chàng lực sĩ cười mũi:
- Các thứ đó mà kể làm ǵ? Ta ... Ta là ... đệ nhất anh chị ở cái chợ phiên này.
Ông lăo ph́ cười, tỏ vẻ khinh bỉ:
- Tưởng là ǵ! Ông Thiền Thừ mười tám mắt lăo c̣n chưa sợ, nữa là ... đệ nhất anh chị ở đây!
Anh chàng lực sĩ mặt đỏ hầm hầm, nạt:
- Lăo già đừng hổn mà ăn năn không kịp!
Nói vừa dứt lời, anh ta nhảy song phi đá vào mặt Ông lăo. Nhưng Ông lăo đưa gậy ra đỡ nghe một tiếng "rắc", và anh chàng lực sĩ té nhào vào đám đông. Đám khán giả reo ḥ tán thưởng, v́ không ngờ Ông lăo vơ nghệ lại cao cường đến đỗi hạ một cách dễ dàng anh chàng lực sĩ quán quân ở cái chợ Kinh đô này như vậy! Chàng lực sĩ bị hạ bất ngờ, vừa xấu hổ vừa đau đớn, hùm hổ đứng đậy rút đoản đao ỏ lưng quần ra, sấn tới phía ông lăo, hăm dọa:
- Thằng già này to gan thật, dám chọc giận ta nhé! Ta cho một đao mà đi đầu thai kiếp khác đây!
Chàng ta lia một nhát dao như một làn chớp ngang đầu Ông lăo. Ông lăo lách đầu né kịp và thuận đà tống một đạp vào bụng anh chàng lực sĩ nghe một tiếng "ực". Anh chàng té ngửa, chổng hai chân lên trời. Ông lăo lẹ làng nhảy tới, chống chiếc gây lên bụng anh ta. Tiếng reo ḥ tán thưởng reo dậy chung quanh. Nhiều thanh niên, ông lăo, bà lăo, con nít định xông vào đấm đá anh chàng lực sĩ kia để trả thù sự áp bức từ lâu của anh ta trong chợ này. Nhưng Ông lăo bảo mọi người dang cả ra và cúi xuống nói với anh chàng lực sĩ đang nằm thẳng cẳng dưới chiếc gậy của Ông lăo:
- Con ạ! Đừng thấy lăo già mà quen thói hiếp đáp nữa nhé! Trước khi đem "Bài học ngàn vàng" đi bán, lăo cũng đă tập dượt vơ bị để pḥng thân chứ! Lăo đâu có khờ khạo dẫn xác đến đây để cho con hiếp đáp. Thôi xin lỗi đi, lăo tha cho.
Anh chàng lực sĩ miệng không ngớt chửi bới Ông lăo, và cố vùng vẫy để đứng dậy được. Ông già bảo:
- Lăo đếm ba tiếng mà không chịu xin lỗi th́ lăo ấn cái gậy này xuống, người con sẽ dẹp lép như con thằn lẳn bị kẹt trong cánh cửa con ạ! Này, Một ...
Anh chàng lực sĩ cảm nghe trên bụng ḿnh như có một quả tạ trăm cân đè xuống, đè xuống ...
Ông lăo đếm tiếp: - Hai.
Chàng lực sĩ lại cảm thấy nặng thêm như cả một phiến đá to tướng, nặng ngàn cân đè lên người ḿnh. Chàng kinh hoàng kêu lên:
- Lạy ngài, tha cho con! Con xin chịu lỗi với ngài, từ nay con không dám hổn nữa.
Ông lăo nâng chiếc gậy lên. Chàng lực sĩ bỗng nghe cả thân ḿnh nhẹ nhơm, lâng lâng. Anh ta đứng dậy lạy tạ Ông lăo hai lạy, rồi xấu hổ chuồn mất.
Bỗng từ xa có tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng kèn, tiếng quyển d́u dặt khoan thai vọng lại. Mọi người ngước nh́n rồi bảo nhau: "Hoàng thượng đi săn trở về! Lui ra, lui ra cho đoàn ngự giá đi qua".
Mọi người kính cẩn đứng nép ra hai bên. Đoàn ngự giá từ từ tiến đến. Đi đầu là một vị Tướng oai phong lẫm liệt, ngồi trên ḿnh ngựa bạch, tay cầm một cái bảng vàng có 4 chữ: "Đột Quyết đại vương". Theo sau vị tướng có hai hàng vệ sĩ mang giáo mác, cung tên. Tiếp theo là một đoàn nữ nhạc sĩ ca nhi, vừa đi vừa múa hát, ḥa nhạc, rất vui tai đẹp mắt. Rồi đến xa giá của vua, chạm trổ long phụng, bốn phía rèm buông trướng rũ. Sau xa giá là một đoàn lực sĩ, cứ hai người khiêng một con thú rừng vừa săn được ... Dân chúng vừa kính cẩn, vừa sợ sệt, ngây ngất đứng nh́n ở hai bên đường. Nhưng Ông lăo vẫn thản nhiên đứng nguyên chỗ cũ, vừa đưa cao chiếc gậy có treo chiếc đăy gấm, vừa rao:
- Bài học ngàn vàng! Bài học ngàn vàng! Mua mau kẻo hết!
Đoàn vệ sĩ ra hiệu bảo Ông lăo tránh ra bên đường để đoàn ngựa giá vua đi qua. Nhưng Ông lăo có vẻ không lưu ư, càng rao to:
- Bài học ngàn vàng! Bài học ngàn vàng! Dịp may hiếm có, dịp may hiếm có!
Vị tướng đi đầu đưa cao tấm bảng, ra hiệu lịnh cho đoàn vệ sĩ vây bắt Ông lăo, dẫn tới trước ngựa ḿnh. Vị tướng dơng dạc hỏi:
- Lăo là người ở đâu? Có biết luật lệ quốc gia không?
- Lăo sống vô gia cư, chết vô địa táng. Lăo đi đây đó để bán bài học vô giá mà chưa gặp kẻ thức giả biết giá trị của nó, nên chưa toại nguyện. Lăo mỗi ngày mỗi già, đâm ra sốt ruột, sợ ḿnh chết đi mà bài học vẫn chưa bán được. Hôm nay xa giá đi qua, lăo nghĩ rằng đây là một dịp quư, may ra có người mua được, nên lăo quên cả lễ nghi, xin thượng quan miễn chấp.
Vị tưóng ṭ ṃ hỏi:
- Đâu, bài học ǵ đưa xem!
Ông lăo đưa cao chiếc gậy trước đầu ngựa, chỉ vào chiếc đăy:
- Nó nằm ở trong chiếc đăy gấm này!
Vị tướng với tay định lấy chiếc đăy, nhưng Ông lăo lanh lẹ rút chiếc gậy về, cười nói:
- Đâu có được dễ dàng như vậy! Ngài muốn mua th́ phải trả giá cả xong xuôi đă chứ!
- Bao nhiêu?
- Thưa, một ngàn lượng vàng!
Vị tướng bỗng phát lên cười:
- Lăo có điên không? Suốt đời ta làm tướng, đánh Đông dẹp Bắc, thí mạng sống để pḥ vua giúp nước, mà chưa bao giờ có được một trăm lượng vàng. Nay lăo bán chiếc đăy to bằng bàn tay, không biết đựng ǵ ở trong mà đ̣i đến một ngàn lượng vàng, th́ thật là điên khùng. Thôi lăo hăy xê ra cho đoàn ngự giá đi. Ta không đùa nữa đâu!
Vua Đột Quytế đang ngồi trong long xa không hiểu v́ sao đoàn ngự giá dừng lại hơi lâu, vén rèm nh́n hỏi quan cận vệ:
- Có chuyện ǵ mà phải dừng lâu vậy?
- Tâu Hoàng Thượng, có một Ông lăo đang rao bán một bài học mà Ông bảo là quư giá lắm.
Vua mỉm cười, truyền lịnh gọi Ông lăo đến trước long xa của ḿnh. Vua tự bảo đây là một cơ hội để ḿnh giải trí. Cuộc đời bằng phẳng, ngày nào cũng yến ẩm tiệc tùng, ca hát, săn bắn, xử kiện đă làm cho Ngài chán ngấy lắm rồi. Cuộc đời đối với Ngài không c̣n có ǵ là mới lạ để mà nh́n ngắm, không c̣n có ǵ là cao siêu, kỳ bí để mà t́m ṭi, học hỏi nữa cả. Thế mà nay lại có một Ông lăo bảo rằng ḿnh có một bài học quư giá đem đi rao bán cả cho vua nữa. Ngài có một cảm giác thích thú như khi đi săn gặp một con mồi hung hăng, quyết liệt đương đầu với ḿnh.
Ông lăo đến trước long xa, rạp ḿnh vái lạy vua, rồi cúi đầu đợi lịnh. Vua Đột Quyết lặng lẽ ngắm nh́n Ông lăo, cảm thấy có một vẻ ǵ tiên phong đạo cốt tỏa ra từ người Ông lăo. Hồi lâu vua cất tiếng hỏi:
- Trẫm nghe nói Ông lăo có bài học ǵ hay lắm phải không?
- Tâu Hoàng Thượng, bảo rằng hay th́ chưa đúng lắm; phải nói đây là bài học quư báu nhất đời.
Vua mỉm cười, có vẻ mỉa mai:
- Ông lăo có chủ quan không? Nhưng trẩm cũng miễn chấp cho lăo, v́ thường t́nh ai bán món hàng ǵ cũng cho rằng món hàng của ḿnh là nhất.
- Tâu Hoàng Thượng! Suốt đời lăo chưa hề biết nói ngoa. Lăo chỉ tiếc là không có một ngôn ngữ nào có thể diễn tả cho đúng cái giá trị cao cả của bài học này, nên tạm dùng danh từ là bài học vô giá.
Vua cười dễ dăi:
- Thôi th́ ta cũng chấp nhận là vô giá đi! Nhưng đă là vô giá th́ ta biết trả cho lăo bao nhiêu?
- Tâu Hoàng Thượng, lăo chỉ lấy giá tượng trưng là một ngàn lượng vàng thôi.
Có nhiều tiếng cười bật lên trong đám cận thần, tướng tá vây quanh Ông lăo. Vua cố làm vẻ nghiêm trang, nhưng cũng không thể nhịn cười. Vạt áo cẩm bào trước bụng ngài rung chuyển một hồi, trước khi ngài cất tiếng phán bảo:
- Giá tượng trưng mà đến 1000 lượng vàng, c̣n nếu thật giá th́ chắc trẫm phải bán cả giang sơn của trẫm cũng chưa đủ để trả cho lăo.
Ông lăo trả lời nhà vua một cách tỉnh khô:
- Tâu Hoàng Thượng! Thật quả đúng như vậy. Và lăo tưởng như thế vẫn không phải là đắt; v́ vói bài học này, Hoàng Thượng có thể gây dựng thêm mười giang sơn như thế này cũng được.
Bây giờ không c̣n ai cười nữa. Câu nói của Ông lăo làm cho mọi người, từ vua đến quan chú ư, v́ họ cảm thấy có một vẻ ǵ nghiêm trang chân thật trong lời nói của Ông lăo.
Vua bỗng xoay câu chuyện qua một hướng khác:
- Lăo có gia đ́nh, vợ con ǵ không?
- Tâu Hoàng Thượng, lăo tứ cố vô thân từ ngày sanh ra đời cho đến giờ.
Vẻ mặt vua trở nên rạng rỡ. Ngài nói mau:
- Vậy th́ lăo lấy 1000 lượng vàng dùng vào việc ǵ, để lại cho ai, nhất là những ngày cuối cùng của lăo cũng không c̣n bao nhiêu nữa? Trẫm sợ lăo lấy vàng mà không giữ được, lại c̣n mang họa vào thân nữa.
Ông lăo cười một cách lém lỉnh:
- Lăo xin đội ơn Hoàng Thượng đă lo nghĩ giùm cho lăo. Nhưng lăo đă có cách sử dụng số vàng bán được, xin Hoàng Thượng đừng lo.
Vua lại hỏi sang một vấn đề khác:
- Lăo đối với trẫm như thế nào? Có đặc biệt hơn đối với những người khác không?
- Tâu, lăo đặt Hoàng Thượng lên ngôi cao quư nhất, và bởi thế cho nên hôm nay lăo mới đến chợ này, đợi Hoàng Thượng đi săn về để bán bài học, v́ lăo nghĩ, ngoài Hoàng Thượng ra chắc không ai mua nổi; vả lại không ai sử dụng bài học này một cách lợi ích lớn lao bằng Hoàng Thượng, nếu thật t́nh Hoàng Thượng muốn dùng đến nó.
- Lăo đă biết nghĩ như vậy, sao lăo c̣n muốn đ̣i cho được 1000 lượng vàng của trẫm?
- Tâu Hoàng Thượng, lăo có thể dâng không, hay lấy vài lượng vàng của Hoàng Thượng cũng được, bởi thật t́nh lăo cũng không cần đến số vàng nhiều như vậy, nhưng lăo nghĩ rằng: những vật đem tặng hay bán rẻ thường bị xem thường xem khinh. Tục ngữ có câu "của rẻ, của hôi" Cho nên lăo nhất quyết phải bán đúng giá 1000 lượng vàng, th́ Hoàng Thượng mới quư bài học của lăo.
Vua công nhận lời Ông lăo nói là chí lư, nhưng vẫn tiếc số vàng phải bỏ ra. Vả lại Ngài cũng sợ đ́nh thần cho ḿnh quá giàu, và tiêu pha một cách quá xa xí. Ngài nói:
- Trẫm bằng ḷng trả bài học 1000 lượng vàng, nhưng bây giờ trẫm trả trước 500 lượng, c̣n 500 lượng nếu trẫm thấy bài học hay và đem áp dụng có hiệu quả, th́ trẫm sẽ trả nốt.
Ông lăo có vẻ bực ḿnh nói:
- Như vậy là Hoàng Thượng không dốc ḷng mua. Thôi xin cho lăo đi nơi khác để bán kẻo trưa lắm rồi.
Ông lăo vái chào rồi rẽ đám quan quân, chống gậy rảo bước đi. Tánh háo kỳ của vua Đột Quyết bị kích thích tột độ, nhất là trước cái hành tung và cốt cách lạ lùng của Ông lăo. Vua truyền gọi Ông lăo trở lại. Ngài nói có vẻ quở trách:
- Người thật ngạo mạn. Người đối với trẫm không có chút kính trọng nào cả. Giá cả chưa xong sao người lại bỏ đi như thế?
- Tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng thứ cho lăo. Nhưng lăo thiết nghĩ, nếu ở địa vị của Hoàng Thượng, Hoàng Thượng xem 1000 vàng là trọng hơn bài học của lăo, th́ ở địa vị của lăo, lăo cũng thấy tiếc bài học của lăo.
Vua nói ḥa giải:
- Thôi th́ ta bằng ḷng trả cho Ông lăo 1000 lượng vàng đó. Hăy đưa bài học ta xem.
Ông lăo mỉm cười, như để xin lỗi:
- Tâu Hoàng Thượng lượng thứ cho! Tục ngữ có câu: "Tiền trao cháo múc". Lăo sẽ dâng bài học cho Hoàng Thượng, sau khi nhận đủ 1000 lượng vàng.
- Ông lăo thật khó chịu! Người không tin trẫm sao?
- Trước khi trả lời, xin Hoàng Thượng cho lăo hỏi lại: Hoàng Thượng có tin lăo không?
Vua do dự trước khi trả lời:
- Thật t́nh ta hơi nghi ngờ về giá trị của bài học mà người ca tụng.
- Hoàng Thượng không tin được lăo, th́ lăo xin lỗi, làm sao lăo tin được Hoàng Thượng? Thường thường dân tin lời nói của vua, nhưng vua lại không làm theo lời nói của ḿnh, nên việc quốc gia thường đỗ vỡ. Lăo nghĩ rằng: giữa vua và dân phải có sự công bằng, hoặc hai bên đều tin cậy nhau. Nếu bên này không tin bên kia, th́ đừng bắt bên kia phải tin lại. Và nếu hai bên không tin nhau th́ tốt hơn hết là làm theo khẩu hiệu "Tiền trao cháo múc".
Vua gượng cười, phán bảo:
- Thôi th́ ta cũng làm theo ư của người.
Ngài xoay qua phía quan giữ kho bảo phải đem đến gấp 1000 lượng vàng. Quan giữ kho phi ngựa về cung, rồi chẳng mấy chốc trở lại với một tiểu đội binh mă gồm mười người, mỗi người mang một cái đăy đựng 100 lượng vàng y. Vua truyền đếm vàng giao cả cho Ông lăo.
Ông ta trút hết tất cả 10 bao vàng vào một cái bao lớn. Mọi người ṭ ṃ chờ xem Ông lăo làm thế nào để mang số vàng về nhà. Vua nghĩ thầm thế nào Ông lăo cũng khó toàn tánh mạng với số vàng lớn lao kia. Ngài tỏ vẻ thương hại, hỏi Ông:
- Người có cần ta cho mượn mười lính thị vệ mang vàng về nhà cho người không?
- Xin đội ơn Hoàng Thượng, lăo chẳng cần ai giúp đỡ! Lăo đă có học được đôi chút vơ nghệ từ hồi c̣n nhỏ, nên có thể mang nặng hàng trăm cân. Bây giờ xin kính dâng bài học lên Hoàng Thượng ngự lăm. Lăo chỉ xin thưa một lời cuối cùng trước khi ra về và xin Hoàng Thượng nhớ cho là: "Bài học nào cũng vậy, có áp dụng mới biết hay hoặc dở".
Ông lăo nói xong, lấy cái đăy ở đầu chiếc gậy dâng lên vua Đột Quyết, rồi cúi xuống quảy bao vàng lên vai, chống gậy đi thoăn thoắt. Toàn thể đoàn xa giá vô cùng ngạc nhiên về sức mạnh phi thường của Ông lăo. Họ bảo nhau có lẽ Ông già này là một dị nhân, có người cho ông ta có tà thuật. Vua nắm cái đăy trong tay nhưng măi nh́n theo hành tung của Ông lăo, nên chưa kịp lấy bài học ra xem. Bấy giờ sực nhớ lại, ngài mới vội vă ngắm nghía, quan sát cái đăy gấm. Tất cả quan quân đều quay lại hướng nh́n nhà vua, hồi hộp chờ đợi cái phút vua mở bài học trong đăy gấm ra xem. Nhà vua cũng đâm lo lắng, và hồi hộp hơn tất cả mọi người. Ba lần ngài định mở sợi dây thắt miệng đăy, rồi lại dừng tay. Cuối cùng ngài giở tráp vàng để bên cạnh ḿnh, bỏ cái đăy gấm vào, đậy lại cẩn thận và phán bảo:
- "Một bài học ngàn vàng" không thể mở ra đọc ở dọc đường dọc xá được.
Và ngài truyền lịnh cho đoàn ngự giá tiếp tục lên đường về cung. Mọi người đều tiu nghỉu thất vọng v́ không được chứng kiến đoạn kết thúc của một câu chuyện mở đầu rất hào hứng, tân kỳ. Thực ra th́ vua cũng rất sốt ruột muốn xem ngay bài học nói ǵ, nhưng càng b́nh tâm nghĩ lại, ngài cũng sợ mắc lừa Ông lăo. Ngài không muốn giở ra xem trước mặt đ́nh thần, v́ nếu bị lừa th́ thật là xấu hổ, c̣n ǵ là thể thống của một đấng quân vương ngồi trên thiên hạ? Cho nên ngài định về cung, đợi đến đêm khuya mở ra xem một ḿnh, nếu có bị lừa cũng không ai hay biết. Trên đường về cung, ngài cứ băn khoăn, tự trách ḿnh sao quá dễ dăi, mua một bài học đắt giá như vậy mà quên hỏi tung tích Ông già, quên cho người đi theo ḍ la hành động của Ông, và nhất là không truyền lịnh đem Ông già về cung để đợi xem xong bài học ra thế nào, rồi sẽ thả ra sau.
Vua tự bảo lần sau ḿnh phải thận trọng hơn nữa mới được. Và ngài tự an ủi:
- Dù sao th́ lăo già ấy cũng không thể thoát khỏi tay ta. Nếu lăo dám lừa phỉnh cả ta, th́ lăo sẽ mất đầu.
---------------------------------------------------
CHƯƠNG II PHẢN ỨNG CỦA VUA KHI MỞ BÀI HỌC RA XEM
Hôm nay trong cung điện vua Đột Quyết không có yếm ẩm, ca nhạc như các đêm khác. Sau mấy ngày đi săn bắn mệt nhọc, vua truyền lệnh cho các quan thị vệ, cận thần và cung nữ được nghĩ ngơi cho lại sức. Riêng ngài cũng cần được yên tĩnh để xem "Bài học ngàn vàng" vừa mua được. Thâm ư của ngài là không muốn cho ai khác được xem bài học, lư do thứ nhất là một vật qúy báu như vậy không nên để cho một ai hay biết; lư do thứ hai, là nếu bị lừa phỉnh, th́ lại càng không nên để tiết lộ ra ngoài.
Cho nên hôm nay, ngài đi nghỉ sớm. Đến 3 giờ sáng, ngài lặng lẽ thức dậy, đóng kín các cửa pḥng, mở tráp vàng lấy cái đăy đựng bài học ra. Ngài mở dây gút trên miệng đăy, hồi hộp rút bài học đựng trong một cái phong b́ dán kín. Ngài rất cẩn thận xé phong b́, rút ra một tờ giấy màu vàng tươi. Trên trang giấy chỉ vỏn vẹn có một câu, viết với một nét chữ rất đẹp như rồng bay phượng múa: "Phàm làm việc ǵ, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó".
Vua bật ngửa người, ném mạnh trang giấy xuống bàn. Sự tức giận của ngài lên cực độ, làm cho người nghẹt thở. Nếu không sợ quan thái giám và cung phi mỹ nữ biết được, th́ ngài đă đập đổ tất cả b́nh vàng chén ngọc để trước mặt ngài trên chiếc án chân quỳ nạm ngọc. Ngài càng nghĩ càng căm giận lăo già. Không ngờ hắn lại đám phỉnh gạt cả vua. Bài học như vậy mà nó dám bảo là vô giá, đ̣i cho được 1000 lượng vàng, mà lại c̣n làm ra vẻ không cần. Nó thật quá ngạo mạn, dám cho đó là một bài học, trong khi chỉ là một câu nói tầm thường, chỉ để khuyên bọn trẻ con. Ta là một ông vua, trị v́ thiên hạ, quyền uy cái thế, đâu có cần một bài học như vậy. Ta muốn làm ǵ th́ ta làm, ta ban sự sống, ta truyền lệnh chết. Ta là thiên tử, ta muốn là trời muốn. Ta hô một tiếng là có thể dời sông, lấp biển. Ta đâu cần nghĩ đến hậu quả làm ǵ? Ta muốn hậu quả như thế nào, th́ hậu quả phải như thế ấy!
Nhà vua định xé tờ giấy của Ông già viết ra làm muôn mảnh và vứt vào ống phóng cho mất tang tích. Nhưng ngài dừng tay lại v́ chợt nghĩ rằng: nên để nó lại chờ ngày bắt được lăo già sẽ trả lại cho lăo, đ̣i 1000 lượng vàng lại trước khi hành quyết. Cần có đủ bằng cớ, tang tích để lăo già mồm mép kia không thể chối căi được. Vua dằn sự tức giận, xếp tờ giấy bỏ vào chiếc đăy gấm và buộc giây lại như cũ. Ngài bỏ vào tráp vàng để ở trên án thư. Nhưng một lát sau, nghĩ thế nào không biết, ngài lấy chiếc tráp, đem bỏ vào tủ bằng cẩm thạch dùng để đựng các thứ thất bảo quư nhất và khóa lại cẩn thận. Không phải ngài liệt cái bài học của Ông già vào hàng quốc bảo, nhưng chỉ v́ ngài sợ để ra ngoài, có người xem trộm được, sẽ chê ngài khờ dại, đă để cho một ông già phỉnh gạt, và tin ấy sẽ đồn đăi ra, sẽ làm ngài mất uy tín, khó trị v́ thiên hạ.
Công việc đầu tiên ngài phải làm là truyền lệnh t́m bắt cho được Ông già. Nhưng đây là một việc mật, cần phải giao phó cho người thân tín thi hành. Vua định kế hoạch xong xuôi đâu đó, th́ trống canh trên hoàng thành đă thúc tan canh. Ngài đánh một giấc cho đến chiều tối. Không ai dám thức ngài dậy, v́ ai cũng nghĩ rằng bài học chắc phải cao siêu lắm nên làm cho ngài mỏi mệt, không thể dậy sớm được.
Sau khi thức dậy, Ngài truyền lệnh cho quan thái giám mở tiệc khoảng đăi đ́nh thần vào tối hôm ấy, lấy lư do là để mừng Hoàng Thượng vừa có hồng phúc mua được bài học quư giá.
V́ đă quen tổ chức tiệc tùng yến ẩm, cho nên trong vài giờ sau, quan Thái Giám đă bày biện xong một đại tiệc trên năm trăm thượng khác tại ngự uyển. Văn vơ bá quan trong triều không ai thiếu mặt, v́ được vua ban đại yến là một vinh dự không thể bỏ qua; hơn nữa mọi người đều nóng ḷng muốn biết bài học vô giá mà vua vừa mua được, nó quư giá cao siêu như thế nào.
Diện mạo của vua hôm nay không khác mọi ngày. Ngài vẫn vui vẻ nói cười, nhưng nếu ai để ư nh́n kỹ th́ thấy ngài uống rượu nhiều hơn mọi hôm trước. Cuối bữa yến, ngài tuyên bố rất hài ḷng về bài học của Ông già, và có thể xem như là một quốc bảo. Có quan Đại thần đánh bạo đứng dậy tâu vua có thể nói cho biết nội dung và tánh cách bài học như thế nào không. Vua cười gượng gạo bảo rằng bài học có tánh cách cơ mật, không thể nói ra cho tất cả triều thần biết được. Tuy thế, ngài hứa sẽ tùy theo địa vị của các đ́nh thần và tùy theo hoàn cảnh mà tiết lộ cho một số các thượng quan biết.
Câu chuyện bài học không c̣n ai buồn nhắc nhở nữa, khi đoàn vũ nữ đẹp tuyệt trần với những xiêm y rực rỡ kéo nhau ra sân khấu. Nhưng chính trong lúc mọi người đang say mê xem múa nhảy th́ vua cho gọi quan Đề Đốc vào hậu cung để ngài dạy bảo.
Quan Đề Đốc Thanh Phong là một vị vơ tướng thân tín của ngài, thường thường những việc mật vua đều giao phó cho vị quan này thi hành. Vua tỏ thật ra cho vị Đề Đốc biết chuyện ḿnh bị gạt và truyền cho vị này phải t́m bắt cho được Ông già đă bán bài học. Quan Đề Đốc xin hứa trong một tuần sẽ đem nạp Ông già trước bệ rồng. Là một con người nhiều mưu chước, quan Đề Đốc đề nghị với nhà vua là tuyên bố cho mọi người biết rằng bài học rất quư báu, nên vua muốn trọng thưởng thêm vàng bạc cho Ông già, nhưng không biết Ông ở đâu. Vậy nếu ai t́m được chỗ ở của Ông già và báo tin cho ông biết cũng sẽ được trọng thưởng.
Và sau khi cuộc yến ẩm, ca vũ, chấm dứt, mọi người ai ai cũng hy vọng đi t́m kiếm Ông già để lănh thưởng.
Từ hôm ấy, ngày nào vua Đột Quyết cũng trông ngóng tin tức về Ông già; nhưng biệt vô âm tín. Gần đến kỳ hạn một tuần vua càng sốt ruột. Vua sợ để lâu, Ông già sẽ trốn ra khỏi nước, sang nước Quư Lâm, là một lân bang thù nghịch và phao tin đồn vua bị gạt, th́ thật là làm tṛ cười cho thiên hạ.
