florida80
04-02-2020, 20:04
Liễu Trương
Tiến sĩ Văn học đối chiếu, Đại học Paris III, Sorbonne Nouvelle.
Nhật Tiến là một nhà văn cầm bút rất sớm. Năm 1951, mới 15 tuổi ông đă viết một truyện ngắn được đăng trên báo Giang Sơn, truyện Chiếc nhẫn mặt ngọc. Năm 1954, khi di cư vào Nam, ông sống ở Đà Lạt và viết kịch cho Đài phát thanh Ngự Lâm Quân. Về sau sống ở Sài G̣n, thỉnh thoảng ông cũng sáng tác kịch, ông có những vở kịch mang tên : Cơn Giông, Bên Bờ Vực, Ngọn Cờ Núi Lam. Nhật Tiến giải thích sở dĩ ông sáng tác kịch là v́ theo thói quen của thời ông c̣n là một hướng đạo sinh – ông đă từng là một tráng sinh, tráng đoàn phó Tráng Đoàn Bạch Đằng – quanh một lửa trại đêm, hướng đạo sinh thường tŕnh diễn văn nghệ, đóng kịch vui chơi, và từ đấy Nhật Tiến có sở thích viết kịch. Nhưng sáng tạo của Nhật Tiến không chỉ ở trong lĩnh vực kịch nghệ. Trước 1975, ông đă có khoảng 9 truyện dài mà truyện đầu tay là Những Người Áo Trắng (1959), 2 tập truyện ngắn, 3 tập truyện thiếu nhi và những văn bản thuộc những thể loại khác : nhật kư, bút kư…
Năm 1962, khi tác phẩm Người Kéo Màn của Nhật Tiến ra mắt độc giả, không ít người bỡ ngỡ trước một h́nh thức lạ lùng, chưa từng thấy, mà tác giả gọi là tiểu thuyết kịch. Cho nên nếu có những phản ứng đây đó th́ không có ǵ đáng ngạc nhiên.
I Phản ứng về tác phẩm Người Kéo Màn
Theo Nhật Tiến, kịch tác gia lăo thành Vi Huyền Đắc, người đă có công đặt nền móng cho môn thoại kịch, khuyên Nhật Tiến nên gọi tác phẩm Người Kéo Màn là một tiểu thuyết đối thoại. Nhưng tiểu thuyết nào mà chẳng có đối thoại ?
Và trong khi các nhà văn như Nguyễn Đ́nh Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Bùi Đ́nh… tiếp nhận tác phẩm Người Kéo Màn với một thái độ tán thành, th́ phía đại học, giáo sư Nguyễn Văn Trung tỏ ư ngờ vực h́nh thức mới này. Trong cuốn Lược Khảo Văn Học, tập II, chương Ngôn ngữ kịch, ông Nguyễn Văn Trung, sau khi nhắc đến cuộc tranh luận ở Tây phương về vấn đề: kịch là văn chương hay tŕnh diễn ? Và sau khi phân tích những yếu tố tạo nên kịch, đưa ra 2 điểm :
1/ Kịch là một bộ môn nghệ thuật được thực hiện bằng tŕnh diễn và tŕnh diễn do nhiều người đảm nhận.
2/ Kịch thiết yếu đ̣i hỏi một quần chúng xem kịch.
Vậy kịch là một bộ môn nghệ thuật cần có một tập thể để diễn xuất và một tập thể để thưởng thức. Nói chung, phải có tập thể th́ mới có kịch. Điều này không ai phủ nhận.
Theo Nguyễn Văn Trung, đặt vấn đề : kịch là văn chương hay tŕnh diễn không thể đưa đến những giải đáp ổn thỏa v́ cuộc tranh luận trở thành tranh luận về vai tṛ của tác giả kịch hay vai tṛ của nhà dàn cảnh. Cho tác giả một vai tṛ chủ yếu hay cho nhà dàn cảnh một vai tṛ chủ yếu, không bên nào hoàn toàn sai cả, vậy không đi đến đâu, v́ đặt vấn đề như thế là trong ư thức hệ cá nhân. Phải đặt vấn đề trong một tinh thần khác : tinh thần tập thể. Nếu tất cả (tác giả, nhà dàn cảnh, diễn viên…) đều coi đó là công tŕnh tập thể (…) trong một tinh thần trách nhiệm chung và với một ư định phục vụ quần chúng, nghệ thuật, th́ không c̣n vấn đề ai trọng ai khinh nữa.
Thiển nghĩ vấn đề tranh luận ở Tây phương, tức vấn đề kịch là văn chương hay tŕnh diễn, đơn giản là