Nhưng nếu vua sốt ruột một phần, th́ quan Đề Đốc Thanh Phong lại sốt ruột mười phần. Quan sẽ mất uy tín biết bao đối với sự tin cậy của vua, khi không t́m ra được Ông già. Một ông già lọm khọm, tứ cố vô thân, mang theo một bao vàng nặng trĩu như vậy, mà có thể trốn thoát ra khỏi nước một cách dễ dàng, th́ làm sao nói chuyện giữ an ninh trật tự cho trăm họ và giữ yên bờ cơi chống xâm lăng? Quan huy động tất cả lính tráng dưới quyền ḿnh đi lục soát từng nhà một trong đêm khuya, và ban ngày chận đón tất cả các ông già để khám xét. Ngoài ra quan c̣n sai bọn mât thám rất đông đảo dưới tay ḿnh giả làm người đi mua heo, đi bán chiếu, người lỡ đường đi ăn xin, ngủ trọ để ḍ xét. Tất cả quán xá ở các ngă tư, ngă bài học đường cái đều có người của quan Đề Đốc ḍm ngó. Nhưng Ông già vẫn biệt vô âm tín!
Kỳ hạn một tuần đă hết, quan Đề Đốc với vẻ người tiều tụy, trông già đi đến 10 tuổi, v́ sự lo nghĩ và mất ăn bỏ ngủ, khúm núm vào quỳ trước long sàng để chịu tội về sự bất lực của ḿnh.
Bao nhiêu sự giận dữ của vua đối với Ông già đều trút lên đầu lên cổ quan Đề Đốc. Người ta có cảm tưởng lưng quan Đề Đốc mỗi lúc mỗi c̣ng thêm xuống v́ những danh từ nặng nề mà quan phải gánh chịu thay cho Ông già. Ông già khi vác bao vàng 1000 lượng đâu có vẻ nhạc nhằn như vậy.
Nhưng có một lúc, như con ngựa chở quá nặng, bất kham đâm liều, đă trút đổ tất cả đồ vật mang trên lưng, quan Đề Đốc dứng thẳng dậy, nói thẳng ư ḿnh:
- Tâu Hoàng Thượng, thần không xứng đáng nhận lănh tất cả các lời quở trách nặng nề của Hoàng Thượng. Từ trước đến nay Hoàng Thượng đă tin dùng thần, th́ chắc Hoàng Thượng cũng đă xét đến ḷng tận trung của thần như thế nào rồi. Nhưng trong vụ Ông già này, thần xin thú thật, thần chịu bất lực. Ông già đă phỉnh gạt cả Hoàng Thượng th́ chắc cũng không phải tay vừa ...
Vua nghe câu nói cuối cùng của quan Đề Đốc giận đến xám mặt. Ngài hất đổ tất cả đồ đạc để trên án thư, vùng đứng đậy, nạt:
- Ngươi nói ǵ? Trẫm bị phỉnh gạt hả? Ngươi đă nhục mạ trẫm. Tội khi quân của ngươi đáng chém đầu!
Nói xong, vua truyền quan Thái Giám đem bỏ quan Đề Đốc vào ngục thất để chờ ngày ra pháp trường v́ tội khi quân.
Thật ra câu nói của quan Đề Đốc không đến nỗi phải bị kết vào trọng tội như vậy. Nhưng nhà vua muốn trừ quan Đề Đốc để dập tắt luôn vụ ḿnh bị lừa phỉnh, không cho nó lan ra ngoài; v́ ngoài quan Đề Đốc, ra chưa có một ai rơ biết về sự thật của bài học ngàn vàng kia.
Khuya hôm ấy, quan Đề Đốc bị xử uống thuộc độc chết ở trong ngục thất.
Ba ngày sau, tin đồn ra cho biết rằng quan Đề Đốc đă bị xử tử v́ tội âm mưu giết vua để chiếm ngôi.
----------------------------------------------------------
CHƯƠNG III SỰ TRẢ THÙ CỦA THẠNH BẢO, CON QUAN ĐỀ ĐỐC
Tin đồn quan Đề Đốc bị xử tử mấy hôm sau lan đến biên thùy giữa hai nước Nhục Chi và Quư Lâm. Tướng giữ biên cương là Thạnh Bảo, con trai đầu của quan Đề Đốc, một viên tướng trẻ tuổi nhưng tài cao, được vua tin cậy cho ra trấn đóng ở biên thùy với binh hùng tướng mạnh để hầu ngăn cản ngoại xâm tứ nước Quư Lâm tràn sang.
Được tin dữ, Thạnh Bảo đau đớn và kinh hoàng đến ngất xỉu. Người nhà phải kêu gọi hồi lâu chàng mới tỉnh lại. Theo như tin cho biết th́ ông thân Thạnh Bảo bị xử tử v́ tội mưu đoạt ngôi vua, một tội rất nặng có thể bị tru di tam tộc. Chàng nghĩ thật là vô lư! Cha chàng mà lại phản vua, muốn chiếm đoạt ngai vàng! Một vị cận thần, được vua tin cậy từ trước đến nay, mà sao lại dám làm như vậy? Chắc ở bên trong c̣n có nhiều bí ẩn khác nữa. Nhưng điều không ai c̣n nghi ngờ là cha chàng đă chết thật, và đă chết về tội phế vua. Với một tội trạng như vậy, chắc chắn chàng cũng sẽ bị liên lụy, có thể bị mất chức, tù tội hay xử tử cũng nên.
Do đó, chàng phải t́m cách đối phó trước. Sự việc đă đẩy chàng vào chân tường, chàng không thể bó tay chịu chết một cách vô lư như vậy. Một mặt chàng viết mật thư cho người tín cẩn sang nước Qúy Lâm xin viện binh một mặt chàng kiểm điểm binh mă kéo rốc về Kinh đô, để hạch tội vua về việc đă giết cha chàng.
Binh hùng tướng mạnh của Thạnh Bảo rầm rộ kéo về Kinh đô, trước sự ngơ ngác của dân chúng. Phản ứng của Thạnh Bảo rất nhanh khiến vua cũng không ngờ và không kịp đối phó. Ba ngày sau, Kinh đô đă bị vây kín. Vua không c̣n biết làm ǵ hơn là đóng cửa thành, t́m kế hoăn binh để đợi cứu viện. Trong khi nóng giận, vua ra lịnh giết quan Đề Đốc mà quên "xét kỹ đến cái hậu quả" sẽ đến cho ḿnh là sự trả thù của Thạnh Bảo. Ba lần vua sai sứ giả ra cầu ḥa và hứa sẽ đền đáp xứng đáng việc xử tử oan quan Đề Đốc, nhưng Thạnh Bảo không chịu.
Ban đầu, khi mới kéo quân trở về Kinh đô, Thạnh Bảo chỉ v́ nóng ḷng muốn biết v́ sao cha ḿnh bị giết và nhất là để tự vệ, để pḥng sự việc bất trắc có thể xảy đến cho ḿnh. Nhưng giờ đây, sau khi thấy rơ lực lượng của ḿnh quá mạnh, và sự cô thế của vua, cũng như sự bất lực hèn nhát của đ́nh thần, Thạnh Bảo muốn nhân cơ hội này phế bỏ vua và chiếm luôn ngai vàng, điều mà trước kia, không bao giờ chàng dám nghĩ đến.
Trong khi chờ đợi giờ phút đầu hàng của vua quan trong thành. Thạnh Bảo ra một tờ hịch kể tội của vua: nào là thiếu sáng suốt, ăn chơi quá độ, không lo việc nước; nào là nhu nhược để cho bọn nịnh thần thao túng triều đ́nh, nào là phung phí của cải nhà nước, làm cho dân đă nghèo lại càng nghèo thêm. Dân chúng ở kinh thành ban đầu c̣n dè dặt, chưa dám hưởng ứng, nhưng sau thấy lực lượng của Thạnh Bảo quá mạnh, mà đ́nh thần lại không có ai đủ tài sức đương đầu với Thạnh Bảo nên đă theo về rất đông. Nhất là trong hoàng thành mỗi ngày mỗi thiếu thực phẩm, nước không đủ uống, gạo không đủ ăn. Bệnh dịch tả bắt đầu xuất hiện. Và tin đồn quân của nước Quư Lâm đă tràn vào biên thùy.
T́nh h́nh thật là nguy ngập, đen tối. Vua vấn kế đ́nh thần, nhưng đ́nh thần quen ăn chơi và xem múa hát, không ai c̣n đủ minh mẫn và sáng kiến để hiến kế cho vua. Đôi khi vua cũng đâm ra hối hận v́ đă giết quan Đề Đốc. Nếu có quan Đề Đốc, chắc ngài không đến đỗi cô độc, nhục nhă và bất lực như thế này. Nhưng sự việc đă lỡ, hối cũng muộn rồi! Đ́ều quan trọng hiện nay là làm sao t́m được một người tài trí đủ sức đẩy lui bọn giặc Thạnh Bảo. Nếu không t́m ra được th́ chỉ có cách là bỏ thành trốn thoát để bảo toàn tính mạng. Ngài chỉ c̣n trông mong sự cứu trợ của tướng Hoàng Cái, một viên tướng có mưu lược và uy quyền đang trấn đóng ở biên thừy phía nam. Nhưng đă trên mười lăm ngày qua mà không nghe tin tức ǵ của Hoàng Cái cả, vua quá lo sợ. Phen này Thạnh Bảo phá được thành th́ cả Hoàng tộc sẽ bị giết sạch. Dân chúng và binh lính vừa chết v́ đói và vừa chết v́ dịch tả. Triệu chứng rối loạn đă bắt đầu xuất hiện trong hoàng thành. Từng đoàn binh lính đă cởi bỏ quân phục để trốn lánh trong dân chúng. Ban đêm chỗ này kêu cướp, chỗ kia kêu cháy nhà. Thấy t́nh thế mỗi ngày mỗi nguy ngập, một đêm tối trời cua cùng hoàng gia đă theo đường hầm bí mật lén trốn ra khỏi kinh thành, đi về phí Nam là nơi đạo quân của Đại tướng Hoàng Cái đang đóng.
Hai hôm sau, dân chúng trong thành mới hay nhà vua đă trốn thoát. Để tự cứu, họ đă đồng thanh mở cửa thành cho đạo quân của Thạnh Bảo kéo vào. Dân chúng hoan hô chàng và tôn chàng lên làm vua.
Để mua chuộc ḷng dân chúng. Thạnh Bảo truyền mở các kho gạo thóc gạo c̣n lại của nhà vua ra phân phát cho dân; và đối với triều thần cũ, chàng ra mật chỉ dụ cho phép vị nào muốn nghỉ việc th́ cứ tự do trở về quê cũ, c̣n vị nào muốn ở lại phục vụ quốc gia th́ sẽ được thăng cấp. Hầu hết đều lục tục xin ở lại pḥ vua mới.
Nhưng công việc đầu tiên của Thạnh Bảo sau khi được tấn phong là tự ḿnh kiểm điểm lại các kho ngọc vàng châu báu của tiên vương để lại. Chàng cho phá cái tủ bằng cẩm thạch để trong pḥng ngủ của vua vua Đột Quyết. Chàng thất vọng không thấy một báu vật nào ở trong hết, ngoài trừ cái đăy có đựng bài học của Ông già. Chàng ṭ ṃ mở ra xem và khinh bỉ xé trang giấy ra nhiều mảnh nhỏ. Chàng lẩm bẩm: "Xét kỹ đến hậu quả trước khi làm việc!" Sao nó lại để câu này vào đây làm ǵ? Nó muốn dạy ta chắc! Nếu thật nó tin vào giá trị của câu này, th́ nó phải dạy nó trước đă chứ. Nó muốn dạy đạo lư nhân quả cho ta, trong khi chính nó lại không áp dụng cái đạo lư ấy. Vả lại, bài học này đâu có đúng, chính ta đây, trong khi cất binh về hỏi tội nó, th́ ta chỉ nghĩ đến tự vệ, chứ ta đâu có nghĩ đến hậu quả là được ngai vàng. Ta nhắm một tiêu này, mà công việc lại đưa ta đến một mục tiêu khác! Vậy th́ làm sao có thể đoán trúng được hậu quả mà phải suy nghĩ về hậu quả cho mệt trí.
Trong lúc say sưa với men chiến thắng và địa vị mới như vậy th́ Thạnh Bảo được tin phi báo từ biên cương là đại quân của nước Quư Lâm đang tiến về Kinh đô. lấy danh nghĩa là giúp Thạnh Bảo diệt bạo chúa vua Đột Quyết.
Tin báo ấy không sai. Đạo quân của nước Quư Lâm. do một lăo tướng có kinh nghiệm là Tùng Sơn đang ngày đêm tiến về Kinh đô. Đi đến đâu Tùng Sơn cũng loan báo cho dân chúng biết rằng: ḿnh được Thạnh Bảo mời sang giúp sức. Bức thơ cầu cứu của Thạnh Bảo gởi vua Quư Lâm được viết phóng đại ra thành nhiều bản, nêu trên những tấm gỗ lớn và dựng lên ở các phố phường, chợ búa mà quân của Tùng Sơn đi qua. Và với chiêu bài ấy, đi đến đâu quân của Tùng Sơn cũng bắt dân chúng phải đón rước, thết đăi, nộp thóc gạo, thực phẩm để nuôi quân. Có nhiều nơi quân giặc ngoại bang bắt cả đàn bà, con gái, vợ con của dân chúng ra phục dịch mua vui cho chúng.
Nhân dân bắt đầu oán ghét Thạnh Bảo đă v́ thù hận riêng tư, rước voi về giày mă tổ, cơng rắng cắn gà nhà. Không c̣n tin cậy ở cả vua cũ lẫn vua mới, họ tự động đứng lên chống quân xâm lăng, để bảo vệ xóm làng mồ mă. Quân của Tùng Sơn đần dần cảm thấy dân chúng địa phương tránh xa ḿnh, không c̣n tiếp rước phục dịch nữa, mà trái lại c̣n tổ chức khuấy phá hậu phương ḿnh.
Tùng Sơn, một con cáo già, mượn cớ để bảo vệ quân lính ḿnh, đi đến đâu đều đóng đồn bót, đặt quan cai trị địa phương, truất bỏ nhóm hương lư cũ, đặt bọn hương lư mới là những tay sai ngoan ngoăn của ḿnh. Thực ra đường từ biên thùy về Kinh đô, đi chậm lắm cũng chỉ khoảng 10 ngày là đến. Nhưng Tùng Sơn đâu có ư định đến Kinh đô gấp. Lăo ta cố chần chờ để đặt cơ sở khắp nơi, và đáng lẽ thẳng đường về Kinh đô th́ hắn lại đi ṿng quang về phía Nam, như cố bọc hậu Kinh thành Nhục Chi.
Những tin tức ấy dồn dập được báo về cung. Thạnh Bảo vô cùng lo ngại bối rối, không biết phải đối phó ra làm sao: đêm quân ra cản không cho quân Tùng Sơn tiến vào th́ không đủ sức, mà để cho quân Tùng Sơn xâm nhập măi th́ mất uy tín của ḿnh, và cả ngai vàng nữa.
-----------------------------------------------------
CHƯƠNG IV: TƯỚNG HOÀNG CÁI GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC VÀ KHÔI PHỤC NGÔI VUA
V́ đă cầu cứu ngoại bang đem quân chiếm nước nhà, nên Thạnh Bảo mất hết chánh nghĩa.
Trái lại, Hoàng Cái dựa trên danh nghĩa chống ngoại xâm, bảo tồn xứ sở, khôi phục ngôi vua, đă tạo cho ḿnh mỗi ngày mỗi thêm uy thế trong nhân dân. Sau khi đă chiêu mộ thêm binh mă một mách mau lẹ, v́ sự nhiệt liệt hưởng ứng của toàn dân, Tướng Hoàng Cái làm lễ xuất phát về giải phóng Kinh đô. Lợi dụng sự khinh suất của Tùng Sơn đem quân tiến sâu về phía Nam, Tướng Hoàng Cái đă bất thần thúc quân ngang hàng hông đạo trung quân của địch, cắt đạo quân này làm đôi, tiền quân và hậu quân không liên lạc được với nhau. Phần không thông thuộc đường sá, phần bị dân chúng nổi dậy khuấy phá ở hậu phương, quân của Tùng Sơn mỗi ngày mỗi hao ṃn. Lúc mới đầu, c̣n được dân chúng tiếp tế, nhưng càng đi sâu vào đất địch, dân chúng địa phương càng xa lánh, sự tiếp tế càng khó khăn, quân của Tùng Sơn dần dần mỏi mệt, thiếu thốn, và không c̣n giữ được kỷ luật như trước nữa. Do đó, càng đánh càng thua, càng thua càng mất tinh thần, và càng mất tinh thần càng thua nặng. Mười vạn tinh binh của Tùng Sơn bây giờ chỉ c̣n là một đạo quân ô hợp chưa đầy một vạn, tiến thoái lưỡng nan.
Đáng lẽ lợi dụng t́nh trạng suy yếu của quân Tùng Sơn, Thạnh Bảo có thể mua chuộc tội phản nghịch của ḿnh bằng cách tấn công vào quân của Tùng Sơn, giành lại chủ quyền của đất nước, nêu cao danh nghĩa giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại bang. Nhưng bị danh vọng, địa vị và quyền lợi nhăn tiền làm mù quáng lương tri, Thạnh Bảo vẫn nuôi hy vọng: vua nước Quư Lâm với tài nguyên dồi dào, tiềm lực chiến đấu hùng hậu, có thể đem thêm viện binh giúp ḿnh đánh bại Hoàng Cái. Thái độ hướng ngoại và thần phục ngoại bang ấy, làm cho dân chúng ghét bỏ Thạnh Bảo. Ngay tại Kinh đô là nơi dân chúng tương được hưởng đôi chút ân huệ của nhà vua, Thạnh Bảo cũng không t́m được sự ủng hộ, mà trái lại c̣n bị ngấm ngầm phản đối khi quân của Hoàng Cái c̣n ở xa, và cứ mỗi ngày nghe tin của vị tướng này càng tiến về Kinh đô, th́ dân chúng tại đây càng tỏ ra chống đối công khai với chính quyền do Thạnh Bảo nắm giữ một cách độc tài.
Sau khi được tin Hoàng Cái đă giết được tướng Tùng Sơn và tiêu diệt hoàn toàn tàn quân của địch, th́ dân chúng ở Kinh đô nhất tề nổi dậy, bao vây hoàng cung, tước khí giới của lính pḥng vệ hoàng thành và giam lỏng Thạnh Bảo trong cung, mở cửa thành chờ đón Hoàng Cái pḥ vua Đột Quyết trở lại ngai vàng.
Như thế là sau 3 tháng xáo trộn trầm trọng v́ sự dấy binh và cướp ngôi của Thạnh Bảo, trật tự lại được văn hồi trên toàn quốc và tại Kinh đô nước Nhục Chi.
Vua Đột Quyết được Đại tướng Hoàng Cái pḥ về hoàng cung. Dân chúng tại Kinh đô treo đèn kết hoa và lập khải hoàn môn đón mừng sự trở về của vua. Ngài truyền mở hội khao mừng quân lính trong suốt bảy ngày đêm. Hoàng Cái và những tướng tá có công đều được thăng hai cấp bực và trọng thưởng ngọc ngà châu báu. Những người phản bội và theo ngoại bang, trong số đó có Thạnh Bảo đều bị bắt giam để chờ ngày đền tội.
Hoàng Cái trở thành đệ nhất công thần và cột trụ chính của triều đ́nh, được vua hoàn toàn tin cậy và trọng nể. Ngài cho phép Hoàng Cái được đặc biệt ra vào hoàng cung lúc nào cũng được và có thể tŕnh bày ư kiến của ḿnh trong mọi vấn đề.
Căn cứ trên đặc ân ấy, ngay sau ngày đăng quang của vua Đột Quyết, Hoàng Cái đă vào hoàng cung xin yết kiến vua để tŕnh bày một việc mà Hoàng Cái cho là rất quan trọng đối với vận mệnh của quốc gia.
Sau khi được vua chấp thuận, Hoàng Cái đă dâng một bức thư điều trần lên vua Đột Quyết, trong ấy vị Đại thần này trách cứ vua đă để mất ngôi v́ chỉ nghĩ đến chuyện săn bắn, ăn chơi, múa hát mà không lo đến việc quốc kế dân sinh. Nếu từ đây về sau vua vẫn không thay đổi nếp sống cũ th́ quốc gia sẽ bị nguy khốn một lần nữa, và cái họa ngoại xâm chắc là không thể tránh khỏi.
Vua đă nén ḷng tự ái và công nhận lời khuyên của Hoàng Cái là đúng. Ngài tự hứa từ nay về sau sẽ chăm lo việc nước và dẹp tất cả những cuộc yến ẩm ca múa trong cung.
Sau khi triều đ́nh đă được chỉnh đốn, vua mới truyền đem Thạnh Bảo ra xử. Thạnh Bảo bị ghép vào tội phản loạn, thông đồng với ngoại bang để cướp ngai vàng và sẽ bị xử trảm tại pháp trường cát dựng lên ở giữa Kinh đô.
Vào một buổi sáng sớm mùa thu, nhằm vào một phiên chợ tại Kinh đô, người ta được mục kích một đám quan quân áp giải một tên tử tù ra pháp trường. Tên tử tù này không ai khác hơn là Thạnh Bảo. Đám rước đi từ trong hoàng thành ra, dẫn đầu là hai con voi trắng lớn, ở giữa là một vị vơ quan mang một tấm biểu lớn liệt kê sanh tánh và tội trạng của tử tội. Kế đó là hai hàng lính tráng mang trống lớn và chiêng to, cùng các loại nhạc khí. Tiếp theo sau là chiếc cũi nhốt Thạnh Bảo, hai bên có hai hàng lính, gươmg giáo sáng ngời đi hai bên.
Đ́nh thần và vua Đột Quyết cũng được nghinh giá theo đám rước với đầy đủ cung cách và nghi vệ của một vị Đại vương.
Đến pháp trựng, Thạnh Bảo bị dẫn ra khỏi chiếc cũi và trói vào một cột trụ. Sau khi vua và đ́nh thần an vị xong trước pháp trường, dân chúng đă được sắp xếp có trật tự ở chung quanh. Ba hồi chiêng trống nổi lên dơng dạc và oai nghiêm … Quan h́nh bộ thượng thư ra tuyên đọc tội trạng của tử tội. Tất cả đ́nh thần và dân chúng đều im lặng, lắng nghe những lời buộc tội nghiêm khắc của quan thượng thư, và hồi hộp chờ phút giây vua ra lịnh hành quyết …
Ba hồi chuông trống đă chấm dứt từ lâu. Mọi người đều im lặng nh́n về phía vua Đột Quyết. Gă đao phủ ḿnh trần trùng trục đưa cao ngọn đao sáng chói mặt trời, chờ lịnh hạ xuống đầu Thạnh Bảo.
Vua từ từ đứng lên, tiến tới trước mặt Thạnh Bảo, nh́n chàng một hồi rồi cất tiếng nói:
- Thạnh Bảo! Người có nhận tội phản nghịch của ngươi không? Ngươi có ân hận về những điều ngươi đă làm không?
- Thạnh Bảo b́nh thản ngước nh́n vua trả lời:
- Thần đă thất bại trong mưu đồ của thần và thần cam chịu chết. Được là vua thua là giặc, đó là lẽ thường. Thần không có ǵ phải ân hận. Nếu ngài thất bại, th́ hôm nay, chỗ đứng của ngài là trước cột trụ của pháp trường này, và chỗ ngồi của thần là cái ngai vàng, chính giữa đám triều thần kia.
Vua mỉm cười mai mỉa:
- Ta khen cho ngươi sắp chết mà vẫn c̣n cương trực. Trước khi ĺa cơi đời, ngươi c̣n lời nói cuối cùng ǵ nữa không?
Thạnh Bảongập ngừng một phút rồi nói:
- Thần chỉ ân hận có một điều ... và điều ấy có thể thay đổi cả cuộc diện hôm nay ...
- Điều ǵ?
Thạnh Bảongập ngừng nh́n quanh quan quân đứng chung quanh. Vua đoán biết ư định của Thạnh Bảo, hỏi:
- Ngươi muốn nói riêng với trẫm chăng?
Thạnh Bảo gật đầu. Vua truyền cho quan quân lùi xa ra khỏi pháp trường và tiến sát đến gần Thạnh Bảo:
- Bây giờ ngươi hăy nói cho ta nghe đi.
Thạnh Bảo th́ thầm nói với vua ...
Vua như sực nhớ điều ǵ, đứng thẳng người dậy, vẻ mặt đăm chiêu, rồi gật đầu mấy cái, như vừa khám phá ra một điều ǵ quan trọng.
Vua xoay lại, nh́n đ́nh thần một phút, rồi truyền cho người đao phủ hạ đại đao xuống, và tạm thời đ́nh hoăn cuộc hành quyết.
Tất cả mọi người đều vô cùng kinh ngạc.
Đại Tướng Hoàng Cái bực tức tiến tới trước vua Đột Quyết, định chất vấn và ngăn cản lịnh của vua. Nhưng vua đưa tay ra hiệu hăy im lặng và truyền quan quân ngự giá hồi cung. Đoàn người chậm răi quay về trong một bầu không khí ngột ngạt và bực tức ...
-----------------------------------------------
CHƯƠNG V: BÀI HỌC NGÀN VÀNG ĐƯỢC GỢI LẠI
Đại tướng Hoàng Cái vẻ mặt giận dữ tiến thẳng vào hậu cung, sau khi ở pháp trường trở về. Vị Đại thần này muốn biết lư do v́ sao vua đă truyền lịnh hoăn việc xử trảm Thạnh Bảo.
Vua biết Hoàng Cái đang bực tức ḿnh nên cố làm ra vẻ vồn vă:
- Đại thần hăy vào đây uống với trẫm một ly rượu, rồi trẫm sẽ giải thích v́ sao trẫm đă truyền tha tội chết cho Thạnh Bảo.
Quan Đại thần bất chấp cả nghi lễ tấn công ngay:
- Thần không thể ngồi uống rượu được, trong khi thằng giặc nguy hiểm nhất của triều đ́nh đang c̣n sống. Tại sao Hoàng Thượng lại muốn "nuôi ong tay áo" một lần nữa. Hoàng Thượng đă tin cậy cha nó, để đến nỗi suưt bị nguy đến tánh mạng. Thời may vận nước chưa đến nỗi suy tàn, nên âm mưu lật đổ ngai vàng của cha nó bị khám phá kịp thời. Nhưng Hoàng Thượng đă nhổ cỏ mà không trừ tận gốc, nên đă để cho thằng con là Thạnh Bảo đem quân về làm loạn, ngai vàng bị lật đổ, thần dân bị điêu linh khổ sở. Nay tội trạng của nó đă đành rành, Hoàng Thượng lại vẫn tỏ ra khoan dung độ lượng với nó, làm cho tất cả triều đ́nh, từ trên xuống dưới đều vô cùng phẫn uất, buồn tủi và nhất là lo sợ cho hậu hoạn c̣n đó.
Vua ngồi lắng nghe, không tỏ vẻ bực tức v́ những câu trách móc ấy. Ngài ngập ngừng hồi lâu, trước khi cất tiếng với một vẻ mặt buồn buồn.
- Trẫm xin chịu lỗi với khanh về những việc làm của trẫm. Những lời của khanh nói, trẫm không chối căi vào đâu được. Tuy thế khanh chưa hiểu rơ nguồn cơn sự việc đă xảy ra trong cung cấm này, nên khanh đă trách trẫm; nếu khanh hiểu rơ mọi việc từ đầu, chắc khanh sẽ có một nhận định khác. Từ lâu, trẫm chôn sâu câu chuyện này trong đáy ḷng, nhưng không ngờ sáng hôm nay nghe Thạnh Bảo nhắc lại, làm trẫm vô cùng hối hận và tỉnh ngộ.
Câu chuyện này, khanh là người đầu tiên được biết đến, và trẫm nói ra đây cho khanh rơ, là v́ trẫm xem khanh là người thân tín bậc nhất của trẫm ...
Hoàng Cái dần dần bị lôi kéo v́ những lời nói có vẻ bí mật của vua, đă đổi sắc mặt, không c̣n bực tức như lúc đầu. Đại tướng chăm chú lắng nghe vua mở đầu câu chuyện:
- Chắc khanh chưa quên câu chuyện Ông già bán bài học mà trẫm đă mua với giá môt ngàn lượng vàng. Sau khi mở bài học ra xem, trẫm nghĩ rằng trẫm đă bị lừa, nên trẫm vô cùng tức giận ...
Hoàng Cái ṭ ṃ hỏi:
- Thần có thể biết nội dung bài học nói ǵ không?
- Không có ǵ lạ, chỉ vỏn vẹn có một câu: "Phàm làm việc ǵ, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó". Trẫm tức giận ông già quá, nhưng không dám bộc lộ sự thật cho mọi người biết, v́ sợ chê cười. Trẫm đă phao đồn ra là bài học rất qúy giá, và mọi người đều tin là thật. Nhưng một mặt khác, trẫm mật truyền cho quan Đề Đốc Thanh Phong phải đi bắt cho được Ông già về cho trẫm. Nhưng quan Đề Đốc không làm sao bắt cho được Ông già. Trẫm một phần v́ tức giận, một phần v́ sợ để quan Đề Đốc sống th́ sự thật về bài học sẽ bại lộ, nên loan tin rằng quan Đề Đốc đă âm mưu lật đổ ngai vàng. Quan Đề Đốc bị xử tử bằng độc dược và chết trong ngục thất.
Thạnh Bảo không thể tin được rằng: cha ḿnh đă âm mưu giết vua, v́ hơn ai cả Thạnh Bảo biết rằng quan Đề Đốc là một trung thần được trẫm vô cùng tin cậy. Nóng ḷng v́ cha bị giết mà không rơ nguyên nhân và cũng để tự vệ, nó đă đem quân về triều làm loạn. Sự việc diễn tiến sau đó như thế nào, khanh cũng đă rơ. Có một điều quan trọng nhất mà hôm nay nó mới tiết lộ cho trẫm biết là: sau khi nó vào hoàng cung, nó mở cái tủ cẩm thạch mà trẫm đựng châu báu ngọc vàng, nó không thấy ǵ cả (v́ trẫm đă đem đi hết) ngoài cái đăy có bài học của Ông lăo. Nó đọc xong rồi bực tức xé mảnh giấy đi. Nó nghĩ rằng đó là một câu nói nhảm. Nhưng chính hôm nay, tại pháp trường, trước khi bị xử trảm, lời nói cuối cùng của nó nói với trẫm là nó đă ân hận: không nghe theo bài học. Nếu từ khi vào cung mà nó làm theo bài học, th́ nó vẫn có thể hướng đến một hậu quả tốt đẹp, chứ không phải là cái hậu quả bị xử trảm tại pháp trường. Trẫm có hỏi nó: " Nếu khanh nghe theo bài học th́ khanh sẽ làm ǵ?". Nó trả lời: Thần sẽ chống lại quân của nước Quư Lâm do Tùng Sơn chỉ huy và trả lại ngai vàng cho Hoàng Thượng". Trẫm lại hỏi: "Vậy tại sao khanh không làm như vậy?". Nó bảo: "V́ thần thấy khó mà đoán trúng hậu quả; vả lại trong khi đang có quyền lực trong tay, thần nghĩ rằng ḿnh có thể thay đổi hậu quả theo ḿnh muốn". Nghe Thạnh Bảo trả lời trẫm giựt ḿnh, v́ trẫm cũng đă nghĩ như vậy, khi mở bài học ra xem lần đầu tiên, trẫm đă ruồng bỏ bài học của Ông già nên trẫm đă mất ngôi và suưt mất luôn cả tánh mạng. Và chính trẫm là người đă gây nên tội đối với cha con Đề Đốc Thanh Phong. V́ nghĩ như vậy, nên trẫm đă truyền tha tội chết cho Thạnh Bảo.
Quan Đại thần Hoàng Cái nghe xong ngồi trầm ngâm suy nghĩ, và nỗi bực tức lúc đầu tan biến dần mất.
Hoàng Cái và vua Đột Quyết ngồi nh́n nhau, không ai nói với ai một lời, nhưng đây là một sự im lặng đầy suy tư, rất cần thiết cho mọi hành động. Hồi lâu vua cất tiếng hỏi:
- Theo ư Đại thần, th́ đại thần có nghĩ rằng nên tha tội chết cho Thạnh Bảo chăng?
- Tâu Hoàng Thượng, nếu quả thực ssụ việc đă xảy ra như vậy thi không những nên tha chết cho Thạnh Bảo mà c̣n nên tạo cho nó nhiều cơ hội đoái công chuộc tội nữa. Nhưng dù sao đó cũng là công việc nhỏ. Thần nghĩ đến một vấn đề quan trọng hơn, là bài học này hay lắm! Nếu Hoàng Thượng và Thạnh Bảo biết áp dụng bài học này th́ chẳng những không có những tai hại lớn lao vừa xảy ra, mà c̣n đem lại sự ích lợi cho quốc gia dân tộc và cá nhân của Hoàng Thượng, của Thạnh Bảo vô cùng vô tận. Vậy th́ bây giờ phải làm thế nào đem bài học quư báu của ông già ra áp dụng ...
Vua Đột Quyết bỗng như sực nhớ điều ǵ, vội cắt ngang câu nói của Hoàng Cái:
- Câu nói của Đại thần nhắc lại làm cho trẫm nhớ lời dặn của ông lăo là "phải áp dụng bài học mới rơ giá trị chơn thật của nó". Nhưng làm thế nào để áp dụng bài học này một cách triệt để trong mọi công việc?
- Tâu, nếu thật t́nh Hoàng Thượng muốn áp dụng một cách triệt để, th́ trước tiên phải làm sao luôn luôn nhớ đến bài học ấy.
- Một câu ngắn ngủi như vậy, có khó ǵ đâu mà không nhớ?
- Tâu, v́ ngắn ngủi, vắn tắt và đơn giản quá, cho nên chúng ta khinh thường, không chú ư đến. Thần nghĩ có cách hay nhất để bài học luôn luôn hiện diện trước mắt mọi người là nên ghi khắc nó khắp nơi trên mọi vật dụng.
Mắt vua Đột Quyết bỗng sáng lên và ngài nhận thấy sáng kiến của Hoàng Cái rất hay. Ngài nói có vẻ mùng rỡ:
- Đó là một ư kiến rất quư báu, Trẫm phải truyền lịnh thực hành ngay tại trong hoàng cung này.
Thế là vua truyền lịnh cho quan nội giám t́m các nhà giáo viết chữ thật đẹp, để viết bằng đủ các lọai chữ từ lớn đến nhỏ, và tuyển mộ các nhà điêu khắc, các thợ mộc, thợ nề, thợ vẽ, thợ sơn, thợ chạm để tùy theo vị trí, địa điểm, nhà cửa, pḥng the, vật dụng mà ghi khắc, chạm trổ bài học của Ông già vào ...
Thợ thầy, lính tráng trong cung nổ lực làm việc sau một tháng mới xong.
Để đánh dấu ngày phát động phong trào áp dụng bài học và gây một xúc động tâm lư trong triều đ́nh và cung điện, vua truyền tổ chức đại lễ để tạ ơn trời đất thánh thần đă xui khiến cho Ông già đem bán bài học cho vua rồi biến mất.
Trong buổi lễ có sự tham dự của toàn thể bá quan văn vơ. Vua Đột Quyết, trong bộ lễ phục đại trào, đă quỳ lạy một cách vô cùng thành kính trước hương án, để ăn năn sám hối tội lỗi của ḿnh từ trước đă suưt làm cho nước mất nhà tan, cơ đồ sụp đổ. Sau đó, vua quay mặt xuống phía bá quan văn vơ, tường thuật tất cả sự thật về bài học của Ông già mà từ trước đến nay vua đă che đậy. Cũng trong dịp này, vua tuyên bố ân xá tội trạng của Thạnh Bảo và cho trở về làm dân dă. Cuối cùng vua long trọng phát nguyện tuân theo bài học của Ông già và khuyên bá quan văn vơ nên bắt chước theo ngài mà áp dụng bài học ấy. Buổi lễ chấm dứt sau sự tŕnh bày các loại vật dụng trong hoàng cung có ghi khắc bài học ngàn vàng.
------------------------------------------------
CHƯƠNG VI: QUAN NGỰ Y VÀ BÀI HỌC NGÀN VÀNG
Quan ngự y Thái Ḥa len lén đóng kín cửa pḥng lại. Mặc dù các của pḥng đều đóng kín cả rồi. Quan vẫn nh́n quanh nh́n quẩn xem có ai ŕnh ngó ḿnh ở đâu đó không. Bốn bề đều im lặng. Từ ngày vua Đột Quyết đau nặng đă hơn hai tháng nay, trong cung điện không có tiếng đàn tiếng hát đă đành, mà tiếng cười tiếng nói cũng vắng bặt. Sự vắng lặng làm cho quan ngự y rờn rợn! ... Ba lần quan lần tay vào chéo áo, ba lần quan để chéo áo xuống. Thực ra viên độc dược chỉ nhỏ bằng hạt tiêu, khó cho ai có thể nhận ra được, nhưng khi người ta có gian ư th́ một cử chỉ nhỏ nhặt, người ta cũng e ngại, giữ ǵn. Nồi thuốc nấu từ sáng đến giờ đă sắp được. Chỉ cần lấy viên độc dược trong chén áo bỏ vào nồi nữa là xong. Nhưng cử chỉ nhỏ nhặt ấy mà khó khăn quá chừng! Có lẽ v́ khó khăn như vậy nên vua Quư Lâm mới thuận trả giá cho quan ngự y bằng một nàng Công chúa đẹp và một nữa giang sơn nước Nhục Chi!
Nguyên là vua nước Quư Lâm, sau khi cho tướng Tùng Sơn đêm một trăm ngàn quân sang xâm chiếm nước Nhục Chi, bị hoàn toàn thất bại, nên nuôi chí phục thù, nhưng chưa có cơ hội. Nhân được tin thám báo cho biết vua Đột Quyết đau nặng, vua Quư Lâm vô cùng mừng rỡ, hội tướng lănh để bàn mưu đem quân sang đánh. Nhưng các tướng cẫn c̣n kỷ niệm đau thương của cuộc thất bại trước, nên tỏ vẻ e dè. Do đó, quan Tể tướng mới kiếm kế mua chuộc quan ngự y Thái Ḥa bỏ thuốc độc cho vua Đột Quyết chết rồi sẽ đem quân xâm chiếm sau. Quan Tể tướng cho người thân tín giả làm nhà buôn đem quế sang bán cho quan ngự y và đưa thư thuyết phục vị lương y được vua tín cẩn ấy. Thái Ḥa ban đầu c̣n do dự, nhưng khi được sứ giả của quan Tể tướng đưa bức tranh vẽ chân dung của Công chúa nước Quư Lâm cho xem, th́ không c̣n đủ nghị lực để từ chối. Cuối cùng quan ngự y đă nhận viên độc dược vô cùng mănh liệt của sứ giả và hứa sẽ thi hành kế hoạch của quan Tể tướng nước Quư Lâm. Một tờ cam kết đă được thảo ra giữa hai người và mỗi người cất giử một bản để làm tin.
Sứ giả đă trở về, và quan ngự y vào cung chế thuốc như mọi ngày, chỉ khác là hôm nay có mang theo viên thuốc độc trong chén áo.
Có một lúc quan ngự y đă định ném viên thuốc qua cửa sổ cho mất tang tích, nhưng sực nhớ tờ cam kết đang c̣n trong tay viên sứ giả, nếu ḿnh không thi hành, th́ thế nào quan Tể tướng cũng trả thù bằng cách tiết lộ tờ cam kết ấy cho triều đ́nh nước Nhục Chi hay. Khi ấy đă mất vợ đẹp, mất nửa giang sơn gấm vóc, mà c̣n lại bị tru di cả ba họ v́ tội mưu giết vua.
Nghĩ như vậy, quan ngự y cương quyết lần viên độc dược ở trong chén áo ra, lanh lẹ dỡ nắp nồi thuốc bỏ vào. Chỉ một cử chỉ nhỏ nhặt như vậy thôi mà năy giờ cứ do dự chần chừ măi!
Quan thấy nhẹ nhơm trong người, đứng dậy ra mở cửa, và đi qua đi lại trước hành lang đợi giờ đem thuốc vào cho vua uống. Quan nh́n ra ngoài vườn thượng uyển. Cảnh trí thật là đẹp dưới ánh sáng mờ ảo của hoàng hôn. Quan nghĩ thầm: cung điện này vài hôm nữa sẽ về tay ta. Bây giờ ta là một ngự y không quyền thế, nhưng một này kia tất cả cung phi mỹ nữ sẽ ở dưới quyền sử dụng của ta; bọn đ́nh thần mấy lâu nay khinh bạc ta, sẽ quỳ lạy dưới tay ta. Thật không ngờ vận mệnh con người thay đổi mau lẹ như vậy ...
Vào 7 giờ tối, như mọi ngày một viên thị vệ đến mời quan ngự y đem thuốc vào cho vua uống! Quan ngự y bảo viên thị vệ lấy nồi thuốc đổ vào bát sành, đặt khay vàng và bưng vào pḥng vua, c̣n ḿnh th́ theo sau.
Viên thị vệ quỳ đặt khay thuốc trên chiếc án, chân quy trước long sàng và lui ra. Quan ngự y vái chào vua và đứng dưới chân giường đợi lệnh. Vua chỉ một chiếc ghế và bảo quan ngự y ngồi xuống.
Vua đưa tay bảo:
- Khanh xem mạch cho trẫm hôm nay có khá hơn mọi hôm không? Có thể cho trẫm biết độ bao giờ th́ bệnh khỏi hẳn. Và nếu có mệnh hệ ǵ cũng đừng giấu trẫm làm ǵ. Hăy để cho trẫm có th́ giờ chuẩn bị ...
Viên ngự y đặt tay nhà vua lên một tấm khăn rồi quỳ xuống bắt mạch. Vua cảm thấy mấy ngón tay của quan ngự y rung nhè nhẹ trên cổ tay ḿnh. Ngài chăm chú nh́n vào mặt quan ngự y và quan ngự y có vẻ như muốn tránh nh́n ḿnh. Vua gợi chuyện hỏi han về thân thế và gia đ́nh vị lương y:
- Khanh năm nay bao nhiêu tuổi?
- Tâu , năm mươi hai ...
- Vậy là thua trẫm hai tuổi. Chẳng mấy chốc mà đă qua nửa đời người rồi! Nhiều khi trẫm ân hận là chưa làm ǵ được cho dân cho nước mà đă sắp ĺa trần rồi!
Tay quan ngự y rung mạnh trên cổ tay của nhà vua. Vua lại tiếp:
- Khanh ạ! Trẫm chưa muốn chết quá vội. Khanh hăy làm sao chữa cho trẫm lành bệnh nhé!
Quan ngự y "dạ" một tiếng nhỏ trong cổ họng và cúi mặt nh́n xuống chén thuốc để trên chiếc khay vàng. Bỗng mắt vị lương y như bị thôi miên v́ mấy chữ chạm trên chiếc khay và trên thành bát thuốc: "Phàm làm việc ǵ, trước phải xét kỹ đến hậu quả của nó". Vị lương y có cảm tưởng choáng voáng như đầu của ḿnh vừa bị húc vào tường. Mấy chữ vẫn nằm im lặng ở đấy, mà quan ngự y nghe như tiếng quở trách đang vang dội khắp nơi và cả trong đầu óc của ḿnh. Quan ngự y tự hỏi:
"Ta đang làm ǵ đây? Ta bỏ thuốc độc cho vua. Vua sẽ uống chén thuốc và chết trong vài giờ sau. Âm mưu giết vua thế nào cũng bại lộ. Ta sẽ bị quan đại thần Hoàng Cái bắt và chém đầu. Cả gia đ́nh ḍng họ ta chắc cũng không thoát khỏi án tử h́nh. Họ Thái sẽ tuyệt diệt, nhưng tiếng xấu vẫn lưu lại muôn đời. Ta làm một việc ác lớn lao, chắc chắn ta sẽ thâu nhận một hậu quả vô cùng tai hại!"
Trong khi suy nghĩ như vậy, mấy ngón tay quan ngự y vẫn nằm im trên cổ tay nhà vua, và vua vẫn để yên tay ḿnh dưới tay quan ngự y, nhưng đôi mắt vẫn theo dơi, quan sát từng cử chỉ, từng sự biến chuyển trên nét mặt suy tư của quan ngự y.
Hồi lâu, vua cất giọng yếu ớt hỏi:
- Khanh xem mạch trẫm thế nào? Sắp nguy chưa?
Quan ngự y nhu sực tỉnh, tâu vẻ bối rối:
- Tâu, tâu Hoàng Thượng ... mạch rất tốt, rất tốt ...
Vua mỉm cười héo hắt:
- Thế ạ! Trẫm cảm ơn khanh. Bây giờ trẫm uống thuốc nhé!
Vua vừa nói vừa ngồi dậy với bưng bát thuốc. Quan ngự y hốt hoảng cản tay vua lại, nói:
- Xin Hoàng Thượng hăy khoan ...
Vua ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy? Sao khanh lại không cho ta uống?
Quan ngự y quỳ xuống, van lạy:
- Tâu Hoàng Thượng, thần xin Hoàng Thượng rộng lượng tha tội cho thần! Bát thuốc có độc dược!
- Sao vậy?
Nhà vua vô cùng kinh ngạc, hỏi lại:
- Khanh định giết trẫm thật sao?
- Muôn tâu Hoàng Thượng, hạ thần đă bị vô minh dục vọng làm mờ ám lương tâm, nhưng nay sực nh́n thấy bài học ngàn vàng khắc trên khay và trên bát thuốc mà thần tỉnh ngộ. Tội thần đáng chết, xin Hoàng Thượng hăy truyền lịnh hạ ngục đi.
Vua trầm ngâm suy nghĩ một hồi, rồi từ tốn phán:
- Thật quả tội khanh đáng chết. Nhưng khanh đă hối hận kịp thời trước khi tội ác xảy ra, nên trẫm tha tội cho khanh. Từ nay về sau hăy hết ḷng tận trung với trẫm.
Quan ngự y dập đầu vái lạy và quỳ bên chân nhà vua, vô cùng xúc cảm không cầm được nước mắt! ...
Bệnh của nhà vua tự nhiên thuyên giảm rất nhiều, mồ hôi ngài toát ra ướt dầm áo bào,và cảm nghe trong người nhẹ nhơm. Nhà vua mừng quá, tự bảo: Bài học này quư lắm! Một ngàn lượng vàng c̣n rẻ! Nhờ bài học này mà quan ngự y được hối ngộ khỏi bị tội tử h́nh và tru di tam tộc; nhờ bài học này mà nước nhà khỏi mất, dân ta không làm nô lệ cho ngoại bang và cũng nhờ bài học này mà tánh mạng ta khỏi chết. Thật là "Bài học vô giá!"
Nhờ sự vui mừng đó nên trong người vua phấn khởi, khoan khoái mà bịnh ngài dần dần thuyên giảm.
https://i.ibb.co/JFmCkty/1000826-324117214391167-435174274-n.jpg
NHÂN THIỆN QUẢ THIỆN
Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tinh xá Kỳ Viên trong thành Xá Vệ thuyết pháp độ sinh, th́ trong ngôi thành lớn ấy có ông trưởng giả nọ sinh được một cậu con trai rất kỳ diệu. Lúc cậu ra đời th́ nước cam lồ từ trên trời tuông xuống, và thiên nhạc tuyệt diệu trổi lên khúc hoan cạ Cha mẹ cậu mừng rỡ quá, mời thầy chiêm tinh về bốc cho đứa bé hy hữu ấy một quẻ. Thầy chiêm tinh bốc xong, khen ngợi rằng :
- Đứa bé này ra đời có cam lồ, thiên nhạc chào mừng, đó là v́ sau này cậu sẽ là phúc tinh của nhân loại, nếu được xuất gia học đạo, chắc chắn sẽ thành một vị thánh!
Nghe những lời ấy cha mẹ cậu rất đẹp ḷng, đặt tên cho cậu là Da Xỉ Mật Đa, tối ngày cưng ch́u, cung phụng đủ thứ. Nhưng kỳ lạ thay, đứa bé này không cần bú sữa. Khi đói, giữa những kẽ ngón tay của cậu có một gịng sữa trắng tự nhiên chảy ra, nuôi cho cậu dần dần lớn mập. Lúc c̣n bé, cậu thông minh dị thường, cung cách siêu phàm.
Có một hôm cậu đến Kỳ Viên tinh xá, thấy Đức Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thân phóng hào quang sáng rực, Da Xỉ Mật Đa hoan hỉ vô cùng, chạy đến đảnh lễ Đức Phật và xin Ngài thu nhận ḿnh làm đệ tử. Đức Phật từ bi nhận lời, cho phép Da Xỉ Mật Đa được xuống tóc xuất gia. Tuy c̣n nhỏ tuổi, nhưng cậu tu hành tinh chuyên, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán, có đại thần thông, được người, trời kính phục.
Những vị đệ tử khác của Đức Phật lớn tuổi hơn cậu hay xuất gia trước cậu đều không b́ kịp, nên mọi người mới lấy làm lạ, thỉnh giáo Đức Phật.
Đức Phật không chút nề hà, thuyết cho mọi người nghe nguyên do như sau:
Lúc Ca Diếp Như Lai c̣n tại thế, có một vị thân sĩ ở nước Ba La Nại, tuổi đă lớn mới xuất gia học đạo, nhưng lại giải đăi lười biếng, không chịu tinh tiến, thân lại thường hay mang bệnh. Các thầy thuốc thấy ông gầy yếu, bèn khuyên ông nên uống nhiều dầu tô (dầu tô là một loại chất bổ giúp cho thân thể cường tráng). Lăo tỳ kheo này nghe lời thầy thuốc, ráng sức uống dầu tô cho nhiều, tới nửa đêm th́ chất thuốc phát tác, ông vừa nóng vừa khát, muốn uống chút nước th́ trong bát không có lấy nửa giọt cho ông uống. Chạy ra giếng, giếng đă cạn khộ Chạy ra bờ sông, th́ gặp lúc hạn hán đă lâu, nên chỉ thấy đáy sông. Ông đi t́m khắp nơi mà không t́m đâu ra nước, khát chịu gần hết nổi. Lúc ấy ông như tỉnh ngộ, biết rằng đây là quả báo từ quá khứ chiêu cảm, nên ông nhẫn chịu khát cho qua đêm ấy. Ngày hôm sau ông t́m tới Ca Diếp Như Lai cầu cứu. Như Lai thấy ông đáng thương, bèn nói với ông rằng:
- Cái khổ của ông hôm nay không khác ǵ cái khổ của loài ngạ quỷ, nếu biết sám hối th́ c̣n cứu văn được. Bây giờ ông hăy nước trong b́nh của ta mà cung kính dâng lên cho chư tăng.
Lăo tỳ kheo nghe lời giáo huấn cuả Như Lai, tính lấy b́nh nước nhưng nghiệp tội đă quá sâu dày, nên tay mới chạm b́nh, th́ nước trong b́nh đang đầy ắp bỗng không cánh mà baỵ Lăo tỳ kheo rất buồn phiền, thấy ḿnh như sắp đọa xuống cơi ngạ quỷ tới nơi rồi! Ông lại đi t́m Như Lai, cầu xin Ngài thương xót chỉ giáo chọ Như Lai dạy:
- Bây giờ ông ở giữa tăng chúng, giữ tâm ư cho thật thành kính, lấy nước thanh tịnh nhất, trong sạch nhất mà cúng dường chư tăng, th́ mới thoát được nỗi thống khổ của loài ngạ quỷ này.
Lăo tỳ kheo vâng lời và tin tưởng Như Lai, sinh tâm đại hoan hỉ, lại c̣n nương vào lực của Phật nên ở đâu cũng t́m được nước sạch, nước trong. Từ đó, ngày ngày ông mang nước sạch đến cung cấp cho tăng đoàn, mải cho đến lúc tuổi thật cao mới tạ thế. Nhờ công đức cúng dường nước cho chư tăng như thế nên sinh ra đời này mới tự nhiên có sữa thanh tịnh mà uống, cho đến mới gặp Phật, đắc độ rất mau chóng. Này chư tỳ kheo, lăo tỳ kheo bệnh hoạn kia, nay chính là Da Xỉ Mật Đa vậy.
Mọi người muốn t́m cầu hạnh phúc, nên thường cúng dường Phật và tăng, trồng nhân thiện th́ tự nhiên sẽ hái được quả thiện.
https://i.ibb.co/X8P0LGq/1069870-324562694346619-278452437-n.jpg
BỐN LOẠI PHƯỚC ĐỨC
Lúc Đức Phật c̣n tại thế, có một vị trưởng giả tên là Âm Duyệt, nhà rất giàu có, không có điểm nào đáng phàn nàn trừ một điều là tuổi đă cao mà chưa có đứa con trai nào, nên từ sáng đến tối ông cứ rầu rầu nét mặt.
Nhưng nhờ thiện căn đời trước nên một hôm, liên tiếp bốn loại phúc đức cùng đến với ông trong một lúc. Đó là : thứ nhất vợ Ông sinh được một cậu con trai kháu khỉnh xinh xắn không ai b́ kịp ; thứ hai trong chuồng ngựa có vô số ngựa trắng đều đồng thời sinh sản rất nhiều ngựa con khoẻ mạnh ; thứ ba, ông được vua phái người tới tận nhà phong thưởng chức tước ; thứ tư, những chiếc tàu buôn ông gởi ra nước ngoài t́m kho tàng đều về tới bến, thành công mỹ măn.
Vị trưởng giả hoan hỉ vô cùng, ông nghĩ rằng đó là do chư thiên ban phúc cho ḿnh nên phải tập họp gia tộc lại, làm một bữa tiệc cỗ cao lương mỹ vị cúng tế, tạ ơn ḷng tốt của chư thiên.
Lúc ấy đương nhiên rất nhiều thiên vương cùng bát bộ thiên long và người cơi trời rải rác trong hư không, thấy vị trưởng giả phúc đức đầy đủ như thế, đều âm thầm tán thán. Đức Phật Thích Ca, cũng v́ đời trước có chút nhân duyên nên cũng đến trước cửa nhà trưởng giả nói kệ cát tường:
Phúc đức trổ mạnh mẽ
Niềm vui tới một lúc
Do phúc đức đời trước
Nay đến lúc thành thục.
Âm Duyệt trưởng giả nghe pháp âm vi diệu của đức Phật Thích Ca, mừng rỡ chạy ra ngoài cửa cung kính lễ bái mà nói :
- Ngài là vị xuất gia được cả pháp giới này tôn kính bậc nhất, phúc tuệ song toàn nên độ hóa được chúng sinh trong cả mười phương thế giới! Hôm nay biết trước nhà tôi có may mắn vô hạn nên Ngài tới tận đây mà tán dương, ḷng tôi thật vô cùng cảm kích!
Nói xong, bèn đem ra những tấm thảm nhung trắng loại thượng hảo hạng ra cúng dường Phật. Đức Phật tiếp nhận rồi bèn chú nguyện cho ông và c̣n từ bi khai thị rằng:
- Trên thế gian này, ngay trong bản thể của tiền tài vốn đă bị năm loại tai nạn nguy hiểm chi phối, nhưng người ta không biết cái đạo lư này nên cứ mong cầu không chịu biết đủ, tính toán chi li, đến khi chết đồng xu nhỏ cũng không mang theo được. Tiền tài như thế chỉ đem lại phiền năo cho chúng ta mà thôi. Hôm nay nếu trưởng giả dùng cái tiền tài bất an ấy để bố thí cúng dường th́ sau này phúc đức và chuyện vui nào cũng sẽ theo nhân duyên đó mà đến với ông.
Trưởng giả hỏi:
- Năm tai nạn nguy hiểm ấy là ǵ?
Đức Phật trả lời:
- Thứ nhất là không biết trước sẽ bị lửa thiêu cháy lúc nào; thứ hai là đề pḥng nạn băo lụt không kịp; thứ ba là bị quan quyền dùng áp lực tịch thu mà không làm sao kháng cự; thứ tư là sinh con bất hiếu tiêu phí khánh tận gia sản ; thứ năm là đạo tặc vô t́nh cướp đoạt. Trong số năm tai nạn trên, bất cứ tai nạn nào xẩy ra, gia sản cũng sẽ bị tổn thất ngaỵ. Thí dụ nếu có một người phạm tội với quan quyền, th́ không những bất cứ của cải nào của họ cũng bị tịch thu mà có thể c̣n bị giam cầm trong lao tù, cho đến cả bị xử tử nữa cũng không chừng! Lúc ấy, người đó làm cách nào để chống chọi hay bảo vệ tài sản cho được an toàn đây? Lại nói, kiếp trước có một người đă từng bố thí 7 lần, nhưng mỗi lần bố thí xong là đều vô cùng hối hận tiếc rẻ. Do không bố thí với tâm chí thành nên sau đó, người ấy tuy có vô số tiền của, nhưng cũng bị phá sản 7 lần.
Trưởng giả nghe thế, sinh tâm chí thành bố thí một cách hoan hỉ. Đức Phật nói xong cũng tức khắc quay trở về núi Kỳ Xà Quật.
Đồng một lúc ấy có một vị ngoại đạo tên là Bất Lan Ca Diếp, nghe nói đức Phật chỉ thuyết có một câu kệ cát tường mà được vô số thảm nhung trắng, bèn sinh tâm ganh tị, t́m cách bắt chước làm thử. Nhưng ông không biết nói kệ nên đến xin Đức Phật dạy chọ. Đức Phật biết trước trưởng giả Âm Duyệt trong tương lai sẽ mất hết tài sản lẫn phúc đức trong cùng một lúc, nên dùng lời khéo léo để khuyên can ngoại đạo, nhưng người này cho rằng đức Phật không chịu dạy cho ḿnh nên cứ theo kèo nài năn nỉ măi. Đức Phật có đại thần thông, thấy nhân duyên kiếp trước của Bất Lan Ca Diếp, biết nghiệp chướng không thể tránh được, nên nói với đại chúng tại chỗ rằng: "Tội không tránh được, có nợ phải trả". Rồi Ngài nói lên bốn câu kệ cát tường dạy cho Bất Lan Ca Diếp.
Không lâu sau, trưởng giả Âm Duyệt đă mất hết tài sản trong một trận hỏa thiêu, rất nhiều ngựa con cũng chết cháy trong cùng một lúc, đứa con trai quư bất hạnh yểu mệnh, đồng thời có người ganh ghét sàm tấu ông với vua, nên bao nhiêu chức vị được phong thưởng ngày nào nay đều bị tước lại. Chưa hết, những con tàu ông gởi đi kiếm kho tàng đều bị băo tố lật úp, cả vốn lẫn lời đều ch́m sâu trong biển cả.
Đúng lúc ấy Bất Lan Ca Diếp hồ hỡi phấn khởi đến trước nhà trưởng giả, mạnh miệng đọc to lên những câu kệ cát tường. Trưởng giả đang phiền năo không có chỗ để phát tiết, đột nhiên nghe những câu kệ cát tường, ngỡ rằng Bất Lan Ca Diếp cố ư chọc tức ḿnh, nổi giận mặt mày đổi màu từ trắng ra xanh, bất chấp hết thảy, thuận tay tóm lấy cây gậy dựng ngay bên cửa đánh Bất Lan Ca Diếp một trận túi bụi. Đáng thương cho Bất Lan Ca Diếp, trong thoáng chốc bị đ̣n nên thân, cả người bầm tím mang đầy thương tích, ḅ lê ḅ càng đau đớn trở về nhà. Nhưng tuy vậy vẫn chưa tỉnh ngộ, cứ ngỡ rằng tại đức Phật không chịu dạy kệ cho rơ ràng!
Lúc ấy đức Phật đang ở vườn trúc La Duyệt Tri thuyết pháp, ngài nói với đại chúng rằng:
- Bất Lan Ca Diếp hôm trước tới đây đ̣i ta dạy cho kệ cát tường, ta khuyên can mà không nghe, hôm nay lại đằng đó bị đả thương rồi !
A Nan hỏi Đức Phật:
- Bất Lan Ca Diếp và vị trưởng giả kia có nhân duyên ǵ với nhau mà bị quả báo ấy?
Đức Phật nói:
- Đó là tại có một nhân duyên rất lâu xa về trước, thời ấy có một ông vua tên là Âm Duyệt. Một hôm vua đang ngủ trưa, th́ có một con chim anh vũ bay lên trên mái cung đ́nh mà hót, tiếng hót nghe rất cảm động. Vua nghe nó hót vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, bèn hỏi người xung quanh rằng :"Đó là loại chim ǵ, sao nó hót nghe cảm động đến thế ?" Người xung quanh đáp "Có một con chim kỳ diệu, mới bay tới hót ở trên mái cung đ́nh". Vua nghe thế, sai rất nhiều người đi lùng kiếm nó ở khắp mọi nơi. Lùng măi rồi cuối cùng cũng bắt được, vua vui mừng không kể xiết, bèn dùng ngọc châu cơ, thủy tinh, lưu ly, trân châu, san hô, anh lạc v.v... rất nhiều châu báu như thế làm lồng cho nó ở, từ sáng tới tối giữ nó măi bên ḿnh không chịu ĺa xạ Về sau có một con chim khác tên là mộc điểu, thấy thế bèn hỏi chim anh vũ rằng:
- Làm sao mà bạn được sung sướng tột cùng như thế?
Anh vũ đáp :
- Tôi t́nh cờ hót chơi giải buồn trên mái cung đ́nh, vua nghe được cho rằng nghe cảm động, nên sủng ái tôi như thế.
Chim mộc ganh tức nói:
- Tôi có thể hót hay hơn bạn!
Lúc vua sắp ngủ trưa, chim mộc bèn bay trước cung đ́nh hót rầm rĩ, vua giật ḿnh tỉnh giấc, rởn tóc gáy, nổi giận hỏi người xung quanh :"Tiếng ǵ nghe rùng rợn như thế?" Người xung quanh đáp: " Đó là con chim mộc đang hót trước cửa". Vua chưa nguôi giận, lập tức ra lệnh bắt nó vặt lông và đánh cho một trận rồi mới thả về. Chim mộc ḅ ngả ḅ nghiêng trở về tổ, có rất nhiều chim khác thấy t́nh trạng của nó như thế th́ kinh hoàng hỏi nguyên do, chim mộc không những không chịu nhận sự thật mà c̣n oán trách chim anh vũ mà nói với đồng loại rằng:
- Tại con chim anh vũ tôi mới ra nông nỗi này!
Đức Phật ngừng một lúc rồi lại nói tiếp:
- Âm thanh hay có thể đem lại phúc đức, âm thanh dở th́ đem đến tai hoạ. Chim mộc tự làm hại lấy ḿnh mà c̣n giận lây chim anh vũ. Vị vua thuở ấy chính là trưởng giả Âm Duyệt ngày nay, chim mộc là Bất Lan Ca Diếp trong quá khứ đă ganh tị với chim anh vũ nên bị đánh đập đau đớn, kiếp này cũng lại ganh tức với Phật, cũng lại bị nạn gậy gộc, chính v́ cái tâm ganh tị thiêu đốt mà không chịu hối cải!
A Nan hỏi Đức Phật:
- Trưởng giả Âm Duyệt đời trước làm công đức ǵ mà lại được bốn loại phúc báo, và tại sao bây giờ phúc đức ấy lại bị tiêu mất?
Đức Phật trả lời:
- Trong đời trước, lúc c̣n trẻ, Âm Duyệt tin phụng Phật Pháp, chí thành cúng dường thánh chúng nguyện xin cho được giàu có. Quả nhiên về sau được như nguyện, nhưng khi cưới vợ rồi th́ bất hạnh đâm ra đam mê tửu sắc, khinh mạn Tam Bảo. Đă thế c̣n không có tâm từ bi, không gieo trồng thiện căn, v́ thế phúc báo của ông ta tan đi như bóng trăng đáy nước, hoa đốm trong không, biến mất trong nháy mắt.
Sau đó, thật đáng thương, sẽ bị vô hạn thống khổ bức bách, chịu tận cùng khổ báo rồi mới tiêu trừ nghiệp chướng được.
https://i.ibb.co/LnKGLvQ/69029-325326907603531-2110143547-n.jpg
NGHIỆP GIẾT
Ông vua được coi là đức độ tài giỏi nhất của Ấn Độ, từ xưa đến nay, là vua A Dục. Ông có một người con trai tên là Câu Na Lạ Hoàng tử Câu Na La rất khôi ngô tuấn tú, tướng mạo như tranh vẽ, khuôn mặt như trăng rằm, v́ thế có rất nhiều cô gái muốn được thân cận với chàng.
Lúc đó, trong cung điện có một nàng vương phi trẻ tuổi tên là Đê Xá La Hy Đạ Cô gặp hoàng tử lần đầu liền đem ḷng yêu thương, thường t́m đủ cơ hội để gặp gỡ, gần gũi.
Một hôm, nhân t́m được một cơ hội tốt, vương phi liền đi t́m gặp hoàng tử, đem tâm sự của ḿnh tha thiết bày tỏ với chàng, hy vọng hoàng tử chấp thuận t́nh cảm của ḿnh. Nhưng hoàng tử Câu Na La xưa nay vốn phụng tŕ Phật pháp, chàng biết đây là vương phi của phụ hoàng, tuy nàng c̣n trẻ tuổi nhưng về phương diện thứ bậc th́ nàng ở vai mẹ chàng. Chàng là người biết trọng đạo lư, tuyệt đối không bao giờ có thể làm một chuyện vô luân điên đảo như thế nên không hề động ḷng. Cho nên khi người vương phi nhan sắc mỹ miều kia đem t́nh ái ra bày tỏ với chàng, th́ không những chàng không chấp thuận mà c̣n dùng lời lẽ dịu dàng ra khuyên bảo nàng không nên nghĩ đến những chuyện như thế nữa.
Người vương phi quá si t́nh, không đạt được ư nguyện, vừa buồn vừa xấu hổ nên giận dữ mà sinh tâm oán hận, bất chấp tất cả, mướn người độc ác đến khoét mắt hoàng tử trước khi giết chàng đi.
Khi mọi người nghe tin này, ai nấy đều kinh hoàng. Làm sao một người hiền lành, thân thiết như hoàng tử lại chịu một số phận bất hạnh như thế. Mọi người do đó bèn đi t́m một vị tỳ kheo có thần thông để thỉnh giáo. Tôn giả trả lời:
- Trong những kiếp sâu xa về trước, tại thành Ba La Nại có một người thợ săn săn thú để sinh sống. Có một năm nọ, tiết trời lạnh lẽo, người thợ săn lên núi săn bắn, tới một nơi đó, ông phát giác ra một hang động, có rất nhiều nai trú lạnh trong ấy. Từ đó, mỗi ngày ông đến cửa động săn một con nai đem về nhà, trước hết ông móc mắt nai, sau đem nai đi giết. Cứ như thế trong suốt hơn một năm trời, bầy nai đáng thương kia, từ từ bị giết không c̣n một con.
Do nhân duyên sát sinh ấy, đời này sang đời khác ông chịu quả báo bị khoét mắt trước khi bị giết. Hoàng tử Câu Na La hôm nay, chính là ông thợ săn thời ấy.
Tôn giả nói xong, mọi người vẫn c̣n chỗ nghi hoặc, hỏi thêm:
- Bạch tôn giả, đă là một người thợ săn đáng ghét như thế, th́ làm sao lại được sinh ra trong một gia đ́nh cao quư làm hoàng tử? Xin thỉnh tôn giả từ bi thuyết giải cho chúng tôi hiểu.
- Ông ta sinh ở hoàng cung là do một nhân duyên khác. Lúc ấy, khi Đại Phật Ca La Ca diệt độ rồi, th́ vua của quốc gia ấy mới mời người đến khắc tôn tượng của Như Lai để tỏ ḷng tôn kính Tam Bảo, rồi c̣n xây bảo tháp cúng dường tôn tượng. Nhưng về sau có một hôn quân không tin Tam Bảo, ra lệnh hủy hoại bức tượng Như Lai. Trong nước ấy có một ông thợ nặn tượng, thấy ông vua vô đạo như thế rất buồn khổ, nên phát nguyện đem bức tượng Phật về tu sửa lại trang nghiêm như cũ.
Người thợ điêu khắc cũng chính là tiền kiếp của thái tử Câu Đa La, do công đức tu sửa tượng Phật mà kiếp này được sinh vào nhà của vua, nhưng v́ cái nghiệp sát sinh trước chưa hết, nên vẫn c̣n phải chịu quả báo.
Những lời giảng của tôn giả đă làm tăng trưởng ḷng tin nhân quả của mỗi người, có nhân như thế th́ sẽ thọ quả báo như thế, ḿnh làm th́ ḿnh phải chịu, đó là một chân lư, không ai chịu khổ thế cho ai cả!
https://i.ibb.co/xsJwcfZ/69229-325885167547705-209765681-n.jpg
A LA HÁN ĂN MÀY
Giáo pháp của Đức Phật vô cùng b́nh đẳng, không có sự chênh lệch giai cấp, không có sự sai biệt giàu nghèo.
Lúc Đức Phật thuyết pháp tại Kỳ Viên tinh xá, đến bữa ăn là phải ôm bát ra ngoài hành hóa. Lúc Ngài khất thực, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, khôn ngu, đẹp xấu, Ngài xem tất cả đều b́nh đẳng khiến cho nhà nào cũng có được cơ hội gieo trồng hạt giống phúc đức.
Mỗi khi Đức Phật dẫn đầu đoàn đệ tử đến thành Xá Vệ khất thực, th́ sau lưng Ngài có rất nhiều người ăn mày đi theo. Nhờ uy đức của Đức Phật, họ cũng được mọi người phát tâm từ bi bố thí.
Thời gian chầm chậm trôi qua, những người hành khất trong thành Xá Vệ nhờ thế mà kéo dài được mạng sống hạ tiện của họ. Có một hôm, người đầu sỏ trong đám ăn mày ấy nói với đồng bạn rằng :
- Chúng ta thuộc về hạng chúng sinh bị tội khổ, tuy nương dựa vào ánh sáng từ bi của Đức Phật để được mọi người bố thí mà kéo dài mạng sống, nhưng cứ tiếp tục như thế này măi chẳng bao giờ đi tới đâu. Tôi thiết nghĩ rằng, hay là tất cả mọi người trong bọn chúng ta kéo nhau đến chỗ của đức người xin xuất gia, y Pháp mà tu hành, tương lai không phải là được giải thoát cả hay sao? Các bạn nghĩ như thế nào?
Tất cả mọi người trong đám ăn mày đều tán thành ư kiến này, thế là họ kéo nhau đến Kỳ Viên tinh xá , cầu xin Đức Phật cho họ xuất gia để tiêu trừ tội khổ.
Đức Phật nói:
- Pháp của ta b́nh đẳng, bất kể kẻ trí hay người ngu, người sang hay kẻ hèn, ai cũng có thể được truyền trao giáo pháp, được pháp quang chiếu rọi. Pháp của ta là pháp thanh tịnh, người tốt hay xấu ai cũng có thể bỏ sự Ô uế để được trong sạch, hồi phục lại chân tính căn bản. Hôm nay cái ông xin xuất gia, đó là do thiện duyên của các ông, các ông chỉ cần tuân theo giáo pháp của ta th́ ta cho phép các ông gia nhập tăng đoàn, thành những vị tỳ kheo.
Các vị hành khất nghe Đức Phật nói xong hết sức vui mừng, cạo hết râu tóc và khoác pháp y vào. Từ đó họ nỗ lực ra công, diệt trừ tham sân si trong tâm, hiểu rơ căn nguyên của sinh tử, nên có nhiều vị đă chứng được quả A La Hán.
Lúc Đức Phật cho phép đoàn người hành khất xuất gia, trong dân chúng có rất nhiều người nghi ngờ, vẫn c̣n ôm giữ tà kiến nên dùng lời oán than phản đối, cho rằng tăng đoàn vốn tôn quư thanh tịnh, không nên để cho bọn ăn mày ấy được phép gia nhập. Quan niệm giai cấp trong đầu những người này hăy c̣n rất nặng nề.
Có một hôm, thái tử Kỳ Đà làm một cỗ chay cúng dường Đức Phật và chư tăng, nhưng ông dặn rơ ràng rằng:
- Thế Tôn! Ngày mai con rất hoan hỉ mà cung thỉnh đức Phật và chư tăng đến nhà con thọ cúng, nhưng không có chỗ cho mấy ông tỳ kheo hành khất nọ, xin Thế Tôn đừng mang họ theo.
Ngày hôm sau, lúc lên đường đến nhà thái tử Kỳ Đà thọ cúng, Đức Phật nói với các vị tỳ kheo đă có thời làm hành khất nọ :
- Hôm nay ta nhận lời thỉnh của thái tử Kỳ Đà đến nhà ông ấy dùng cơm. Các ông hăy đi về phía bắc, đến nước Uất Đan Việt, hái thức ăn như lúa canh v.v... tới nhà thái tử Kỳ Đà rồi tùy ư t́m chỗ mà ngồi ăn.
Các vị tỳ kheo hành khất hiểu ư của Đức Phật, tuân lệnh lên đường. Họ dùng thần thông nên đến nước Uất Đan Việt trong nháy mắt, hái đầy b́nh bát lúa canh đă chín mang về. Về tới chỗ, họ làm thành một nhóm 500 người, xếp hàng thành chữ "nhất", từ không trung bay xuống, uy nghi, chỉnh tề, trang nghiêm, khiến ai nh́n thấy cũng phải tỏ ḷng tôn kính tán thán. Khi họ đến cung điện của thái tử Kỳ Đà, 500 người theo thứ tự an nhiên ngồi xuống, mỗi người mở bát lấy lúa canh mang theo mà dùng.
Thái tử Kỳ Đà nh́n thấy các vị tỳ kheo này rất lấy làm lạ, bèn hỏi Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, các vị đại A La Hán mới từ không trung bay xuống, thái độ uy nghi lẫm lẫm khiến ai nh́n thấy cũng phải tôn kính ấy, chẳng hay từ đâu mà đến? Thỉnh Phật từ bi nói nhân duyên của họ cho con được biết.
Đức Phật nh́n đại chúng, nh́n sang thái tử Kỳ Đà rồi sau đó mới nói một cách ôn ḥa:
- Thái tử Kỳ Đà! Ông hăy nghe ta nói: các vị tỳ kheo ấy chính là những vị tỳ kheo hành khất mà hôm qua ông nhất định không muốn cúng dường. V́ ông không mời họ nên hôm nay họ phải đến nước Uất ĐanViệt hái lúa canh đă chín mang về đây dùng.
Thái tử Kỳ Đà nghe thế lấy làm vô cùng xấu hổ, biết ḿnh đă có lỗi khinh mạn và tà kiến, buồn rầu hối hận mà tự trách rằng:
- Con thật là ngu si, không biết đâu là thánh đâu là phàm, có mắt đứng trước núi Thái Sơn mà không thấy, thật là đáng tội!
Nói xong vội vàng bày bàn cỗ thức ăn, thỉnh 500 vị La Hán vào bàn rồi hỏi Đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, 500 vị La Hán được Phật giáo hóa không lâu đă chứng đắc quả vị, ĺa khổ được vui. Đă được một phúc báo to lớn như thế, th́ tại sao lúc ra đời lại sinh ra trong nhà hạ tiện? Thỉnh Thế Tôn từ bi khai thị cho con!
Đức Phật nắm lấy cơ hội này mà giảng giải cho đại chúng nghe:
- Ngày xưa thật là xưa, có một thế giới to lớn gấp bội lần thế giới hiện tại của chúng tạ Trong thế giới ấy có một quả núi cao, trên ấy có nhiều vị tu hành và tiên nhân tu đạo cư ngụ. V́ thế người ta bèn đặt tên cho quả núi ấy là Tiên Sơn.
Trong núi, lúc ấy có hơn 2 000 vị tu đạo sinh sống, vị nào cũng đă chứng quả thánh.
Có một năm, trời không mưa trong một thời gian rất lâu nên nạn hạn hán lan tràn, không có cách nào canh nông trồng trọt trên núi, v́ thế đời sống trở nên vô cùng khó khăn. Vừa may có một nhà buôn cự phú tên là Tán Đàn Ninh, làm cỗ cúng dường hơn 2 000 vị thánh nói trên. Vị trưởng giả rất thành tâm, không hề có ư niệm lẫn tiếc nào, c̣n bảo mấy trăm gia nhân trong nhà phải mỗi ngày phục dịch hầu hạ các vị thánh nhân ấy. Ban đầu th́ những gia nhân này làm việc hăng hái chăm chỉ, nhưng về sau họ đâm ra chán nản, thốt những lời trách oán, thái độ càng ngày càng lơ là, lười biếng. Nhưng trưởng giả Tán Đàn Ninh không hề hay biết ǵ về sự việc này.
Một hôm trời đổ mưa, nhà nông vui mừng như bắt được vàng. Hai ngàn vị thánh nhân lên núi trở lại lo việc làm ruộng, trưởng giả cũng bảo gia nhân bắt đầu gieo hạt. Mọi người lấy nông cụ ra, từ sáng đến tối ngoài đồng làm việc, lúa mạch, lúa ḿ, đậu, ngũ cốc v.v... không đâu là không có. Những ǵ họ khổ công gieo trồng mọc lên rất mau, chín vàng, ra quả to như quả dưa. Trưởng giả rất vui mừng, bảo họ phải cố gắng thêm, tưới tẩm thêm, bón phân thêm, đến lúc gặt hái th́ thu hoạch càng thêm phong phú, kho vựa đầy ăm ắp. Chỗ c̣n dư th́ đem chia cho mọi người và bố thí cho dân chúng trong nước.
Lúc ấy, những người đă phục dịch thánh chúng lúc trước cảm thấy ân hận, xấu hổ, biết lỗi của ḿnh nên từ đó phát nguyện "mấy trăm người chúng ta đây, lúc trước đă tạo khẩu nghiệp, bây giờ biết sám hối sửa lỗi, từ bây giờ trở đi nguyện làm nhiều việc thiện, phụng sự người khác, cầu mong kiếp tới gặp được thánh hiền, tu hành giải thoát".
Thái tử Kỳ Đà! Mấy trăm người làm công ấy, v́ đă tạo khẩu nghiệp nên kiếp này phải chịu cái khổ sinh ra làm ăn mày. Nhưng nhờ biết hối lỗi, nên nửa quăng đời c̣n lại họ đă được gặp Phật. Trưởng giả Tán Đàn Ninh chính là ta trong kiếp trước. Nhờ những nhân duyên như thế nên kiếp này họ mới được độ.
Đức Phật nói xong, thái tử Kỳ Đà và những người cùng nghe đều hoan hỉ không kể xiết, tất cả đều phát tâm chuyên cần tu hành, sám hối tội lỗi, cầu được vô thượng Bồ Đề.
https://i.postimg.cc/y6MrMLqj/1044668-328008234002065-1023154106-n.jpg
CÔNG CHÚA LỘT XÁC
Vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát Di La ở Ấn Độ, là một ông vua nhân từ, gần gũi dân chúng, hết ḷng chăm lo việc nước và trị v́ quốc gia rất khéo léo. V́ thế tên của vị vua hiền này lan xa khắp bốn phương, ai ai cũng ngưỡng mộ. Nhưng ngay bản thân ông, có một điều làm cho ông vô cùng buồn tiếc.
Vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu tức là Mạt Lợi phu nhân sinh được một cô con gái tên là Ba An Lạ Công chúa Ba An La bất hạnh nên sinh ra đă vô cùng xấu xí, da dẻ sần sùi, khó coi giống như quỷ Dạ Xoa mẫu không khác. V́ sợ bị chê cười nên vua dặn ḍ người trong cung phải cẩn thận giữ ǵn, người ngoài không ai được thấy mặt công chúa. V́ thế công chúa bị nhốt trong cung cấm từ nhỏ, chưa hề gặp mặt một người lạ nào.
Tuy mặt mày cô xấu xí nhưng dầu ǵ cô cũng là con gái của Mạt Lợi phu nhân vốn là một hoàng hậu nhân từ, thương người, nên không ai dám coi thường cô và lơ là trong việc chăm sóc cho cô.
Con người sống trên dương thế ví như khách lên xe và xuống xe : lúc nhảy lên xe là lúc bắt đầu cuộc sống, và cứ thế cho đến lúc xuống xe là lúc trút hơi thở cuối cùng. Trong khoảng giữa, con người sẽ phải sống qua mọi nỗi vui buồn thương ghét của cuộc đời ḿnh. Một khi xe chuyển bánh là cứ hướng thẳng về phía trước mà chạy không bao giờ ngừng, mỗi phút mỗi giây đưa khách dần dần về tới trạm chót. Khách lên xe, không cần biết là giàu hay nghèo, quư phái hay hạ tiện, đẹp hay xấu, khôn hay ngu, không ai là không phải trải qua cái lúc lên và xuống xe ấy. Công chúa Ba An La, con gái của Mạt Lợi phu nhân cũng theo ḍng tiến hóa của thời gian mà trưởng thành. Khi cô tới cái tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất của đời người con gái, nhưng với một khuôn mặt như thế, vua Ba Tư Nặc rất lấy làm lo lắng cho việc hôn nhân của cộ Con gái lớn phải có chồng, dầu sao công chúa cũng không thể vĩnh viễn sống cô quạnh ở chốn thâm cung. Nhưng điều làm cho vua và hoàng hậu khó xử nhất chính là địa vị của ḿnh : đường đường là vua của một nước mà lại không thể gả công chúa cho người ḿnh chọn. Vua và hoàng hậu bàn bạc măi về vấn đề này nhưng không t́m ra được một giải pháp nào khả dĩ gọi là tốt đẹp. Cuối cùng, họ chỉ c̣n cách bí mật gởi sứ giả đi ra ngoài thành ḍ xét, xem có nhà nào có con trai thuộc hạng danh gia vọng tộc nhưng cảnh nhà sa sút, đời sống khó khăn khiến người con trai ấy không thể kiếm vợ, đưa người thanh niên ấy về cung. Vài ngày sau, sứ giả đưa về một thanh niên quần áo rách mướp nhưng mặt mũi sáng sủa thanh tú. Vua thay đổi thường phục, ra vườn sau gặp người này ở một nơi vắng vẻ và nói:
- Nói thật với ngươi, ta có một đứa con gái đă đến tuổi lấy chồng nhưng rất xấu xí. Nếu ngươi ưng thuận th́ ta sẽ gả công chúa cho ngươi, bù lại ta sẽ cung ứng tất cả các thứ như nhà cửa, ăn uống vật dụng cho hai người sau này. Vậy ư kiến của ngươi ra sao?
Người thanh niên nghe nhà vua nói thế bèn quỳ xuống đất khấu đầu trả lời:
- Tâu bệ hạ, tổ tiên hạ thần tuy thuộc gịng hào phú, nhưng nay cảnh nhà đă sa sút nhiều. Bệ hạ không ghét bỏ, giả như có đem tỳ nữ gả cho hạ thần, hạ thần c̣n phải mang ơn mà bái tạ thay, huống hồ bệ hạ có ḷng thương đem công chúa gả cho hạ thần, th́ hạ thần đâu có lư do ǵ mà không tuân lệnh!
Bao nhiêu ưu tư từ bao nhiêu năm nay, vua Ba Tư Nặc coi như đă giải quyết xong v́ con gái của ḿnh đă có nơi nương tựa. Mọi sự quyết định đâu đó rồi, vua bèn xây cho công chúa một toà cung điện tráng lệ, phía trong có 7 lớp cửa. Các lớp cửa này sẽ được khóa chặt măi măi, ch́a khóa sẽ do pḥ mă đeo trong thân không lúc nào rời. Trong nhà có khoảng trăm cô nô tỳ, nhưng ai ở đâu th́ phải ở măi đó, người trong nhà không được đi ra ngoài và người từ bên ngoài cũng không được vào trong, mọi chi phí trong nhà đều do hoàng cung đài thọ. Lại sợ pḥ mă bị người ta coi thường nên vua c̣n phong cho pḥ mă một tước vị cao quư. Tới đây th́ nhà vua coi như mọi vấn đề đă được giải quyết ổn thỏa.
Ở Ấn Độ thời ấy, có phong tục là những người nhà giàu phải luân phiên nhau tổ chức một buổi lễ họp mặt hằng tháng, gọi là "ngu lạc hội" và mời nhau đến tham dự để cùng nhau gặp gỡ, liên kết cảm t́nh.
Trong các buổi lễ ấy, ai ai cũng đều có đôi có cặp, chỉ riêng pḥ mă là lúc nào cũng đến một thân một ḿnh. Sau hơn một năm trời, mọi người đều thấy như có điều chi khả nghị Họ nghĩ rằng pḥ mă và công chúa kết hôn chưa được bao lâu, không lẽ t́nh cảm đă sứt mẻ rồi hay sao? Hay công chúa sợ bị người khác nh́n thấy? Vậy th́ chắc công chúa phải là một tuyệt sắc giai nhân, hay là quỷ dạ xoa đội lốt, nếu không th́ tại sao chưa ai được thấy mặt bao giờ? Họ muốn biết công chúa là người như thế nào nên bèn nghĩ ra một kế : trong một buổi ngu lạc hội, mọi người đặc biệt chăm sóc pḥ mă. Lúc uống rượu, họ bày ra cuộc chơi đố rượu (ai thua th́ phải uống rượu phạt), và họ gạt pḥ mă uống rượu cho đến say mèm. Sau đó họ lục trong người pḥ mă lấy xâu ch́a khóa và một số người được cử đi đại diện, chạy bay đến cung điện để nh́n mặt công chúa.
Lúc đó, công chúa An Ba La bị cấm cung, theo lệ thường chờ chồng đi dự hội, một ḿnh ở nhà âu sầu áo năo. Cô tự hận ḿnh đă tạo tội nghiệp đời trước nên bây giờ mới bị vua cha giam cầm, bị chồng ghét bỏ, suốt đời bị nhốt trong cung cấm, không bao giờ được thấy ánh mặt trời, không bao giờ được thở không khí trong lành. Sống một cuộc đời đen tối như thế, th́ hỏi sống có ư nghĩa ǵ? Nghĩ đến đây, nước mắt cô như một gịng châu tuông lả chả. Bỗng cô nhớ lại lời dặn của mẹ "Đừng tuyệt vọng, nghiệp chướng có sâu dày tới đâu đi nữa, chỉ nên thành tâm cung kính Tam Bảo khẩn cầu sám hối. Đức Phật từ bi thường làm lợi ích chúng sinh, có thể giải trừ khổ nạn".
Câu nói của mẹ cô đă làm cho công chúa khởi lên một niệm thiện tâm chí thành. Mỗi khi chồng cô đi ra ngoài, cô lại bày hương án hướng lên không trung lễ bái, thiết tha khẩn cầu sám hối, xin cho ḿnh có thân tướng đẹp đẽ để được thấy ánh mặt trời. Ngay lúc đó, một luồng quang minh tỏa sáng và kim thân Đức Phật hiện ra trước mắt cộ Nh́n hào quang tướng hảo của Đức Phật, công chúa vui mừng, ḷng tôn kính lại càng gia tăng bội phần, cô phủ phục xuống đất quỳ lậy, nước mắt tuông thành ḍng, cầu xin Thế Tôn:
- Duy nguyện Phật tổ từ bi thương xót con, khuyên dạy con, phá trừ nghiệp chướng cho con, giải thoát con ra khỏi cảnh thống khổ đang trói cột. Con nguyện từ nay trở đi, đời đời kiếp kiếp hộ tŕ Tam Bảo.
Công chúa cầu xin như thế xong, ngước mắt lên chiêm ngưỡng thánh nhan, từ quang của Đức Phật chiếu sáng tâm cang của cô.
Thật là bất khả tư ngh́, ngay lúc ấy, khuôn mặt xấu xí của công chúa từ từ trở nên xinh đẹp thanh tú, làn da sần sùi đen đúa trở nên mịn màng phơn phớt hồng. Từ khuôn mặt, thân thể, chân tay, toàn thân công chúa Ba An La đă thay đổi, bây giờ tướng mạo cô tuyệt diệu y như một thiên nữ cung trời. Đức Phật ở trên không trung c̣n thuyết pháp cho công chúa nghe, khiến tinh thần cô phấn chấn lên, bao nhiêu buồn thảm trước kia tan biến hết. Công chúa hân hoan sung sướng và an ḷng rồi, Đức Phật c̣n dạy thêm:
- Ba An La công chúa! Bây giờ tuy công chúa tuy đă chứng quả Tu Đà Hoàn, nhưng vẫn phải tăng gia tinh chuyên tu tŕ. Kiếp người ngắn ngủi lắm, ta mong công chúa đừng để cuộc sống luống qua vô ích.
Đức Phật nói xong liền từ từ biến mất trong bầu không gian xa thẳm. Công chúa không c̣n phiền năo âu sầu, ḷng sùng kính tin tưởng vào Đức Phật tăng thêm gấp bội.
Bây giờ nhắc đến những người đă lén lấy ch́a khóa cung điện, giả mạo thừa lệnh pḥ mă mở từng lớp từng lớp cửa để vào tới thâm cung. Trong tay họ có cầm xâu ch́a khóa nên họ không gặp trở ngại nào và cứ thế đi thẳng vào gian nhà sau cùng. Họ nh́n qua khe cửa, thấy công chúa như phóng ánh sáng, xinh đẹp như một thiên nữ nên rất lấy làm kinh dị, không hiểu tại sao trên trần thế lại có thể có người nhan sắc tuyệt vời đến như thế! Họ không dám nấn ná lâu, khóa kỹ lại các lớp cửa rồi vội vàng quay trở về. May quá pḥ mă chưa tỉnh, họ trả ch́a khóa về chỗ cũ rồi đem những ǵ đă thấy ra kể cho mọi người nghe khiến ai nấy đều xôn xao bàn tán.
Hôm ấy, như mọi lần, pḥ mă về nhà thật khuya. Nhưng khi vào tới lớp cửa thứ bảy, ông kinh dị thấy một mỹ nhân đang ngồi bên giường.
- Cô là ai? Làm sao cô vào được nhà của chúng tôi? Công chúa đi đâu rồi?
- Phu quân không nhận ra thiếp cũng phải. Thiếp chính là Ba La An công chúa, vợ của phu quân đây!
Công chúa mỉm cười, tha thướt yêu kiều tiến tiến đến gần pḥ mă nhưng pḥ mă lùi lại mấy bước, hoang mang không hiểu chuyện ǵ đă xảy ra. Công chúa bèn đem chuyện gặp Đức Phật ra kể cho pḥ mă nghe, rồi nói:
- Từ khi sinh ra đến giờ, thiếp chưa từng được thấy mặt bố mẹ một cách kỹ càng nên thiếp rất ao ước được gặp bố mẹ. Phu quân hăy v́ thiếp mà về cung trước, xin phép phụ vương cho thiếp được diện kiến.
Dĩ nhiên pḥ mă hoan hỉ thực hành ngay lời yêu cầu của công chúa. Nhưng nhà vua vừa mới nghe nói công chúa đ̣i gặp liền cau mày, tỏ vẻ khó xử:
- Thôi khanh hăy về giữ cửa cho kỹ, nói với công chúa bỏ ư nghĩ ấy đi, đừng đi ra ngoài.
Pḥ mă biết ngay tại sao nhà vua cự tuyệt lời thỉnh cầu của công chúa nên đem chuyện công chúa lột xác cải dạng kể cho vua nghe. Vua nghe xong vô cùng mừng rỡ, lập tức gởi xe hoa và cung nữ đi nghênh tiếp công chúa hồi cung.
Sự thay đổi toàn diện của công chúa khiến cho nhà vua, hoàng hậu và pḥ mă vui mừng không kể xiết. Họ biết hạnh phúc gia đ́nh này hoàn toàn nhờ tâm từ bi của Đức Phật, nên để báo Phật ân, họ đến Kỳ Viên tinh xá với rất nhiều phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Vua Ba Tư Nặc đảnh lễ Đức Phật xong, chắp tay bạch:
- Bạch Thế Tôn, xin Ngài từ bi khai thị cho chúng con! Con gái chúng con đă tạo nghiệp ǵ mà kiếp này tuy được sinh ra nơi vương cung thọ hưởng mọi điều phú quư, nhưng lại xấu xí đen đúa như thế? Ngưỡng mong Thế Tôn giải thích cho chúng con nỗi thắc mắc này.
Đức Phật bèn đem chuyện quá khứ ra kể:
- Con người sinh ra đời, đẹp đẽ hay xấu xí đều do nghiệp quá khứ mà ra. Tội báo hay phúc báo đều như bóng theo h́nh, không có điều ǵ là ngẫu nhiên cả. V́ thế phải nói lư nhân quả báo ứng không mảy may hư dối, sai trật.
Trong quá khứ nước Ba La Nại là một quốc gia phồn thịnh, nơi ấy có một vị trưởng giả rất giàu, giàu đến nức đố đổ vách. Ông có tâm từ thiện và biết cung kính Tam Bảo, v́ thế nên thường xuyên mời người xuất gia đến nhà cho ông được cúng dường. Trong số những người này, có một vị đă chứng quả A La Hán là hay lui tới nhất. Vị này chuyên tu khổ hạnh, thấy rơ lư vô thường khổ không trong thế gian nên rất lơ là trong vấn đề ăn mặc. Ông chỉ khoác trên thân một tấm cà sa rách nát, không biết mặc đă bao nhiêu năm mà vá trước rách sau, không có chỗ nào là lành lặn, coi được. V́ ông tiều tụy rách rưới như thế nên cô con gái ông trưởng giả rất chán ghét ông. Vốn là một thiên kim tiểu thư, nên trong vấn đề ăn mặc, cô chỉ dùng những thứ sang trọng đẹp đẽ nhất. V́ thế nên h́nh tướng xấu xí của vị A La Hán khiến cô khởi tâm khinh bỉ, cho đến nỗi có lúc cô đă thốt lời nhục mạ vị này.
Vị A La Hán tuy biết rơ điều ấy nhưng vẫn tiếp tục lui tới nhà cô nhận lănh cúng dường trong mấy năm liền. Một hôm, vị La Hán ấy lại đến nhưng dùng cơm xong, ông liền bay lên hư không, thị hiện thần thông biến hóa đủ cách. Từ người ông, giữa hai lông mày phóng lửa và nước, hoặc ông nằm ngang giữa hư không mà không rơi xuống đất. Người nào nh́n thấy sự thị hiện kỳ diệu xuất thần như thế cũng thích thú kính phục. Cô tiểu thư con gái ông trưởng giả từ trước đến nay vốn coi thường vị La Hán, nay thấy thần thông vi diệu của ông bèn sinh ḷng kính trọng, không ngờ một vị xuất gia với cái bề ngoài xấu xí ấy lại có công phu tu hành to lớn đến dường ấy, không thể nào trông mặt mà bắt h́nh dong được! Trước kia cô thật đă tỏ ra ngu xuẩn, thường xuyên oán trách một vị thánh tăng như thế, đúng là tội tày trời đáng chết! Cô bèn quỳ xuống đất nh́n lên vị A La Hán trên không trung mà sám hối, xin ngài khoan thứ cho cái tội ác khẩu kiêu mạn của ḿnh trong quá khứ. Vị A La Hán trên không trung nh́n thấy cô tiểu thư đang sám hối như thế, chỉ mỉm cười nhẹ gật đầu, rồi biến mất trong nháy mắt. Từ đó vị A La Hán ấy không c̣n đến nhà ông trưởng giả nhận cúng dường nữa. Cô tiểu thư nọ cũng từ đó thường lập đàn trai cúng dường chư tăng, làm việc thiện, bố thí rộng răi để sám hối tội ác của ḿnh lúc trước.
Trích từ truyện Phật Giáo.
Đại vương, cô tiểu thư thời ấy chính là Ba An La công chúa hôm naỵ V́ cái tội khinh mạn thánh tăng trong quá khứ nên sinh ra xấu xí khó coi, nhưng lại nhờ biết cúng Phật kính tăng nên được sinh ra trong vương gia, lại được gặp Phật để lột xác biến h́nh.
Lời nói của Đức Phật khiến tín tâm của đại chúng tăng tiến thêm lên. Họ không c̣n một mảy may tâm niệm nghi ngờ công đức và phước báo của việc cúng dường và tôn kính Tam Bảo.
https://i.postimg.cc/nhjNW21Y/15961-330013317134890-1305258933-n.jpg
ÁC QUỶ
Đời xưa có một người tốt bụng, thích làm việc thiện, và cũng là một vị Phật tử thuần thành. Ông thường thường lập đàn trai trong nhà để cúng dường chư tăng, cho nên thường thân cận nhiều vị thiện tri thức và các vị cao tăng.
Nhà ông ở ngay ven bờ sống Hằng, cách thành Xá Vệ chừng 30 dặm đường. V́ ông là người từ thiện, thích bố thí, nên người ở xa tới đâu cũng đến xin ông cứu giúp, và họ chưa bao giờ trở về tay không, v́ thế nên người người xa gần đều tán thán ông. Nhưng ông lại có một người cha chỉ thích kiếm tiền một cách bất thiện, lăo làm cái nghề táng tận lương tâm là mổ lợn bán thịt. Dầu con của lăo vẫn thường hay khuyên can nhưng lăo không hề có chút kiêng dè, trái lại c̣n trách con sao lại hay lập đàn trai cúng dường, sao lại thường cứu giúp người cùng khốn.
Bước tiến của thời gian chính là sự thử thách tốt nhất của cuộc đời, v́ sau một thời gian dài, tội ác nào của con người cũng đều được phơi bày ra hết. Hành vi sát sinh của ông lăo nọ đồn tới tai mọi người rất mau, ai cũng thấy rằng lăo không nên tạo nghiệp sát như thế nữa. Rất nhiều vị tỳ kheo thường hay qua lại nhà lăo cũng biết được việc này, cũng muốn đến khuyên can lăo, nhưng v́ cả nể lại muốn giữ t́nh giao hảo, nên không ai dám mở miệng nói câu nào.
Không lâu sau, lăo sinh bệnh, và tuy mời nhiều vị thầy thuốc đến nhưng không ai chữa được, cho nên một buổi sáng sớm nọ, lăo ĺa đời trong một cơn đau đớn cùng cực.
Lăo chết rồi, v́ cái tội ác sát sinh nên đọa làm thân ác quỷ trên sông Hằng, đời có bao nhiêu thống khổ lăo đều phải chịu hết.
Có một hôm, các vị tỳ kheo vẫn được con trai lăo cúng dường lấy thuyền băng qua sông Hằng, ác quỷ bèn hiện ra nửa thân h́nh trên mặt nước đuổi theo bén gót, rồi chạy ra phía trước chận thuyền lại mà nói:
- Chúng bây là một phường tồi bại! Tao sẽ lật úp con thuyền này cho chúng bây chết ch́m hết không đứa nào sống sót!
Các vị tỳ kheo ngồi trên thuyền nh́n thấy con ác quỷ quái dị như thế đă lấy làm lạ rồi, nay c̣n nghe hắn tuyên bố những lời trên lại càng không hiểu ǵ hết. Trong số các vị ấy, có một vị tuổi cao hơn hết, đứng dậy hỏi:
- Nguyên do ǵ mà ngươi nói chúng ta là phường tồi bại? Tại sao lại c̣n muốn lật úp con thuyền chúng ta đang ngồi?
Ác quỷ lớn tiếng gầm lên trả lời:
- Lúc tao c̣n sống, con trai tao thường thường cúng dường chúng bây. Tao mổ lợn bán thịt, chúng bây biết tao làm việc phi pháp, mà không đứa nào răn bảo tao khiến bây giờ tao phải chịu bao nhiêu thống khổ như thế này. Tao muốn đ̣i mệnh chúng bây để chúng bây cùng chịu khổ với tao ở đây, có thế tao mới hả niềm căm hận!
Vị tỳ kheo lớn tuổi kia rất cảm thương mà trả lời rằng:
- Bây giờ ngươi đang chịu khổ, đúng là do nghiệp sát chiêu cảm! Ngươi nói muốn đoạt mệnh của chúng ta, nhưng làm như thế có ích lợi ǵ? Ngươi giết người, không phải chỉ có tác dụng làm cho nghiệp tội của ngươi thêm nặng mà thôi sao? Nếu ngươi bằng ḷng sám hối, chúng ta có thể giúp cho ngươi được siêu dộ.
Ác quỷ nghe ra và hiểu được những lời khuyên dạy của vị tỳ kheo, bèn ẩn thân bỏ đi. Con thuyền nhờ đó được thoát hiểm mà tiếp tục đoạn đường.
Về đến nhà, các vị tỳ kheo ấy cùng người con trai của ác quỷ làm công đức hồi hướng và cầu siêu cho hắn.
Dựa vào pháp lực của Đức Phật, con ác quỷ được siêu sinh lên cơi trời, hưởng những phúc lạc của thiên giới.
https://i.ibb.co/sHtq015/1069947-331774116958810-1395876008-n.jpg
7- CÁI CHẾT CỦA ĐẠI MỤC KIỀN LIÊN
Dùng trượng phạt không trượng …
Thế Tôn đă dạy câu trên tại Trúc Lâm, liên quan đến Đại Mục-kiền-liên.
Các ngoại đạo bàn tán với nhau không hiểu tại sao Sa-môn Cồ-đàm được nhiều phẩm vật cúng dường đến thế. Một người nói ḿnh biết lư do. Được như thế là Mục-kiền-liên, v́ Mục-kiền-liên lên cơi trời hỏi chư thiên đă tạo công đức ǵ, rồi trở về thế gian kể cho mọi người do làm điều này, điều nọ... rồi ông xuống địa ngục hỏi các tội nhân tại sao làm thế và cũng trở về thế gian kể lại do phạm tội như thế, như thế. Dân gian tin lời ông, nên đem nhiều phẩm vật đến cúng dường. Bây giờ nếu giết ông đi, th́ số phẩm vật đó sẽ về tay các ngoại đạo.
Họ đồng thanh cho là ư kiến hay. Sau đó họ quyên góp các thí chủ được một ngàn đồng, kiếm được một vài tên du đăng cướp bóc, thuê chúng đến Hắc Thạch giết Trưởng lăo. Chúng đến ngay nơi Ngàøi ở, bao vây. Ngài chui qua lỗ khóa trốn thoát. Chúng trở lại và bao vây nữa, Ngài chọc thủng mái nhà bay lên hư không. Suốt hai tháng, bọn du đăng làm đủ cách, nhưng vẫn thất bại. Đến tháng thứ ba, thấy quả báo do nghiệp ác đă tạo trong tiền kiếp đă đến, Ngài không cố gắng thoát đi nữa. Cuối cùng bọn du đăng bắt được Ngài. Chúng xé tay chân Ngài giă xương nát ra như hạt gạo, quăng hết vào bụi rậm rồi bỏ đi.
Trưởng lăo muốn đảnh lễ Thế Tôn trước khi nhập Niết-bàn, nên tự quấn ḿnh bằng định lực làm thân cứng lại, và bay lên không, đến gặp Phật, đảnh lễ và thưa:
- Bạch Thế Tôn, con sắp nhập Niết-bàn.
Phật hỏi:
- Tại đâu?
- Tại Hắc Thạch, bạch Thế Tôn!
- Vậy th́ hăy tụng pháp cho ta nghe trước khi đi, v́ từ nay ta sẽ không c̣n thấy lại đệ tử của ta nữa.
Mục-kiền-liên vâng lời. Trước tiên Ngài bay lên không, biến hóa thần thông như Trưởng lăo Xá-lợi-phất đă làm trước khi nhập Niết-bàn.
Tin bọn du đăng giết Mục-kiền-liên bay khắp miền Diêm-phù-đề. Vua A-xà-thế tức tốc phái do thám t́m thủ phạm. Bọn chúng đang nhậu nhẹt trong một quán rượu. Đứa này nện lưng đứa kia khiến nó té xuống đất. Rồi hai đứa chửi lộn:
- Tại sao mày đánh lên lưng tao? Làm tao té?
- Mày là đồ ăn trộm, du thử du thực. Mày là kẻ đầu tiên đánh Đại Mục-kiền-liên.
- Sao mày biết tao đánh?
Rồi nhiều tiếng nói hỗn độn:
- Chính tao đánh nè!
- Chính tao đánh nè!
Do thám của vua bắt hết cả bọn. Về triều chúng khai các đạo sĩ lơa thể chủ mưu. Vua bắt năm trăm đạo sĩ chung với năm trăm tên trộm bỏ xuống hố sâu đến thắt lưng đă đào sẵn trước sân hoàng cung, cho phủ rơm khắp ḿnh chúng, đốt đến cháy ḍn, xong cho cày sắt cày ra từng mảnh.
Các Tỳ-kheo bàn tán trong Pháp đường là Đại Trưởng lăo không xứng để chịu chết như vậy. Phật giải thích đó là ác nghiệp trong tiền kiếp. Và Ngài kể:
Chuyện quá khứ
ĐỨA CON GIẾT CHA MẸ
Ngày xưa, có một chàng trai rất có hiếu. Mọi việc trong nhà như giă gạo, nấu ăn... một tay anh làm hết, chí đến săn sóc cha mẹ anh cũng hết sức chu đáo. Thấy con quá vất vả, hai ông bà định cưới dâu để đỡ đần phần nào. Anh lắc đầu nguầy nguậy, chỉ muốn chính tay ḿnh hầu hạ cha mẹ mà thôi.
Nhưng hai ông bà cương quyết cưới vợ cho con, cuối cùng một cô gái trẻ được rước về nhà. Cô ta hầu hạ cha mẹ chồng chỉ được vài ngày, sau đó bắt đầu nói nặng nhẹ. Cô cứ cằn nhằn với chồng là không thể ở nổi nhà này nữa. Đợi anh đi vắng, cô lấy đất cục, váng cháo rải khắp nhà. Anh chồng về thấy nhà cửa tùm lum như thế, hỏi cô. Được dịp cô tru tréo lên:
- Cha mẹ già mù ḷa của anh làm đấy! Cứ vứt bừa, vứt băi ra thế! Tôi dọn muốn đứt hơi! Khổ thân tôi, làm sao mà tôi sống cho nổi!
Cô cứ than van, rên rỉ măi, khiến anh chồng bực ḿnh. Trước đây là người đàng hoàng, có hiếu, nay hết thương cha mẹ, và c̣n t́m cách đối xử ác đối với họ.
Anh gạt cha mẹ lên xe đi thăm bà con. Vào đến rừng sâu, anh trao dây cương cho cha, bảo chỗ này bọn cướp hay ŕnh rập, anh phải xuống xe, nhưng con ḅ đă rành đường, không lo. Anh đi xa một quăng th́ la hét ầm ĩ, càng lúc càng to, như thể bọn cướp sắp tấn công tới nơi. Hai ông bà nh́n quanh nh́n quất cũng chỉ thấy một màn đen tối, nhưng thương con, chỉ nghĩ đến hạnh phúc của nó, nên vội bảo:
- Con ơi! Cha mẹ già rồi, đừng lo nữa , mà hăy tự cứu lấy ḿnh.
Nhưng anh vẫn mặc kệ, giả làm bọn cướp hét đánh và giết hai ông bà, vứt thi thể trong rừng. Xong trở về nhà.
Thế Tôn kết luận:
- Các Tỳ-kheo! Mục-kiền-liên đă phạm trọng tội như thế. Ông chịu đau khổ vô số trăm ngàn năm ở địa ngục. Sau đó, v́ ác báo chưa hết, nên một trăm kiếp liên tiếp bị đánh chết thân xác xé tan từng mảnh. Do đó Mục-kiền-liên phải chịu chết như thế tương ứng với ác nghiệp kiếp trước. Cũng vậy năm trăm đạo sĩ lơa thể và năm trăm tên cướp đă tấn công người không gây hấn với chúng, phải chịu chết tương ứng với tội lỗi đó.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(137) Dùng trượng phạt kẻ không trượng,
Làm ác người không ác,
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ.
(138) Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ư tán tâm.
(139) Hoặc tai họa từ vua,
Hay bị vu trọng tội,
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.
(140) Hoặc pḥng ốc nhà cửa,
Bị hỏa tai thiêu đốt,
Khi thân hoại mạng chung,
Kẻ ác sanh địa ngục.
Trích từ trang Thiện Viện Thường Chiếu
https://i.ibb.co/fkwn8Pw/1385-332981656838056-1562812682-n.jpg
ĐÓI VÀ NO
Có một hôm, Đức Phật dẫn 500 vị tỳ kheo trên đường từ nước Tu Lại Bà đi về thôn Tỳ Lan Nhă, mới t́m chỗ trú ngụ trong một khu rừng ở ven đường.
Thôn trưởng của thôn Tỳ Lan Nhă ngày xưa vẫn tin tưởng phụng thờ đạo Bà La Môn, về sau nghe và biết được Đức Phật có đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thân phóng ánh sáng và diễn thuyết diệu pháp về vũ trụ nhân sinh, mới đổi qua tin tưởng Phật giáo.
Hôm ấy, nghe Đức Phật sắp đến thôn của ḿnh, bèn nắm lấy cơ hội ngàn năm khó gặp này đến khu rừng nơi Đức Phật đang an trụ, đảnh lễ mà thưa rằng:
- Thế Tôn, con là thôn trưởng của thôn Tỳ Lan Nhă cách đây không xa, nghe Đức Phật giáng lâm con vô cùng vinh hạnh. V́ thế con vội vàng đích thân đến đây cung thỉnh Thế Tôn và chư tỳ kheo đến thôn của con cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, con nguyện đảm trách tất cả mọi sự cúng dường, xin Đức Phật từ bi nhận lời!
- Ta biết ông có ḷng thành nhưng đệ tử của ta quá đông, ta không muốn làm gánh nặng cho ông, nên ta nghĩ tốt nhất là thôi vậy, không phiền đến ông.
- Thưa không đâu, bạch Thế Tôn! Tuy làng con rất nhỏ, nhưng con tin rằng cũng đủ sức để cúng dường Thế Tôn và chư tỳ kheo, xin Thế Tôn đừng bận tâm, dầu sao đi nữa cũng xin cho con được phép cúng dường.
Thôn trưởng một mực năn nỉ van xin, Đức Phật chỉ c̣n cách gật đầu ưng thuận. Thôn trưởng vui mừng cưỡi ngựa về làng lo chuẩn bị mọi thứ.
Ngoại đạo biết được chuyện này, vừa sợ hăi vừa oán hận, bèn dùng nữ sắc đưa vào nhà của thôn trưởng, bày hoa thơm cỏ lạ, hương thơm ngào ngạt, rồi lại bày cỗ bàn rượu thịt ê hề, thắp đèn ánh sáng mờ ảo, người đẹp như mây trời khiến thôn trưởng một khi bước chân vào nhà là tâm trí hoàn toàn ám độn. Trải qua một đêm, sáng hôm sau thôn trưởng căn dặn người nhà rằng:
- Đương lúc thiên hạ thái b́nh, từ hôm nay cho tới hết ba tháng mùa mưa ta sẽ ở trên lầu cao này nghỉ ngơi, bất cứ chuyện ǵ, dầu vui hay buồn ta cũng đều không muốn nghe đến.
Thôn trưởng bị lọt vào bẫy của ngoại đạo nên hoàn toàn quên bẵng chuyện phải tiếp đăi Đức Phật.
Nhân duyên của làng này đối với Đức Phật hăy c̣n cạn cợt, lại trúng nhằm một năm mà côn trùng làm hại mùa màng, cả làng bị sa vào cảnh thiếu thốn nên không có một người nào chịu bố thí cho Đức Phật hay chư Tỳ kheo một chút gạo hay một chút nước. Đức Phật và chư tỳ kheo chỉ c̣n biết nhẫn nhục chịu đựng ở phía bên ngoài thôn Tỳ Lan Nhă.
Lúc ấy có một người buôn ngựa dẫn theo 500 con ngựa từ nước Ba Lợi đi ngang qua đấy, thấy vậy bèn thưa với các vị tỳ kheo rằng:
- Con không có bao nhiêu lương thực để cúng dường quư thầy, chỉ có xác lúa mạch cho ngựa ăn, quư thầy có dùng được không?
- Chúng tôi rất cảm tạ thịnh t́nh của ông, nhưng chưa được Đức Phật hứa khả th́ chúng tôi không dám nhận thức ăn của ngựa. Xin đợi chúng tôi vào thỉnh ư Đức Phật rồi mới dám quyết định.
Đức Phật tán thán rằng:
- Đă lâm vào cảnh đói khát như thế này mà các ông c̣n ít mong cầu và biết đủ, không dám làm ngược lại lời giáo huấn của ta, ta rất an ḷng. Các ông có thể thọ nhận thức ăn của ngựa mà ông lái buôn cúng dường.
Lúc ấy các vị tỳ kheo mới nhốn nháo lên mà tiếp nhận thức ăn của ngựa. A Nan cũng được một phần, bèn đem lúa mạch ra nghiền thành bột ḥa với nước nấu thành cháo đem lên cúng dường Đức Phật. Các vị tỳ kheo cũng xay xác lúa mạch ra rồi nấu lên mà ăn.
Mục Kiền Liên thấy t́nh trạng đáng thương ấy bèn tâu lên Đức Phật rằng:
- Thế Tôn! Con suy nghĩ thật kỹ rồi, ở chỗ này không thể có thức ăn được, con muốn dùng thần thông đi chỗ khác mang ít lúa gạo về!
- Mục Kiền Liên! Không nên làm như thế. Tuy ông có thể dùng thần lực mang thức ăn về, nhưng nhân duyên túc nghiệp không thể trừ diệt được. Chỉ có nhẫn nhục là điều quan trọng nhất.
Mục Kiền Liên nghe lời chỉ thị của Đức Phật, cúi đầu lui đi.
Ba tháng nhẫn nhục chịu đựng cực khổ đă trôi quá, Đức Phật và chư tỳ kheo đói khát nên tiều tụy thấy rơ, nhưng dẫu bị đói khát bức bách đến đâu đi nữa, ḷng tin của các vị ấy vẫn không bị lay chuyển mảy may nào. Chư tăng đoàn kết, ḥa hợp biết bao!
Qua hôm sau, Đức Phật bảo A Nan:
- A Nan! Hăy cùng ta đi gặp thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhă xem sao!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhă đang ch́m đắm trong hoan lạc ngũ dục, vừa vặn đứng trên lầu cao nh́n xuống, thấy vẻ tiều tụy của Đức Phật và A Nan trên đường đi tới. Thoạt đầu ông hoang mang như thể không hiểu tại sao, rồi trong chớp mắt, ông thấy đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm. Chờ tỉnh táo lại, ông chạy như bay đến trước mặt Đức Phật, khóc lóc thảm thiết:
- Thế Tôn! Thật là đáng sợ! Con bị quỷ vương mê hoặc nên mới dám dối trá lừa gạt thánh nhân, con đă gieo trồng vô lượng vô biên hạt giống ác quả! Xin Thế Tôn từ bi lân mẫn con, con không hề muốn điều ấy xảy ra, xin cho con sám hối!
Đức Phật trầm tĩnh đáp rằng:
- Đúng vậy! Ông đă trồng hạt giống tội ác, thỉnh đại chúng mà không cúng dường, không phải là ngu si lắm sao? Nhưng ta đă thấy ông phát tâm lúc ban đầu ra sao rồi, nên nếu ông chân thành sám hối th́ chỉ có giá trị của sự sám hối ấy là đáng chú trọng mà thôi.
- Nay con đứng trước Đức Phật tối tôn mà sám hối, xin Thế Tôn quan sát tâm con, từ hôm nay trở đi xin cho con được cúng dường trong ṿng một tháng, cho con được lấy công chuộc tội.
- Thôn trưởng, ba tháng vừa qua ta an cư ở phía ngoài thôn này không hề dời chỗ. Bây giờ mùa mưa đă qua rồi, có rất nhiều chúng sinh đang chờ mong ta cứu độ, ngay hiện giờ ta đă nghe họ kêu gào tên ta, nên ta phải rời khỏi nơi này lập tức.
- Xin Thế Tôn niệm t́nh con!
Vừa nói, thôn trưởng vừa hướng cặp mắt van nài nh́n sang A Nan đang đứng gần bên Đức Phật, nói tiếp:
- Tôn giả A Nan! Xin ngài vào nói hộ con một tiếng! Ít nhất cho con được cúng dường ngày mai, làm một bữa cơm đạm bạc để tiễn biệt, và cho con cơ hội sám hối với chư tỳ kheo!
Đôi mắt từ bi của Đức Phật phóng ra một tia sáng thương xót, Ngài chấp thuận lời cầu xin cuối cùng của thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhă.
Suốt ngày và suốt cả đêm hôm ấy, thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhă đă chuẩn bị một bữa cơm tiễn biệt rất thịnh soạn, rồi hôm sau dùng tâm tri ân và tâm cung kính đi thỉnh mời Đức Phật và chư tỳ kheo vào thôn. Cơm nước xong, thôn trưởng đem bốn tấm y bằng vải rất đẹp, cùng một đôi dép cỏ cúng dường lên Đức Phật, và 2 tấm y vải cùng một đôi dép cỏ cúng dường mỗi vị tỳ kheo.
Thôn trưởng và tất cả mọi người trong thôn đưa tiễn Đức Phật và chư tỳ kheo, tay vẫy mà nước mắt ràn rụa, tự than rằng thiện căn của ḿnh quá mong manh nên không cúng dường được Đức Phật cho tử tế đàng hoàng.
Khi Đức Phật muốn ra đi th́ không có thế lực, không có lời nói nào có thể ngăn trở được Ngài. Cũng như khi Đức Phật không muốn đi, th́ khốn khó nào bức hại đi nữa, Ngài cũng có thể nhẫn nhục mà chịu đựng được.
Truyện Cổ Phật Giáo
https://i.ibb.co/XpnLxvb/1005454-333657466770475-904465577-n.jpg
VỌNG NGỮ GẶP NẠN
Lúc Đức Phật thuyết pháp ở thành Tỳ Gia Lê, có một người tên là Ca La Việt, được nh́n thấy tôn nhan của Thế Tôn hân hoan vô hạn, bèn thỉnh đức Phật đến nhà cho ḿnh có dịp thành tâm cúng dường. Khi Đức Phật đến và từ bi chú nguyện cho ông, Ca La Việt trân trọng đứng lên cung thỉnh Thế Tôn thuyết giảng ư nghĩa chân thật của Phật Pháp. Đức Phật mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra một luồng ánh sáng năm mầu rực rỡ, luồng ánh sáng này lập tức nhiễu quanh Ngài ba ṿng rồi mới ẩn vào đỉnh đầu của Ngài mà biến mất.
Ngài A Nan thấy thế, vội sửa y phục đến trước mặt Đức Phật mà bạch rằng:
- Thế Tôn! Phật không khi nào cười mà không có nguyên do. Hôm nay Thế Tôn cười, chắc là có điều ǵ muốn khai thị cho chúng con. Chúng con vô cùng ngưỡng mong được nghe Thế Tôn từ bi thuyết pháp.
Đức Phật lại cười mà đáp:
- Được rồi, A Nan! Ta biết ông lúc nào cũng vô cùng ngưỡng mong v́ chúng sinh mà vạch một con đường đưa đến giải thoát, cho nên bây giờ ta sẽ v́ ông mà thuyết giảng.
Cách đây rất lâu, tại một vương quốc nọ, có 500 người lái buôn chuyên đi đào quật các mỏ vàng ngọc châu báu. Có một hôm, họ vào biển sâu t́m kho tàng. T́m được kho tàng rồi, trên đường về, họ sợ gặp sóng dữ nguy hiểm nên mới bỏ thuyền mà đi trên đất liền. Ngày hôm ấy họ băng qua một ngọn núi cao, khi mặt trời đă ngả về Tây, mọi người nằm ngay xuống đất mà ngủ, hẹn nhau rằng hôm sau khi trời vừa hừng sáng th́ phải lập tức lên đường.
Quả nhiên, sáng sớm ngày hôm sau, 499 người thức dậy đúng giờ chuẩn bị hành trang xong xuôi là khởi hành ngay, chỉ có một người không ai nh́n thấy mà đánh thức nên c̣n nằm ngủ say ở đó. Khi người này mở mắt tỉnh giấc th́ đă lạc mất đồng bạn, cuống cuồng chạy ra đường núi những tưởng bắt kịp lại được đoàn người kia, nhưng đă muộn mất rồi! Người này chạy tới chạy lui, nhưng chạy đường nào đi nữa cũng không ra khỏi được dẫy núi quanh co hiểm trở.
Đúng ngay lúc ấy, gió bắc bỗng nổi dậy rít lên giận dữ, trong chớp nhoáng một trận cuồng phong thổi tới làm cho cát đá bay loạn xạ, từng tảng băng tuyết ào ạt rơi xuống, con đường núi trước mặt phút chốc đă bị băng tuyết phủ kín, không trông thấy đâu nữa.
Con đường về nay đă không c̣n, người lái buôn này tuyệt vọng ôm mặt khóc ṛng, nước mắt lả chả.
Trong những dẫy núi quanh co đó, có một cây chiên đàn hương, hấp thụ tinh hoa của trời đất từ lâu đời nên có được tánh linh và biến thành một vị thần cây. Thần cây biết được nỗi thống khổ của người lái buôn lạc đường nên phát tâm cứu giúp, đến trước người này mà nói rằng:
- Ông có thể tạm thời đến chỗ của ta mà ở, chuyện ăn uống, quần áo đă có ta lo liệu, chờ tới mùa xuân năm sau, băng tuyết tan rồi th́ sẽ t́m ra đường về, lúc đó hẵn tính.
Người lái buôn này đă đến bước đường cùng, nghe thế mừng rỡ vô cùng, từ đó bèn trú ngụ dưới gốc cây chiên đàn này.
Thời gian qua như tên bay, chẳng mấy chốc mùa xuân đă đến, băng tuyết đă tan, đường về đă hiện ra trước mắt, người lái buôn lạc đường mới nói với thần cây:
- Khi tôi cùng đường mạt lộ, hân hạnh được ngài cứu vớt mới sống sót được tới ngày hôm nay, chỉ hận là trong người không có vật ǵ để báo đáp ơn ngài. Bây giờ tôi c̣n chút cha già phải về phụng dưỡng, xin ngài vui ḷng đưa đường chỉ lối cho tôi về.
- Được, thần cây cười nói và đưa cho người này một cái bánh bằng vàng, ông cứ đi thẳng trước mặt th́ sẽ đến một ngôi thành nhỏ, cứ ven theo ngôi thành ấy th́ sẽ t́m được đường về nhà.
Nghe xong, người lái buôn lạc đường mới cáo biệt thần cây:
- Gốc cây này mùi hương ngào ngạt thanh khiết không ǵ sánh bằng, trên thế gian chắc chắn không có một gốc cây thứ hai như thế. Hôm nay tôi từ biệt ngài mà về chốn xa xôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ không được gặp lại ngài nữa, chỉ ao ước ngài vui ḷng cho tôi biết tên.
Thần cây trả lời :
- Ông hăy đi về đi, t́m biết tên ta mà làm ǵ.
Người lái buôn nói:
- Tôi rất là xấu hổ, lúc cùng đường gặp ngài nên được sống sót, tính lại hơn một trăm ngày đă trôi qua mà chưa báo đáp được mảy may nào công ơn to lớn của ngài, thật ra tôi không làm ǵ khác được là xin được biết quư danh để khi về tới nhà, tôi có thể kể cho người nhà biết đến công đức của ngài.
Thần cây thấy người lái buôn có vẻ thành thật, không nỡ từ chối hảo ư của người này nên thẳng thắn nói tên ḿnh là Chiên Đàn, nhưng dặn đi dặn lại mấy lượt:
- Rễ nhánh của ta tuy có thể trị được tất cả các loại bệnh của thế gian, mùi hương của ta bay ngát bốn phương trời, ở xa cũng có thể ngửi thấy, có thể nói là trên đời có một không hai. Nhưng nếu mọi người biết được sự hiện diện của ta, ḷng tham không đáy của họ sẽ khiến họ đến đốn ta mất. V́ thế, ta hy vọng ông sẽ không nói với ai chỗ ta ở.
Người lái buôn cám ơn thần cây rồi, đi theo lộ tŕnh thần cây chỉ dẫn, quả nhiên về được tới nhà của ḿnh. Sau đó ông sống những chuỗi ngày an vui hạnh phúc bên cạnh cha mẹ và vô số bạn bè thân thích.
Sau đó không lâu, nhà vua bỗng mắc bệnh đau đầu, uống thang thuốc nào đi nữa cũng vô hiệu, sau gặp một vị thầy thuốc có danh tiếng nói cho biết rằng chỉ có một phương thuốc mới chữa được bệnh của vua, đó là làm sao t́m cho ra một cây chiên đàn, lấy lá rán lên làm thuốc mà uống.
Nhà vua nghe thế, lập tức xuống chiếu nói rằng, hễ ai t́m được cây chiên đàn hương th́ sẽ được phong thưởng hậu hĩ, chưa kể c̣n được vua gả công chúa cho nữa.
Lệnh vua truyền xuống chẳng mấy chốc đă tới tai người lái buôn mới ngày nào đi lạc đường. Người này tuy mặt người nhưng ḷng thú, tâm tham dục quyến rũ không sao cưỡng được, nên quên bẵng ơn cứu mệnh và những lời căn dặn năm lần bẩy lượt của thần cây, lén lút chạy đi nói với nhà vua là ḿnh biết chỗ có cây chiên đàn. Nhà vua liền phái một đoàn vệ sĩ đi theo vị thương nhân để đốn cây chiên đàn mang về.
Thế là một đoàn người rầm rộ, ngày đi đêm nghỉ không ngừng ngày nào, quả nhiên đến chỗ có cây chiên đàn. Mọi người ngước lên chỉ thấy cành lá sum sê, thân cây sừng sững chót vót. Bọn vệ sĩ thấy cây như thế, không ai nỡ ra tay đốn. Nhưng nếu về tay không th́ cái tội khi quân, cưỡng lệnh làm sao trốn thoát? Đang phân vân lưỡng lự th́ bỗng có tiếng nói rổn rảng từ trên không vọng xuống:
- Ta là thần của gốc cây này, quư vị nếu muốn đốn th́ cứ việc ra taỵ Chỉ xin quư vị cố gắng giữ ǵn rễ cây để cây đừng tuyệt chủng. Đốn cây xong, lại xin quư vị kiếm xác của một người mới chết, lấy máu người này bôi lên rễ cây, rồi lấy ruột gan đắp lên trên, cây sẽ có thể sống lại như cũ.
Nghe đến đây, ai nấy mỗi người một tay đưa búa lên chém, thân cây ngă xuống đánh ầm một tiếng. Đúng lúc đó, người lái buôn đứng bên cạnh đang mải mê ngước đầu lên nh́n bỗng rú lên rồi ngă xuống đất. Mọi người hớt hải chạy đến th́ thấy trên thân của người này máu chảy dầm dề. Th́ ra người này đi không cẩn thận, vấp phải một nhánh cây mà ngă xuống, bị trúng ngay chỗ hiểm. Thật đáng thương, tiền lănh thưởng th́ chưa thấy đồng nào mà tính mệnh th́ than ôi! Đă đi đời!
Lúc mọi người c̣n đang bàn tán sôi nổi bên cạnh thi thể của người lái buôn xấu số, th́ có một người lên tiếng:
- Lúc năy tôi nghe có tiếng người nói từ trên không vọng xuống, bảo kiếm xác người mới chết lấy máu mà bôi lên, rồi lấy ruột gan mà đắp lên rễ cây. Lúc đó tôi hoang mang tự hỏi, ở một nơi hoang vắng như thế này th́ lấy đâu ra xác người? Nào ngờ người lái buôn này lại chết bất đắc kỳ tử, hay có thể ông ta vừa tới số cũng không chừng, thôi th́ chúng ta hăy tạm lấy máu và ruột gan ông ta đắp lên rễ cây vậy.
Mọi người ai nấy đều đồng ḷng hưởng ứng, khi họ hoàn tất việc này, trong nháy mắt rễ cây bỗng đâm ra tua tủa và cành lá vươn lên rậm rạp, gốc cây sum sê tươi tốt như thể chưa từng bị đốn xuống bao giờ.
Nhà vua nhờ uống thuốc chế từ cây chiên đàn nên bệnh đau đầu phút chốc đă lành, bèn truyền lệnh cho tất cả thần dân, ai có bệnh th́ hăy đến lấy thuốc chiên đàn c̣n lại đem về uống, chẳng bao lâu, bệnh tật nào cũng chữa lành hết. Từ đó đất nước thanh b́nh, quốc thái dân an, hưởng hạnh phúc lâu dài.
Ngài A Nan nghe Đức Phật kể đến đây, bèn rời chỗ ngồi, tiến lên lễ Phật bạch rằng:
- Người lái buôn lạc đường sao lại vong ơn bội nghĩa, căi lời dặn ḍ của thần cây? Tại sao v́ muốn lănh thưởng mà lại làm chuyện trái với lẽ phải như thế kia?
Đức Phật là một vị đại giác, Ngài biết một cách rơ ràng mọi dây mơ rễ má của từng quan hệ nhân quả một, nên trả lời ngài A Nan:
- Ngày xưa khi Duy Vệ Phật c̣n tại thế, có ba cha con nhà nọ. người cha chăm chỉ hành ngũ giới, thập thiện, nghiêm tŕ bát quan trai giới, tinh tiến, không giải đăi. Người con trưởng cũng hay ở giữa sân hướng lên không trung mà đốt hương lễ bái, cúng dường chư Phật trong mười phương. C̣n người con út lại ngu si không biết tôn kính Tam Bảo, thường lấy áo quần không thanh khiết mà đậy lên những nén hương này. Người con trưởng nói:
- Hành động mày làm rất tội lỗi, làm sao mày có thể ngang ngược làm chuyện xúc phạm như thế được!
Người con út không những không hối lỗi mà c̣n dùng lời thô ác mắng lại anh:
- Hứ! Anh dám xía vô chuyện của tôi, tôi thề chặt đứt chân anh mới hả ḷng!
Người c̣n trưởng không nén được cơn giận mới trả lời:
- Đồ mất dạy, tao giết mày chết bây giờ!
Người cha đứng bên cạnh cũng nổi cáu lên mà ôm đầu than:
- Chúng bây hai đứa căi nhau ồn ào quá, làm tao bực bội nhức cả cái đầu đây này!
Người con trưởng nói:
- Con sẵn sàng mổ thân con ra làm thuốc chữa cho cha lành bệnh.
Đức Phật nói đến đây, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
- Ai cũng thế, không nên thốt lời vọng ngữ! Kiếp này tạo khẩu nghiệp, về sau thế nào cũng bị báo ứng. Như đứa con út vừa nói ban năy, v́ niệm ác khởi lên muốn chặt đứt chân anh, quả nhiên về sau đem người đến đốn cây, tức là người anh đầu thai lên làm thần cây. Người con trưởng đ̣i giết em, quả nhiên sau đó thực hiện lời nói của ḿnh. C̣n ông vua bị bệnh đau đầu chính là cha của anh em nhà ấy, nhờ phụng tŕ trai giới một cách tinh tấn nên sinh ra được mọi người tôn quư, nhưng chỉ v́ khi hai đứa con của ông căi nhau, ông đă từng nói "làm cho tao nhức đầu quá" nên về sau quả nhiên bị bệnh đau đầu.
Những người này, người nào cũng đă từng thốt lời vọng ngữ bừa băi nên mỗi người đều chịu quả báo lời nói của ḿnh. Cho nên nói rằng nhân quả báo ứng y như bóng theo h́nh, không tăng không giảm không sinh không diệt là như vậy.
Đức Phật thuyết xong về vấn đề giữ giới thân khẩu ư xong, ông Ca La Việt đứng bên cạnh Ngài lập tức chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong nhà ông có bao nhiêu tài sản, ông đem lên cúng dường hết để truyền bá rộng răi việc hoằng pháp. Xong ông c̣n đưa vợ con đi quy y Phật, để họ được bước trên con đường chính giác.
Trích từ truyện cổ Phật Giáo
https://i.ibb.co/L8RvpZQ/995130-334644416671780-1296636352-n.jpg
GIAI CẤP NHẤT ỨC LƯ
Ngày xưa, trong xă hội Ấn Độ, sự chênh lệch giữa người và người quả là rất nhiều. Vương Xá Thành ở miền nam nước Ấn, dân chúng rất giàu có nhưng không khỏi có sự phân biệt giai cấp.
Họ căn cứ vào tài sản ít hay nhiều mà phân thành 9 giai cấp, giữa các giai cấp, sự khác biệt vô cùng rơ rệt. Nhất Ức Lư là giai cấp của người dân thành thị giàu có nhất, dư giả nhất , gia sản phải lên tới cả ngàn vạn, cả trăm vạn ; duy chỉ có những người giàu có như thế mới đủ tư cách để thuộc vào giai cấp Nhất Ức Lư ấy. Dĩ nhiên, giai cấp của họ là giai cấp đứng đầu nên không có người nào là không hâm mộ, ao ước.
Lúc ấy có một người thuộc về giai cấp chót hết của 9 giai cấp nói trên, rất ngưỡng vọng sự vinh quang phú quư của giai cấp Nhất Ức Lư, ông hy vọng sẽ có ngày vọt lên được địa vị của những người mà ông hâm mộ đó, nhưng không có điều kiện thiết yếu là một gia sản đáng giá trăm vạn. V́ muốn có đủ điều kiện, ông không ngại công lao khó nhọc, ngày đêm t́m đủ cách để buôn bán kiếm lời. Sau mười năm lao lực, ông chỉ gom góp được có 9 phần mười gia sản phải có để đạt được lư tưởng của ḿnh. Nhưng than ôi, ông vương phải một cơn bạo bệnh, bệnh t́nh nguy ngập, ông biết sẽ không c̣n sống lâu nữa nên gọi vợ đến căn dặn rằng:
- Tôi sẽ không lành bệnh được đâu, chỉ ân hận là nguyện vọng ôm ấp suốt cả một đời chưa đạt được. Con chúng ta nay chỉ mới 8 tuổi, chưa thể thừa kế được sự nghiệp của tôi. Tôi mong bà nuôi nấng cho nó thành người, nói cho nó biết điều tôi mong mỏi, và bảo nó kinh doanh sự nghiệp của chúng ta cho khéo léo hầu vào được giai cấp Nhất Ức Lư, th́ lúc ấy ở suối vàng tôi cũng ngậm cười mà an nghỉ.
Đợi việc mai táng xong xuôi, người mẹ gọi con đến trước mặt dạy rằng:
- Cha con mất đi có để lại di ngôn, hy vọng con làm ăn buôn bán cho khéo léo, hầu có đủ điều kiện gia nhập vào giai cấp Nhất Ức Lư, để hoàn thành nguyện ước của cha con lúc sinh thời.
Đứa con nhỏ tuổi mà đă có trí huệ của một vị cao nhân, đă biết rơ một cách chân chánh thế nào là họa là phúc. Nó biết rằng tiền bạc châu báu của thế gian như một con rắn độc, từ xưa đến nay, biết bao nhiêu người đă v́ tham cầu nó mà phạm vào đủ điều gian ác, không lùi bước trước bất cứ một thủ đoạn nào để làm tổn hại cho người, lợi ích cho ḿnh, để rồi chiêu cảm trùng trùng điệp điệp quả báo đau khổ, chỉ v́ không hiểu rành lư nhân quả.
Thiên hạ không hiểu rơ rằng phúc báo của một người không phải từ trên trời rớt xuống, không trồng trọt mà đ̣i gặt hái được sao? Phú quư có con đường của nó, chỉ có đi theo con đường bố thí mới đến được cung thành phú quư.
Nhưng thằng bé biết rằng mẹ nó chưa đủ sức hiểu những lư lẽ ấy nên chỉ lựa lời thưa rằng:
- Con có một cách này rất hay, không cần đợi tương lai, mà ngay hiện tại có thể nhập vào giai cấp Nhất Ức Lư, chỉ cần nhà có bao nhiêu tiền của, mẹ giao hết cho con.
Người mẹ nghe thế nửa tin nửa ngờ, nhưng bà thương con rất mực và muốn nương tựa vào con, nên đưa ch́a khóa ngân khố tài bảo giao cho con.
Đứa bé đem toàn bộ gia sản, cả ngày ở ngoài đường mướn người khắc, nặn tượng Phật, xây dựng tháp miếu, cúng dường chư tăng, làm tất cả mọi sự để hoằng dương Phật pháp, rồi c̣n xuất ra một số tiền để cứu giúp người nghèo khổ. Chưa tới nửa năm, tài sản của người cha trọn đời dành dụm đă bị tiêu tan sạch bách!
Người mẹ tuy có phúc báo nhưng chưa thông hiểu được trí huệ của Pháp Phật. Bà không biết con ḿnh là Bồ Tát tái sinh, không giống phàm nhân, mà trái lại có trí huệ cao siêu, có thần thông thâm diệu, đi lại tự tại trong ba cơi. Bà không biết rằng thí xả tài sản là con đường tắt để được phúc đức, được giàu sang phú quư, cứ làm theo lời Phật dạy th́ sinh vào giai cấp Nhất Ức Lư là một điều quá dễ dàng!
V́ bà không thể biết những điều ấy, lại mắt thấy tải sản cứ ngày theo ngày mà tiêu hao, nên trong ḷng rất lo lắng. Không những không làm được dân của giai cấp Nhất Ức Lư, mà c̣n không biết sẽ lấy ǵ mà sống nữa ! Nhưng t́nh thương con khiến cho bà không nỡ trách mắng, cũng không nỡ ngăn cấm, v́ đứa con hay lựa lời giải thích mỗi khi thấy mẹ quá lo lắng.
Không ngờ phước chưa được hưởng mà họa đă giáng lên đầu, thằng con trai thông minh, kháu khỉnh của bà sau một đêm lâm bệnh nặng, bác sĩ không đến kịp, đă ĺa khỏi ṿng tay của bà mà đi mất. Tài sản không c̣n, thằng con duy nhất cũng đă chết, người mẹ đau khổ chỉ muốn kết liễu đời ḿnh cho xong, hận tại sao không được theo con mà chết!
Dục vọng con người sao mà nhiều thế, không tài nào kể xiết.
Có một vị phú ông ở giai cấp Nhất Ức Lư, giàu có bậc nhất, tài sản lên tới tám trăm vạn, nhưng suốt ngày lại khổ năo v́ chưa có con trai nối dơi tông đường, gia sản kếch sù kia rồi ai sẽ là người thừa kế?
Ông suốt ngày ngồi kiệu, có chùa chiềng miếu tự nào ông cũng vào cúng bái cầu xin sinh được một đứa con trai phúc huệ song toàn. Quả nhiên ít lâu sau, bà vợ cả của ông sinh cho ông một đứa con trai.
Đứa bé sinh ra rất kháu khỉnh, song có một điều nó không giống người thường, ai thấy cũng phải thấy lạ.
Mới sinh được ba hay bốn ngày, thằng bé cứ đối với mẹ như người lạ : lúc mẹ nó bồng lên th́ nó rống lên khóc, mẹ cho bú, nó cũng khóc. Đút vú vào miệng th́ nó không khóc cũng quay đầu chỗ khác, do đó hễ nó cất tiếng khóc là cả nhà quưnh quáng lên, v́ không bú sữa th́ làm sao mà sống? Cả ngày cứ rống lên mà khóc th́ làm sao sống? Hai điểm ấy làm cho cả nhà ai nấy cũng lo sợ bất an.
C̣n phú ông lại càng khổ sở hơn nữa, thằng con cầu tự, khó khăn lắm mới có một đứa, ông xem nó quan trọng hơn sinh mệnh của ḿnh. Ông bèn tuyên bố: hễ ai mà dỗ được cho con ông hết khóc, hay là làm cho nó chịu bú sữa th́ ông sẽ đem lễ vật đến xin người ấy về làm gia quyến của ông.
Biết bao nhiêu người đàn bà đến xin thử, nhưng muốn vào nhà của đệ nhất phú ông thật không phải dễ! Người nào đến bồng đứa bé nó cũng chỉ có tài làm cho nó khóc to hơn, ôm nó c̣n không ôm nổi, huống ǵ cho nó bú!
Một vài ngày trôi qua, bao nhiêu người đàn bà đă thất vọng và đă quay về, duy chỉ có một người không biết tu hành từ đời nào mà đời nay được phúc báo, là được giữ lại.
Đó chính là người đàn bà vừa mất con vừa mất tài sản nọ. Chính bà cũng không hiểu rơ tại sao, bà nào hề có ư định đến xin thử, chỉ v́ thấy có đông người và quang cảnh trước mắt vui vui, khêu lên tính hiếu kỳ của bà, bèn nhắm mắt đi theo đoàn người vào thử một phen. Có ai ngờ, khi thấy bà đứa bé như thấy người thân, ngừng ngay tiếng khóc ngang ngược của ḿnh, lại c̣n nh́n bà nhoẻn miệng cười qua những giọt nước mắt!
Người làm công trao cho bà b́nh sữa, khi bà đút vào cái miệng nhỏ xíu của đứa bé th́ ô ḱa, nó bèn bú lấy bú để một cách ngon lành.
Tối đến trong nhà ai nấy đều đă ngủ saỵ Bà không tài nào nhắm mắt, cứ ôn đi ôn lại từng việc đă xảy ra trong ngày hôm đó. Bà thật t́nh khó có thể tin được là ḿnh đă bước vào giai cấp Nhất Ức Lư.
- Ta đang nằm mơ chăng? Bà lẩm bẩm tự hỏi.
- Không nằm mơ đâu mẹ!
Có người đang trả lời bà, nhưng người đó là ai? Bà ngồi bật dậy trên giường, nhớn nhác nh́n quanh t́m kiếm.
- Mẹ, con đây mà!
Th́ ra chính đứa bé đang nằm bên cạnh bà, con trai của lăo phú ông đang nói chuyện với bà. Lăo phú ông đă mời bà về làm vú em cho con ḿnh, và giao đứa bé cho bà chăm sóc.
- Con?
Bà vô cùng kinh dị, một đứa bé sơ sinh làm sao đă biết nói chuyện, lại c̣n gọi bà bằng "mẹ" nữa?
- Đúng rồi, con là đứa con mà mẹ đă mất, nay tái sinh về đây! Mẹ đă không từng nói với con là ước vọng của ba trước khi mất, là muốn mẹ con ḿnh vào giai cấp Nhất Ức Lư hay sao? Th́ bây giờ mẹ con ḿnh đang ở trong gia đ́nh giàu có nhất của giai cấp Nhất Ức Lư đây!
Bà ôm chầm lấy đứa con, gịng nước mắt từ từ lăn xuống má.
Bây giờ th́ bà hiểu rồi: gieo rắc tài sản chính là nhân của sự phát tài làm giàu về sau vậy.
https://i.ibb.co/p0n28tj/399196-335070809962474-400584681-n.jpg
ĐỪNG LĂNG PHÍ
Lúc Đức Phật c̣n tại thế, có một vị đệ tử được người ta cúng dường quần áo, mặc chỉ hai ba hôm là đă dơ bẩn, rách rưới; lúc ăn cơm, bát cơm chưa vét hết là đă đứng dậy mà đi, không hề biết giữ ǵn tiếc rẻ vật dụng.
Có một hôm, Đức Phật bảo người này hăy cởi bỏ áo cà sa vào thành khất thức. Khi ông vào thành, những người lúc trước vẫn thường cúng dường ông th́ hôm nay thấy ông, nhất định không ai chịu cúng dường. Vừa thấy ông trở về, Đức Phật hỏi:
- Hôm nay ông được cúng dường những ǵ?
- Bạch Thế Tôn, hôm nay con không nhận được ǵ hết. Thỉnh Thế Tôn cho con mặc áo cà sa trở lại.
- Ta tính trả lại cho ông tấm áo cà sa mà ông gởi cho ta giữ nhưng lại quên mất để nó ở chỗ nào. Thôi th́ ở đây có mớ bông g̣n, ông có thể lấy mà tự may áo cà sa mặc cũng được.
Đức Phật giao cho vị đệ tử này một bó bông g̣n, ông cầm lấy tự nghĩ, làm sao mà may áo với những thứ này? Ông nói với một giọng châm biếm :
- Bạch Thế Tôn, con không phải là nhà ảo thuật, làm sao có thể may áo cà sa với mớ bông g̣n này?
- Áo cà sa là do bông g̣n làm thành, không cần phải là nhà ảo thuật mới có thể làm được, có một vài công việc cố định phải làm, và ai cũng có thể làm được. Nhưng để biến bông g̣n thành vải phải mất rất nhiều công lao gian khổ, phải hái bông g̣n, kéo thành sợi, dệt thành vải, sau đó cắt may mới thành được một tấm cà sạ Áo cà sa mà ông đang cần đó, phải làm như thế mới có được.
Đức Phật trả lời vị đệ tử. Người này kinh ngạc hỏi:
- Trời ơi, phiền phức đến thế sao?
- Phải rồi, muốn làm thành một tấm cà sa phải trải qua bấy nhiêu đó gian khổ. V́ thế ông phải biết ǵn giữ đồ vật, mà không phải chỉ có quần áo mà thôi đâu. Ta thấy ông ăn cơm cũng phí phạm như thế. Ông phải biết, một hạt thóc là do người nông phu phải cực nhọc làm lụng mà ra. Hạt thóc ấy muốn nấu cho thành cơm, th́ phải gieo mạ, nhặt cỏ, bỏ phân, tưới tẩm v.v... Chúng ta được sống qua ngày một cách an ổn như thế này là do sự giúp đỡ của rất nhiều người. Chúng ta không nên quên lăng ân huệ ấy, mà phải dùng cái tâm tri ân để giữ ǵn đồ đạc mà họ cúng dường cho chúng ta, và lấy sự tu hành chuyên cần để báo đáp ơn thí chủ.
Đức Phật không phải là một vị chuyên môn trong vấn đề tài chánh, và tài sản, châu báu đối với Ngài không có ư nghĩa ǵ. Nhưng dầu là một cọng cỏ, một nhánh cây trên thế gian này, không có vật ǵ là Ngài không cẩn thận ǵn giữ. Có thể nói Ngài là nhà kinh tế lỗi lạc nhất.
https://i.ibb.co/fH360bw/969809-335681186568103-1691872026-n.jpg
BẢY NĂM TRONG CHẬU MÁU
Công chúa Tu Ba Bà Sa, vợ của vua Câu Lợi Da là một người đàn bà có tín tâm sâu dầy, bà mang thai trong 7 năm trời. Một hôm bà đau bụng từng cơn, rồi những cơn đau ấy trở nên kịch liệt, ṛng ră suốt 7 ngày. Tuy đau đớn như thế, bà vẫn suy nghĩ như sau :
- V́ muốn giúp cho người ta thoát những nỗi khổ như thế này nên Đức Phật thuyết pháp, và chúng đệ tử của Ngài, cũng v́ muốn thoát khỏi những khổ đau như thế này nên mới tu hành. Niết Bàn không có khổ, Niết Bàn là một nơi vô cùng an lạc.
Bà nương vào ư nghĩ trên mà nhẫn nhục chịu đựng, rồi nhờ chồng đến chỗ của Đức Phật cho bà nhắn lời thăm hỏi và cho Ngài biết tin tức của ḿnh.
Đức Phật nghe nhắn lại lời bà thăm hỏi, bèn nói:
- Hỡi công chúa Tu Ba Bà Sa, vợ của vua Câu Lợi Da, nguyện cho bà an lành, nguyện cho bà b́nh an mà sinh con trai khoẻ mạnh.
Đức Phật vừa nói như thế xong, quả nhiên công chúa b́nh an sinh hạ được một cậu con trai mạnh khoẻ. Chồng bà trở về nhà, thấy con trai mới sinh, nói rằng thật là bất khả tư ngh́! Ông cảm thấy uy thần của Như Lai thật là hy hữu, không thể nghĩ bàn được.
Công chúa Tu Ba Bà Sa sinh xong, muốn cúng dường Đức Phật và chư đệ tử của Ngài trong suốt 7 ngày, nên lại nhờ chồng đi thỉnh mời Thế Tôn.
Lúc ấy Đức Phật cùng chư đệ tử đang ở nhà một vị đồ đệ của tôn giả Đại Mục Kiền Liên thọ cúng. Muốn cho Tu Ba Bà Sa được cơ hội cúng dường, nên Thế Tôn sai người đến nhà tôn giả, nói với tôn giả hăy nhận lời mời, rồi cùng chư tỳ kheo đến nhà bà Tu Ba Bà Sa thọ cúng trong suốt 7 ngày. Đến ngày thứ bảy, Tu Ba Bà Sa chưng diện cho con trai là thái tử Tất Bà Lợi, và đem con ra lễ bái Đức Phật và chư tỳ kheo. Đảnh lễ xong, bà đem con đến chỗ của tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả nh́n đứa bé gật đầu và hỏi:
- Tất Bà Lợi, ngươi có khoẻ không?
- Bạch tôn sư! Con làm sao khoẻ được? Con ở trong chậu máu suốt bảy năm trời kia mà!
Rồi cậu tiếp tục đàm luận như thế với tôn giả Xá Lợi Phất. Tu Ba Bà Sa nghe cậu nói chuyện, trong ḷng hớn hở nghĩ rằng: con ḿnh mới sinh chưa đầy 7 ngày mà đă có thể đàm luận với tôn giả Xá Lợi Phất, là vị đệ tử lớn nhất của Đức Phật!
Đức Phật hỏi:
- Tu Ba Bà Sa! Bà có c̣n muốn một đứa con trai như thế nữa không?
Công chúa thưa:
- Bạch Thế Tôn! Cho con 7 đứa con trai như thế này nữa con mới thấy đủ!
Đức Phật chia vui với bà, nói lời chúc mừng rồi ra đi.
Hoàng tử Tất Bà Lợi được 7 tuổi th́ quy y với Đức Phật, đầy 20 tuổi th́ thọ cụ túc giới, giữa những người làm việc thiện cậu là người đứng đầu, và khi cậu chứng quả A La Hán th́ đại địa phát âm thanh.
Một hôm, chư tỳ kheo cùng nhau tập họp ở pháp đường đàm luận:
- Các vị pháp hữu! Trưởng giả Tất Bà Lợi thật là một người làm việc thiện đệ nhất! Chắc hẳn ngài đă lập thệ nguyện từ xa xưa, nay lại sẽ chứng quả A La Hán. Nhưng do nghiệp dĩ nào mà ngài đă phải ở trong chậu máu suốt bảy năm trời, và chịu 7 ngày đau đớn mới sinh ra đời, khiến hai mẹ con đều phải chịu tận cùng của sự thống khổ?
Vừa khéo, đúng lúc ấy Đức Phật bước vào và hỏi:
- Chư tỳ kheo, các ông tập họp ở đây để bàn luận việc ǵ vậy?
Các tỳ kheo nói lên vấn đề và thỉnh ư Thế Tôn. Đức Phật nói:
- Này chư tỳ kheo, Tất Bà Lợi, người làm việc thiện đệ nhất, ở trong chậu máu suốt 7 năm và chịu 7 ngày đau đớn mới sinh ra đời là do túc nghiệp của ông ấy. Tu Ba Bà Sa chịu cái khổ thai nghén trong 7 năm trường và chịu cái khổ đau đớn trong suốt 7 ngày mới lâm bồn, cũng là do chính nghiệp đời trước của bà mà ra.
Đức Phật nói tiếp:
- Ngày xưa có một ông vua thành Ba La Nại, bồ tát chọn nơi này đầu thai nên hoàng hậu sinh được một hoàng nam. Khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành, th́ đi đến thành Đắc Xoa La để học tất cả mọi ngành nghề. Lúc ấy nước Câu Tát đem đại binh đến tấn công thành Ba La Nại, giết vua, cưỡng bức hoàng hậu về làm vợ. Hoàng tử nước Ba La Nại thấy vua cha bị giết th́ chạy trốn bằng đường hầm bí mật, chiêu tập binh mă, trở về thành Ba La Nại, đóng binh ở một vùng phụ cận và gởi thư đến nhà vua nói rằng "Hăy trả ngôi báu lại cho tôi, nếu không th́ hăy cùng tôi giao chiến". Nhà vua gởi thư trả lời "Sẵn sàng giao chiến".
Mẹ của hoàng tử nghe tin này, cũng viết thư cho con nói rằng: "Giao chiến không có ích lợi, nên vây hăm thành Ba La Nại, cắt đứt mọi đường giao thông ở bốn phía, khiến cho nước, củi và lương thực không vào thành được, chờ cho dân chúng kiệt quệ và khốn đốn, th́ không cần đánh thành cũng sẽ rơi!"
Hoàng tử nghe lời mẹ, trong 7 ngày cắt tuyệt mọi đường giao thông, phong tỏa các cửa thành. Dân trong thành thấy mọi đường giao thông bị cắt tuyệt, đến ngày thứ bảy th́ đem thủ cấp của vua hiến cho hoàng tử. Hoàng tử tiến vào thành tiếp lấy ngôi vua, về sau y theo nghiệp báo của ḿnh mà đầu thai vào chỗ phải sinh.
V́ trong 7 ngày cắt tuyệt mọi đường giao thông, phong tỏa kinh thành để chiếm đoạt ngôi báu, nên phải chịu quả báo 7 năm trong chậu máu, 7 ngày mới sinh ra đời. Nhưng ông đă từng quỳ dưới chân Tối Thắng Bạch Liên Như Lai mà nói ḿnh muốn trở thành "sở đắc đệ nhất nhân", đă từng hành đại bố thí hồi hướng cho nguyện ấy, rồi dưới thời Tỳ Bà Thi Như Lai ông lại cúng dường cho tất cả dân chúng trong thành một ngàn lượng bánh sữa cũng để hồi hướng cho nguyện ấy. Nhờ những công đức như thế nên nay ông đắc được chuyện ǵ cũng ở ngôi vị đệ nhất mà được.
Lại bà Tu Ba Bà Sa, v́ đă viết thư khuyên con bảo lấy thành bằng cách phong tỏa các cửa, nay phải chịu 7 năm thai nghén, chịu cái đau đớn sinh sản trong suốt 7 ngày.
Đức Phật nói chuyện quá khứ ấy xong, lại nói tiếp:
- Thời ấy, người phong tỏa kinh thành để lấy ngôi báu là Tất Bà Lợi, mẹ Ông là Tu Ba Bà Sa, và cha của ông, vua nước Ba La Nại, chính là ta vậy.
Một lời nói, một hành động, nếu không cẩn trọng, th́ khổ đau sẽ theo đó mà kéo đến.
https://i.postimg.cc/Twy8gWz4/17758-336295519840003-931490095-n.jpg
BÀ LĂO BỘC
Trưởng giả Tu Đạt tại thành Xá Vệ nước Ấn Độ là một vị "đại thí giả", hễ có người nghèo khổ bần cùng đến cầu xin ông cứu giúp, ông liền làm cho người ấy được toại ư. Nhất là đối với Tam Bảo th́ ông lại càng cung kính tôn thờ, thường thường cúng dường Đức Phật và chư tăng.
Trong nhà ông trưởng giả Tu Đạt có một bà lăo bộc làm công, rất trung thành với chủ và làm việc rất siêng năng, nên được trưởng giả một ḷng tín nhiệm. Ch́a khóa nhà kho, vựa lúa đều do một tay bà nắm giữ.
Bà lăo bộc này tính nết rất keo kiết, mỗi khi thấy chủ nhân lấy từ kho ra bao nhiêu là tiền bạc của cải để bố thí cho người là trong ḷng bà không khỏi cảm thấy tiếc rẻ.
Nhưng điều làm cho bà bất măn hơn cả là lúc bà thấy Đức Phật và chư vị đệ tử đến nhà trưởng lăo thọ cúng dường. Bà thấy lúc đó trưởng giả vô cùng nhiệt thành, hoan hỉ nghênh tiếp và cúng dường Đức Phật. Tâm ganh tị như thiêu như đốt khiến bà ghét Đức Phật thậm tệ. Có một hôm bà c̣n lập ác nguyện rằng:
- Tôi vĩnh viễn không muốn thấy mặt Phật, không muốn nghe ông ta thuyết pháp cũng không muốn thấy mặt mấy ông tỳ kheo.
Thật là chuyện tốt không ai hay, mà chuyện xấu th́ ai cũng biết, nên tin bà lăo bộc phát ác nguyện chẳng mấy chốc lan truyền khắp mọi nơi.
Lúc ấy, hoàng hậu Mạt Lợi nghe kể lại, rất lấy làm phật ư. Hoàng hậu biết trưởng giả Tu Đạt là một vị Phật tử thuần thành, th́ làm sao lại dung dưỡng trong nhà một bà nô bộc bất kính Tam Bảo như thế? Do đó, hoàng hậu hạ lệnh bắt trưởng giả phải cho bà mượn bà lăo bộc đến hoàng cung giúp việc nhân dịp bà lập đàn trai cúng dường Đức Phật.
Trưởng giả Tu Đạt dĩ nhiên không dám trái lệnh hoàng hậu, đằng này mục đích lại là giúp cho việc cúng dường đức Phật th́ ông lại càng t́nh nguyện hơn nữa. Trưởng giả lập tức dùng mâm vàng đựng đầy trân châu, sai bà lăo bộc đem đến hoàng cung để cúng dường đức Phật. Hoàng hậu ra ư, chủ nhân truyền lệnh, bà lăo bộc đâu dám không tuân! Khi Mạt Lợi phu nhân thấy bà lăo bộc này, bà nghĩ phải thỉnh Đức Phật dạy dỗ con người tà kiến như thế mới được!
Bà lăo bộc đem trân châu đến dâng lên hoàng hậu rồi, vừa mới quay người tính lui đi th́ Đức Phật từ cửa chính bước vào, theo sau là các vị đệ tử của Ngài. Bà lăo thấy Đức Phật bước vào đâm ra bối rối, cất bước lên tính trốn bằng cửa sau, th́ quái lạ thay, Đức Phật cũng lại từ cửa sau bước vào. Lần này bà cuống cuồng lên, tính chạy bằng cửa bên hông nhà, nhưng cũng lại thấy Đức Phật đứng ngay ở ngưỡng cửa bên hông. Bà lăo bộc thấy tứ phương tám hướng đâu đâu cũng có Đức Phật và chư vị đệ tử đứng, bà tiến hay lùi ǵ cũng khó khăn, đành phủ phục xuống đất. Nhưng trên mặt đất, bà vẫn thấy tôn tượng của Thế Tôn. Bà vội vàng dùng hai bay bịt kín lấy mắt, để mắt ḿnh không gặp h́nh ảnh của Đức Phật nữa nhưng trong khoảnh khắc, mười ngón tay của bà đều hiện lên h́nh Phật. Bà không cần biết hậu quả ra sao, ba chân bốn cẳng chạy về, trốn vào một căn nhà nhỏ, những tưởng là sẽ không c̣n thấy Đức Phật nữa. Nhưng như trước, trong gian pḥng đen tối ấy, đâu đâu cũng có Đức Phật nên bà lăo bộc rất lấy làm đau khổ.
Lại nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu ni ở hoàng cung, Ngài không nói ǵ về thái độ vô lễ của bà lăo bộc, chờ thọ cúng xong xuôi mới nói với La Hầu La:
- Bây giờ con có thể đi hóa độ cho bà lăo ban năy. Bà ấy với con có nhân duyên lớn, bà ấy sẽ tiếp đón con nồng hậu và sẽ chấp nhận sự giáo hóa của con.
Tôn giả La Hầu La tuân lệnh Đức Phật đi ngay, ngài từ biệt Như Lai rồi đến nhà bà lăo bộc nọ, đứng trước nhà kêu cửa.
Bà lăo đang trốn trong nhà, chợt nghe một giọng nói ḥa nhă thân thiết bèn vội vàng chạy ra mở cửa nh́n xem là ai. Có lẽ trong ḷng c̣n hoảng hốt, lại hoa mắt nên thấy ngài La Hầu La, bà ngỡ là người từ cơi trời xuống.
Bà lễ lậy và đối xử với La Hầu La như thần thánh, tôn giả bèn dùng thái độ trang nghiêm thuyết cho bà lăo nghe pháp thập thiện.
Bà lăo nghe rồi, hối hận những lỗi lầm đă tạo trong quá khứ, và nói:
- Ngài là chúa tể cơi trời, ngài quả là cao cả, v́ thế nhân chúng con mà thuyết thiện pháp vi diệu để lợi lạc chúng sinh, ngài thật là phi thường hơn mấy ông tỳ kheo kia nhiều!
Lúc ấy, La Hầu La biết bà đă bớt tâm ngă mạn, mới trả lời:
- Pháp của Phật mới là thanh tịnh, mới là từ bi quảng đại. Pháp mà tôi mới nói ban năy là do thầy tôi dạy. Phận tôi nhỏ nhoi không đáng kể, làm sao so sánh với bậc đại thánh Như Lai được?
Lăo bà nghe những lời ấy, định thần nh́n kỹ lại ngài La Hầu La, lúc đó mới tàm quư hổ thẹn không biết làm sao để chui xuống đất. Bà hối hận, bà tự trách, rồi bà khẩn cầu ngài La Hầu La giúp bà sám hối với Đức Phật và can thiệp cho bà được xuất gia.
Phật pháp vốn b́nh đẳng, giữa người cao sang như vua chúa hay người bần tiện như nô tỳ không hề có sự sai khác.
Bà lăo bộc nọ, sau khi đến trước mặt Phật sám hối rồi, bèn xuống tóc xuất gia làm tỳ kheo ni.
Bà chuyên tâm tu học nên chứng được quả vị rất mau lẹ. Có người thấy thế, bèn đến xin Đức Phật thuyết giảng về nhân duyên quá khứ của bà lăo bộc này.
- Xa xưa kia, thời Phật Bảo Cái Đăng Vương có một vị thái tử xuất gia học đạo với Như Lai. Thật ra, vị hoàng tử này tu hành tŕ giới rất tinh chuyên, nhưng lại lầm lạc theo đường tà. Về sau hoàng tử gặp một vị tỳ kheo, vị tỳ kheo này thuyết pháp dẫn đạo rất hay, nhưng hoàng tử không những không tán thán c̣n đem lời phỉ báng, bởi v́ tuy tŕ giới nhưng lại rất ngă mạn tà kiến. Do đó chết rồi đọa ác đạo, chịu đủ hết mọi sự thống khổ trong địa ngục, nay tuy sinh thân người nhưng lại chịu phận nô bộc.
Vị hoàng tử thời nọ chính là bà lăo bộc trong kiếp này và vị tỳ kheo bị hủy báng kia chính là ta trong quá khứ.
Các vị đệ tử của Đức Phật nghe xong, họ thấy rơ ràng là không thể tạo khẩu nghiệp, nhất là hủy báng người khác, v́ quả báo xấu xa của tội này, dẫu có tu hành tŕ giới cũng không ngăn chận được.
https://i.postimg.cc/ZRGyYbFV/523404-337373226398899-189951538-n.jpg
ÁC KHẨU LƯỠNG THIỆT
Ngày xưa có một ông trưởng giả rất giàu có, tiền muôn bạc triệu, tài sản xài suốt đời không hết, vợ lại vừa xinh đẹp vừa hiền đức, nên đă hạnh phúc ông lại càng hạnh phúc hơn. Nhưng niềm vui của ông ngắn ngủi, hạnh phúc thật vô thường, người ta chẳng thường nói "hoa không nở ba tháng, người không sướng ba năm" hay sao? Chẳng bao lâu sau, vị phú ông này từ từ bước vào hố thẳm của khổ đau. Không ai c̣n thấy ông với vẻ mặt hân hoan của những ngày hạnh phúc xưa nữa, tại sao vậy? V́ đứa con trai của ông mà ra cả.
Ông lập gia đ́nh một thời gian lâu mới sinh được một đứa con trai, ngày đứa bé ra đời ông vui mừng không kể xiết. Nhưng bất hạnh thay, con ông mới oe oe chào đời là đă mắc bệnh nặng. Theo lời thầy thuốc chẩn bệnh th́ đó là những mụn nhọt độc hại mọc trên da đứa bé khiến nó khóc cả ngày, thế mà danh y nào mời đến cũng đều lắc đầu chịu thuạ V́ thế mà nét mặt ông càng ngày càng ủ dột buồn rầu.
Tội nghiệp đứa bé, rất nhiều thầy thuốc đă bó tay rồi, nó chỉ c̣n biết đêm ngày khóc la kêu đau, cuộc sống thật là khổ sở.
Tiếng khóc gào rên rỉ của nó làm náo động tới làng xóm, nên người ta đặt tên cho nó là thằng "Khóc Gào". Ngày qua như nước trôi, cuốn đi những năm tháng thơ ấu của Khóc Gào, chẳng bao lâu cậu đă lớn khôn, nhưng bệnh tật trên người th́ vẫn chẳng hề bớt chút nào, đêm ngày cậu vẫn đau đớn, ai nghe tiếng rên khóc của cậu cũng phải buồn cho cậu. Gần nhà cậu có một ông hàng xóm già, nghe tiếng rên la đau đớn của Khóc Gào, trong ḷng thấy bất nhẫn, bèn t́m đến nhà cậu thăm hỏi và nói với cậu rằng :
- Tôi nghe rất nhiều người về khen ngợi tán thán rằng tại Kỳ Viên Tinh Xá có một vị Đại Y Vương, bệnh trên thân hoặc bệnh trong tâm của chúng ta Ngài đều có thể chữa trị được hết. Ngài có phương tiện thần thông nhiệm mầu, bệnh của cậu có trầm trọng đến đâu cũng sẽ tức khắc lành, cậu nên mau mau t́m đến Ngài cầu xin chữa bệnh.
Khóc Gào nghe người hàng xóm nói thế, vui mừng vô kể, vội mang tấm thân bệnh hoạn t́m đến Kỳ Viên Tinh Xá xin được gặp Đức Phật.
Khi Khóc Gào nh́n thấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và thân của Phật uy nghi sáng chói, cậu hân hoan tán thán ngaỵ Những đau đớn khổ năo của cậu giảm thiểu đi rất nhiều, lập tức gieo năm vóc xuống đất lễ bái Đức Phật.
Đức Phật từ bi chưa từng bỏ rơi bất cứ chúng sinh bệnh khổ nào, nên khi thấy Khóc Gào tới, Ngài rất hoan hỉ, bèn tuyên thuyết cho cậu những pháp môn thù thắng có năng lực diệt trừ tất cả mọi khổ năo. Khóc Gào nghe Đức Phật thuyết pháp xong bèn sám hối tội lỗi. Lúc ấy nhọt độc đă hành hạ cậu trên mười năm qua lập tức tan biến, bệnh khổ của cậu hoàn toàn được tiêu trừ nên tâm cậu sinh khởi niềm cung kính hoan hỉ chân thành, cậu bèn cầu xin Đức Phật cho phép cậu được xuất gia làm tỳ kheo. Cậu tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán.
Các vị tỳ kheo khác thấy t́nh cảnh của Khóc Gào như thế, thấy đó là điều rất hy hữu, bèn thỉnh Thế Tôn nói về nhân duyên khiến cho cậu phải chịu quả báo lúc trước. Đức Phật giảng cho các đệ tử nghe rằng:
- Vô lượng kiếp về trước, ở thành Ba La Nại có hai vị phú ông nọ. B́nh thường hai người đă không ưa nhau và đố kỵ nhau, nên một trong hai người đem rất nhiều vàng bạc châu báu lên dâng tặng nhà vuạ Khi nhà vua nhận những vật cống hiến của ông này rồi, th́ rất quư trọng ông. V́ thế khi ông này phê b́nh ông kia trước mặt nhà vua, nói rằng "người ấy vô cùng hiểm ác, thường dùng mưu độc ám hại tôi, xin đại vương hăy nghiêm trị người ác để bảo vệ dân lành", th́ nhà vua vốn đă nhận vật cống hiến rồi nên không c̣n sáng suốt nhận định, nhất nhất tin lời ông này và ra lệnh bắt giam, không đếm xỉa tới những lời biện hộ của người kia, c̣n đem ra tra tấn tàn khốc. Người này phải chịu tất cả những h́nh phạt đau đớn nhất, thương tích đầy thân như vẩy cá, phải nhờ gia đ́nh xuất tiền chuộc tội mới thả cho ông về nhà.
Về tới nhà ông suy nghĩ không ngừng, thấy rằng con người v́ có thân cho nên mới có khổ, mới bị lắm tai nhiều họa, ḿnh và người kia không hề có oán thù chi mà họ lại có thể hại ḿnh đến mức thân tàn ma dại như thế này. Không lâu sau, ông bỏ vào núi tu hành và thành Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật phát tâm đại từ bi, sợ rằng người kia kiếp sau sẽ chịu quả báo đau khổ nên tới nhà người ấy thị hiện đủ loại thần thông, khiến người kia thấy những biến hóa bất khả tư ngh́ như thế, sinh tâm kính ngưỡng, lập tức thỉnh Bích Chi Phật lên ṭa ngồi và chuẩn bị đủ loại thực phẩm đặc biệt để cúng dường và sám hối tội cũ của ḿnh đối với Ngài.
Đức Phật nói đến đây, ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Các ông phải biết cái người sàm tấu với vua chính là tỳ kheo Khóc Gào đă chịu khổ trong kiếp này. Sau, nhờ ân huệ của Bích Chi Phật, sám hối tội lỗi cũ, và nhờ công đức thành kính quy y Tam Bảo nên ngày nay được Như Lai cứu độ, mau đắc quả thánh.
Đừng nghĩ rằng những lời sàm tấu nói ra mà không ai biết. Nghiệp tội không trốn được, dẫu trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng đă phạm tội như thế rồi mà biết sám hối th́ có thể được cứu độ.
Trích từ truyện Phật Giáo.
https://i.ibb.co/j6C8xHg/1148738-342067192596169-966906707-n.jpg
HAI VỢ CHỒNG PHÁT TÂM
Lúc Đức Phật c̣n tại thế, chư tăng phải ôm bát đến nhà của tín chúng mà khất thực món ăn thức uống của ḿnh, v́ theo quy tắc của tăng đoàn Ấn Độ lúc bấy giờ, chư tăng không được nhóm lửa nấu ăn.
Có một hôm, Đức Phật đưa chúng đệ tử ôm bát vào thành, đến trước cửa nhà vợ chồng người Bà La môn nọ, Ngài đứng yên bất động.
Đúng lúc ấy, trong nhà, người vợ đang nấu bếp, bỗng nhiên thấy bốn phía ánh sáng rực ngời, mà ánh sáng này không giống với ánh sáng mặt trời hay mặt trăng, v́ chiếu tới thân th́ tự nhiên có cảm giác êm ả, khoẻ khoắn.
Ngựi đàn bà quay đầu lại nh́n mới biết là Đức Phật và chư đệ tử đang đứng trước cửa nhà ḿnh. Bà thấy tướng hảo trang nghiêm của Đức Phật cùng dáng điệu uy nghi của chư tỳ kheo, tức thời sinh ḷng hoan hỉ tôn kính, muốn đem nồi cơm mới nấu dâng lên các Ngài nhưng chợt nhớ lại người chồng ngu muội không tin Phật, nếu ông này thấy bà cúng dường Như Lai th́ chắc chắn sẽ không vui.
Bà cảm thấy buồn rầu, ân hận nghiệp chướng ḿnh đă tạo nên khiến kiếp này sinh làm thân đàn bà, đâu đâu cũng bị người khác chỉ huy điều khiển, không tự do, không tự sinh sống được.
Khi buồn than như thế ḷng tin và dũng khí của con người thường tăng trưởng lên. V́ thế ḷng tin của người đàn bà Bà La Môn nọ đối với Đức Phật càng thêm kiên cố. Bà nghĩ ra một cách, bèn lấy chén đựng cơm ra chắt lấy nước, và đem một th́a nước chắt cơm ấy lên cúng dường Phật. Đức Phật hoan hỉ đón lấy và nói kệ rằng:
Đem trăm voi trắng
Đeo chuỗi anh lạc
Cùng ngọc châu sáng
Để mà bố thí
Công đức không bằng
Cúng dường Như Lai
Một th́a nước chắt.
Lúc ấy người chồng Bà La Môn từ trong nhà bước ra, thấy nghe mọi sự, lấy làm quái lạ bèn hỏi Đức Phật rằng:
- Một th́a nước cơm chắt ấy th́ trị giá được bao nhiêu, có cái ǵ quư báu đâu? Ông nói như thế tức là khi dối người ta, làm sao bảo người ta tin ông được?
Đức Phật ḥa nhă đáp:
- Ta từ lâu xa đến nay tu lục độ chưa lúc nào ngừng, nên điều ǵ ta làm hay nói ra đều là chân thật, không hư dối, ông nên tin ta là Phật, đă chứng thánh quả.
Đức Phật ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Tại đường La Duyệt trong thành Xá Vệ, ông đă từng thấy cây Ni Câu Đà cao hơn mười trượng chưa?
- Tôi biết, đó là một ngọn cây rất lớn, mùa hè là nơi duy nhất mà người ta có thế tới trốn nắng.
Đức Phật lại hỏi:
- Ông đă biết ngọn cây ấy lớn tới đâu, bây giờ ta hỏi ông, lúc ban đầu hạt mầm gieo xuống to cỡ chừng nào?
- To chừng một hạt giới tử thôi.
Người Bà La Môn trả lời không cần suy nghĩ.
- Hạt mầm chỉ to chừng một hạt giới tử, mà có thể mọc thành một ngọn cây đa che nửa bầu trời, ông có thể nói đó là một điều kỳ dị hay không? Không có ǵ kỳ dị trong ấy cả, đó là định luật tự nhiên, là luật tuần hoàn nhân quả. Hôm nay, hai vợ chồng ông đem th́a nước chắt cơm ra bố thí th́ kết quả thu hoạch được ở tương lai không phải là không tính lường được hay sao? Huống chi ta là ruộng phước lớn của công đức vô thượng, có đủ pháp bảo thù thắng. Các người cung kính cúng dường Phật, th́ phước báu trong tương lai không có hạn lượng.
Đức Phật thuyết lời thành thật ấy khiến hai vợ chồng Bà La Môn hết sức sùng kính khâm phục, từ đó hai người rất nhiệt thành trong việc thiết trai cúng dường. Khi kết liễu mạng sống, họ được sinh lên cơi trời, hưởng phúc lạc lâu dài của cơi ấy.
Không nhất thiết phải giàu có mới bố thí được, v́ trong Phật giáo, không phải chỉ có đem tiền tài ra cho mới gọi là bố thí. Nếu bạn thấy một người thực hành bố thí mà trong tâm không sinh ḷng ganh ghét, sân hận mà trái lại sinh tâm hoan hỉ, th́ công đức của bạn cùng với công đức của người bố thí kia ngang nhau. Điều thiện ấy thật quá dễ làm, sao chúng ta lại không chịu làm?
Đức Phật nói với mọi người rằng:
- Hai vợ chồng Bà La Môn bố thí một th́a nước cơm chắt ấy không những hiện tại sinh cơi trời hưởng phúc, mà vĩnh viễn sẽ không đọa ác đạo nữa. Rồi sau 30 kiếp, họ sẽ giáng sinh xuống nhân thế và sẽ thành Phật giữa loài người.
https://i.ibb.co/WFzKwbf/1237131-346406642162224-1977679745-n.jpg
SỰ TÍCH BÀI TÁN CHIÊN ĐÀN
Khi vua Tịnh Phạn hay tin Phật thành đạo, nhà vua và ḍng họ Thích rất vui mừng. Lúc ấy, em trai vua vừa sanh hoàng tử và xin vua Tịnh Phạn đặt tên. Vua liền đặt tên Khánh Hỷ (Vui Mừng), tức là tên của ngài A Nan.
Sau đó, lại nghe tin báo Gia Du Đà La vừa sanh La Hầu La, vua Tịnh Phạn vừa buồn vừa giận, cho đánh trống vàng, tập trung ḍng họ Thích để xét tội công chúa. Khi mọi người đă tập họp đông đủ, vua Tịnh Phạn cho mời Gia Du Đà La ra. Công chúa ôm con bước ra đứng trước mọi người. Nhà vua hỏi, “La Hầu La là con ai?”
Gia Du Đà La trả lời, “La Hầu La là con của thái tử Tất Đạt Đa.”
Nhà vua phán, “Thái tử đă đi tu sáu năm rồi, làm ǵ có con. Theo luật ḍng họ Thích, hễ cô gái nào ngoại t́nh th́ mẹ con phải nhảy vào hầm lửa để rửa sự ô nhục của ḍng họ.”
Nàng Gia Du Đà La liền ôm La Hầu La đến trước hầm lửa và phát nguyện, “Kính xin mười phương chư Phật chứng minh, nếu La Hầu La là con của thái tử Tất Đạt Đa th́ xin cho hầm lửa biến thành ao sen.”
Phát nguyện xong, nàng liền ôm con nhảy xuống hầm lửa. Nhiệm mầu thay, hầm lửa biến thành ao sen trước sự chứng kiến của mọi người. Nhà vua hết nghi ngờ liền ẵm cháu, đem công chúa Gia Du Đà La lên và nuôi dưỡng tử tế.
Phật dạy: La Hầu La ở tiền kiếp chơi nghịch, nhét hang chuột sáu ngày, sau nhớ mới mở ra. Do quả báo đó, phải ở trong bào thai sáu năm.
Bài Tán Chiên Đàn
Chiên Đàn hải ngạn
Lư nhiệt thanh hương.
Gia Du tử mẫu lưỡng vô ương
Hỏa nội đắc thanh lương
Chí tâm kim tương
Nhất chú biến thập phương.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Dịch nghĩa:
Cây chiên đàn đứng bên bờ biển
Đốt hương trong lư báu.
Mẹ con nàng Gia Du hết tai họa
Trong lửa nóng được mát mẻ.
Tâm thành chí kính
Một chút biến khắp mười phương.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Trích từ Góp Nhặt Lá Bồ Đề - HT. Thích Tịnh Nghiêm
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1619499&d=1594849960
RẮN TRẢ ƠN
Lúc Đức Phật Thích Ca c̣n ở Nhân địa tu Bồ Tát đạo, Ngài đă từng sinh ra làm một vị đại phú ông rất giàu có. Cây gỗ trong rừng và mỏ khoáng trong núi thuộc sở hữu của ông dùng suốt đời cũng không hết, c̣n nói về tiền bạc th́ phải đếm lên tới cả ngàn vạn ức kim tiền, tha hồ xử dụng chi tiêu. Ông là người từ bi, hỷ xả, thường thường bỏ ra cả ngàn lượng, cả vạn lượng vàng đem bố thí mà không chút tiếc nuối. Ông cũng hay lảng vảng trong chốn chợ búa, chờ thấy con thú vật đáng thương nào sắp gặp nạn, sắp bị giết làm thịt th́ vội vàng chạy tới mua về phóng sinh. Phóng sinh là tâm nguyện duy nhất của ông phú hộ nhân từ này, nên được người đời đặt tên là Thiện nhân.
Có một hôm, vị phú ông nhân từ ấy thấy ngoài chợ có một con rùa rất lớn, đang mở to hai mắt chăm chú nh́n ông. Con rùa có vẻ thống khổ vô hạn, nước mắt trào ra, như thể đang cầu xin ông cứu giúp.
Thấy thế ông rất buồn,vội vàng tiến đến xin mua con rùa. Người bán rùa, dĩ nhiên là muốn bán con rùa đi nhưng khi thấy Thiện nhân đến hỏi giá tiền, th́ cố ư làm khó dễ, trả lời là không muốn bán. Thiện nhân từ bi tha thiết muốn cứu mạng con rùa nên nài nỉ xin muạ Người bán rùa nói:
- Nếu ông nhất định muốn mua th́ phải trả cho tôi một vạn đồng tôi mới chịu bán, bằng không th́ tôi đem nó về giết làm thuốc uống!
Thiện nhân không chút do dự, đưa ra một vạn đồng mua rùa mang về.
Người bán rùa ḷng dạ đen tối ấy tuy có một vạn đồng bỏ túi nhưng nhà bị ăn trộm, rồi lâm bệnh nặng, sau đó c̣n bị cháy nhà khiến cho một vạn đồng tiền bị thiêu rụi, cuối cùng xơ xác lại hoàn xác xơ.
Thiện nhân mang con rùa lớn về nhà, đem những món ăn ngon lành nhất cho ăn, rồi thấy miệng rùa có vết thương, vội lấy thuốc bôi cho nó. Không lâu sau, vết thương trên miệng rùa đă lành, ông cho xe chở rùa ra bờ biển thả xuống nước, trả tự do cho nó về với trời đất.
Cách đó không lâu sau, vị phú ông từ bi đang ngồi tham thiền th́ bỗng nhiên có tiếng gơ lạch cạch ở cửa sau. Ông đến mở cửa xem, th́ ra đó là con rùa được ông cứu lúc trước. Con rùa mở miệng ra nói với ông rằng:
- Ân nhân, không lâu nữa ngôi thành này sẽ gặp nạn lớn. Dân chúng ở thành này nghiệp tội rất nặng, bây giờ nghiệp đă đến thời phải trả, không thể nào tránh khỏi tai họa. Chỉ có hai nhà là không nằm trong số người phải trả báo, một là nhà của ngài, hai là nhà của vuạ Ngày đó tháng đó, nguyên ngôi thành này sẽ ch́m lỉm dưới nước sau một trận lụt vĩ đại. Xin ân nhân cùng vua sớm chuẩn bị mướn người đóng tàu, hẹn nhau khi thấy nước lớn vừa dâng lên th́ mau lên tàu, thuận theo ḍng nước mà đi, tự nhiên sẽ t́m được nơi nương náu.
Con rùa lớn nói xong quay đầu đi mất. Thiện nhân rất ngạc nhiên, nhưng được một con rùa biết nói báo nguy trước, không thể không tin. Hôm sau ông bí mật báo cho vua biết chuyện đêm qua, họ cấp tốc chuẩn bị mọi sự. Đúng y như rằng, không bao lâu sau, nạn lụt xẩy ra trong thành. Khi một con nước lũ vừa ập đến là con rùa kia cũng xuất hiện, thôi thúc họ lên tàu mà đi. Con rùa bơi đằng trước, bảo họ rằng:
- Xin đi theo tôi, đừng để lạc mất phương hướng!
Khi con tàu đang lướt trên ḍng nước lũ, bỗng phía sau có một con rắn lớn bơi đến, ngóc đầu lên nh́n, dáng vẻ như xin được cứu mạng. Thiện nhân từ bi bèn ra lệnh ngừng tàu lại vớt con rắn lên. Con rùa phía trước nói:
- Ân nhân! con rắn này có duyên với ngài, sau này ngài sẽ hiểu.
Cách đó không xa, ông lại cứu một con cáo, và lại được rùa khen ngợi. Rồi đến phiên một người đang vùng vẫy trong ḍng nước lớn, la hét kêu cứu, Thiện nhân từ bi cũng muốn cứu y nhưng con rùa ngăn lại nói rằng:
- Đây là một người có tâm địa xấu xa, tốt nhất là đừng cứu y. Nếu hôm nay cứu y, sau này y sẽ hại ân nhân.
Thiện nhân trả lời:
- Bất cứ người nào chúng ta cũng phải cứu. Nếu chúng ta ích kỷ mà không cứu là phản bội lời chư Phật dạy, là phải xem tất cả b́nh đẳng như nhau. Dầu sau này có xẩy ra chuyện ǵ đi nữa, ta cũng phải cứu người này.
Rồi không màng tới lời ngăn cản của rùa, ông vớt người nọ ra khỏi nước cứu cho khỏi chết ch́m.
Đi một đỗi nữa th́ con rùa lớn lại mở miệng ra nói:
- Trời quang mây tạnh rồi, thiên tai đă qua rồi. Tôi xin tạm thời cáo biệt.
Nói xong nó bỏ đi ngaỵ Rắn và cáo cũng từ giă mà đi.
Đoàn người lênh đênh trên mặt nước một thời gian th́ khám phá một ḥn đảo nhỏ. Họ lên bờ, thấy ḥn đảo này có rất nhiều tài nguyên, chỉ tiếc là không có bao nhiêu dân cư trú. Họ quyết định lưu lại trên đảo ở tạm.
Có một hôm, con cáo xuất hiện một cách bất ngờ, nói với thiện nhân rằng:
- Ân nhân! Ngài đă cứu tôi thoát nạn, hôm nay tôi xin báo đáp ơn cứu mạng to lớn ấy. Vừa rồi tôi mới khám phá ra một kho tàng trong một cái huyệt giữa núi. Kho tàng này không nằm trong mộ phần của ai cũng không phải do tôi cướp giật, tức là của trời cho tôi. Nay tôi muốn đem kho tàng này dâng tặng cho ân nhân để báo đáp ơn sâu, xin ân nhân vui ḷng nhận.
Thiện nhân nghĩ rằng nếu không nhận và nếu chẳng may kho tàng này rơi vào tay một kẻ bất lương th́ không phải là đáng tiếc lắm sao? Chi bằng ta vui ḷng nhận, rồi đem bố thí cho người nghèo, và giúp đỡ tất cả những chúng sinh khốn cùng. Nghĩ như thế rồi, ông bằng ḷng nhận kho tàng của con cáo dâng tặng.
Khi ông đi lấy kho tàng về, th́ cái người được ông cứu khỏi chết ch́m lúc trước, không những không nghĩ tới chuyện đền ơn cứu mạng mà c̣n dùng lời dọa nạt và thủ đọan bắt thiện nhân phải chia cho ḿnh phân nửa kho tàng. Thiện nhân cho hắn mười cân vàng nhưng con người tâm địa đen tối ấy từ chối không nhận, dọa rằng:
- Nếu ông không chia cho tôi phân nửa, tôi sẽ tố cáo ông đă quật mồ cướp của.
Thiện nhân đáp:
- Thiên tai vừa qua chắc chắn đă làm cho rất nhiều người bị tán gia bại sản, tôi muốn đem số vàng này cứu giúp cho họ. Nếu ông lấy đi, hẳn không phải để làm điều tốt, tức là phản bội lương tâm, cho nên tôi không cho ông toại nguyện tà ư đó.
Người kia ôm mối hận, bí mật tố cáo với quan vu khống thiện nhân đă quật mồ cướp của. V́ thế thiện nhân tốt bụng bị bắt, nhưng ḷng không chút oán hận kẻ xấu xa đă vu khống ḿnh, chỉ thấy rằng ḿnh đă tạo nghiệp tội trong kiếp trước nên kiếp này mới bị quả báo xấu như thế này.
Ông không hề oán hận, chỉ cầu nguyện sao cho tất cả chúng sinh sớm thoát tai nạn, đừng kết oán với người khác để đừng bị giam trong tù ngục như ḿnh hôm nay.
Vua rắn và vua cáo là những con vật có tánh linh, chúng bèn họp nhau bàn bạc làm cách nào để cứu ân nhân đă bị giam trong ngục tù một cách oan uổng. Vua rắn nói với vua cáo rằng:
- Tôi có một cách này, nhất định cứu được ân nhân thoát nạn.
Nói xong vua rắn bèn cáo biệt vua cáo mà đi. Vua rắn một ḿnh ḅ lên núi t́m cỏ thuốc, đây là một loại thuốc có một không hai, có thể giải độc và xoa dịu mọi đau đớn trong chớp nhoáng. Vua rắn ngậm cỏ thuốc trong miệng ḅ vào ngục, nói với thiện nhân rằng:
- Đây là một loại cỏ thuốc có năng lực giải độc. Chốc nữa thái tử sẽ bị bệnh, không có thầy có thuốc nào có thể cứu được, chỉ có loại thuốc này mới có thể cứu thái tử thoát hiểm. Lúc đó ân nhân hăy nói với tên cai ngục là ḿnh có thuốc thần trừ độc, chắc chắn hắn sẽ loan tin ấy ra,và như thế ngày ân nhân ra khỏi tù sẽ không c̣n lâu nữa!
Vua rắn từ giă thiện nhân rồi, lén ḅ vào vương cung cắn chân thái tử một cái. Tức thời chất độc lan đi rất nhanh, tất cả thầy thuốc danh y đều bó tay chịu thua, nh́n thái tử chờ chết. Ông vua già chỉ có một đứa con trai duy nhất ấy thôi nên tâm can c̣n nóng nảy hơn đoàn kiến trong chảo nóng. Ông ra lệnh cho các đại thần dán bảng yết thị khắp nơi, cấp tốc kiếm một vị thần ỵ Nếu có ai cứu được thái tử khỏi bệnh th́ sẽ được phong làm thủ tướng, c̣n nếu ai làm môi giới đưa thần y đến th́ sẽ được thưởng một vạn lượng vàng.
Đúng như rắn chúa tiên đoán, tên cai ngục biết tin này bèn báo cho thiện nhân trong tù biết. Thiện nhân nói:
- Tôi có thuốc thần trong người.
Vua nghe tên cai ngục báo tin, vời thiện nhân vào cung bôi thuốc cho thái tử. Thuốc vừa bôi xong, thái tử lập tức hết đau và vết sưng cũng xẹp xuống ngay, nên được b́nh an thoát hiểm. Vua thấy chân thái tử lành lặn, vui mừng không kể xiết, bèn hỏi nguyên do tại sao thiện nhân bị vào tù. Khi biết thiện nhân bị tù oan, vua tự trách rằng:
- Ta là vua thất đức, và quan quân đại thần cũng thiếu sáng suốt nên để cho kẻ ác lừa bịp và cho người hiền bị phỉ báng!
Vua ra lệnh bắt con người vong ân bội nghĩa kia về chịu khổ h́nh, phong thiện nhân làm thủ tướng, và đại xá tất cả tội nhân khiến cho mọi ngục tù đều trống không trong khoảnh khắc.
Thiện nhân hiểu biết Phật pháp một cách thâm sâu, nên vua cung kính thỉnh ông khai thị. Thiện nhân bèn tuyên thuyết giáo nghĩa cứu khổ của Đức Phật cho vua nghe khiến vua được tỉnh ngộ, quy y Tam Bảo, tôn kính duy tŕ giới luật thanh tịnh, phát tâm từ bi rộng lớn, mở các kho vựa của quốc gia cứu giúp người nghèo khổ, chỉnh đốn việc giáo dục, xây cất viện dưỡng lăo và viện mồ côi, thương xót tất cả hữu t́nh. Về sau, đất nước này trở nên ḥa b́nh an lạc, được từ quang của Đức Phật chiếu rạng khắp nơi.
https://i.ibb.co/g3yD8cY/1175725-351688401634048-151637906-n.jpg
SÁT SANH CÚNG TẾ NGƯỜI CHẾT
Ngày xưa, để cúng tế người thân quá cố, người ta hay giết rất nhiều dê, cừu v.v.. gọi là "vật tế người chết". Chư tỳ kheo thấy ai cũng làm như thế bèn hỏi Đức Phật:
- Thế Tôn! Thiên hạ giết rất nhiều thú vật để cúng tế người chết. Làm như thế th́ có công đức nào?
- Này chư tỳ kheo, sát sinh để cúng tế người chết không hề có một công đức nào hết. Từ xưa đă có người hiền ngồi trong hư không mà thuyết pháp, nói tới các tội chướng của việc sát sinh, khiến cho người trong cơi Diêm Phù đă băi bỏ việc sát sinh để cúng tế. Thế mà chuyện quá khứ nay lại xuất hiện nữa rồi!
Đức Phật nói xong, tiếp tục kể chuyện xưa:
- Trong quá khứ, ở nước Ba La Nại có một vị giáo sư Bà La Môn danh tiếng, tinh thông ba tạng Vệ Đà, muốn cúng tế người chết nên đi bắt một con dê và dặn ḍ mấy đứa học tṛ rằng:
- Đem con dê này ra bờ sông tắm rửa, đeo hoa lên cổ cho nó, mua 5 đồng tiền thức ăn cho nó ăn, sửa soạn cho nó xong rồi dẫn nó về.
Mấy đứa học tṛ tuân lệnh đem dê ra bờ sông tắm rửa, và sửa soạn cho nó ngay tại đấy. Con dê thấy được nghiệp kiếp trước của ḿnh, biết rằng hôm nay đă đến ngày ḿnh thoát khỏi mọi khổ đau, mừng vui cười lớn, phát ra những âm thanh như tiếng b́nh vỡ. Nhưng nghĩ tới ông Bà La Môn kia sắp đem ḿnh ra giết và sẽ phải chịu quả báo đau khổ, bất giác sinh tâm thương xót cho ông ta, bèn lớn tiếng oà lên khóc. Bọn trẻ con học tṛ của Bà La Môn hỏi:
- Dê này, khi th́ mi cười lớn, khi th́ mi lại khóc to, tại sao vậy?
- Xin dắt tôi về gặp thầy của các người rồi hẵn hỏi lại tôi câu ấy.
Bọn trẻ bèn dắt dê về, đem mọi sự kể lại cho thầy nghe. Bà La Môn nghe kể xong hỏi dê:
- Tại sao mi cười rồi lại khóc?
Dê moi trong kư ức để hồi tưởng lại túc nghiệp của ḿnh, đáp lời Bà La Môn rằng:
- Bà La Môn, ngày xưa tôi cũng là một vị Bà La Môn, đọc tụng tinh thông quyển kinh "Ma Nô Pháp điển" như ông vậy. V́ muốn tế người chết nên tôi giết dê đem cúng, và trong 499 đời, tôi đă phải chịu quả khổ chết đứt đầu. Bây giờ là kiếp cuối cùng thứ 500, hôm nay tôi sẽ thoát hết mọi đau khổ, v́ thế tôi mới vui mừng mà cười tọ Tôi lại khóc ngay sau đó, là v́ tôi giết một con dê mà 500 đời phải bị cái nạn đầu ĺa khỏi cổ, tuy hôm nay tôi sẽ thoát tai ách đó rồi, nhưng nghĩ tới ông, Bà La Môn, ông giết tôi rồi lại sẽ chịu cái khổ chết đứt đầu trong 500 đời như tôi, tôi xót thương ông mà khóc.
- Dê ơi đừng sợ, ta sẽ không giết mi đâu.
- Bà La Môn, ông nói ǵ thế? Ông giết hay không giết tôi, hôm nay tôi cũng không thể thoát chết được.
- Dê đừng sợ, ta sẽ bảo vệ mi, sẽ đi cùng đường với mi.
- Bà La Môn! Sức bảo vệ của ông rất yếu, mà tội ác của tôi đă tạo lại rất lớn!
Bà La Môn đem dê đi thả, và ra lệnh không ai được giết nó, rồi sai bọn học tṛ cùng đi chung đường với dê. Dê được tự do, chạy vào khu rừng cây rậm ở dưới một mơm đá cao, vươn cổ lên gặm lá cây mà ăn. Đúng ngay sát na ấy, trên đỉnh mơm đá bỗng vang lên một tiếng sấm, một góc của tảng đá bị nẻ ra, rơi trúng ngay cổ con dê đang vươn lên lúc ấy, thế là dê bị đứt đầu mà chết. Có rất nhiều người bèn chạy đến tập trung xung quanh.
Lúc ấy ta là thần cây của chỗ ấy, thấy mọi người như thế bèn dùng thần lực ngồi ngay ngắn giữa hư không. Để cho những chúng sinh ấy biết quả báo của ác nghiệp mà không sát sinh nữa, ta thuyết pháp để cảnh giác họ cái khổ ghê rợn dưới địa ngục. Mọi người nghe pháp ấy, quá kinh sợ bị đọa địa ngục, từ đó ngưng bặt việc sát sinh. Ta cũng dạy mọi người thọ tŕ giới hạnh, và ai cũng nghe lời ta dạy, tích tụ những việc thiện như bố thí v.v... nên cuối cùng ai cũng được sinh lên cơi trời.
Sát sinh để cúng tế không hề có phúc báo mà c̣n là một việc tội lỗi, những người thích sát sinh cúng tế hăy mau hồi tỉnh.
Những người thích sát sinh tế tự, nếu nghe được những lời này của Đức Phật th́ hay biết bao!
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.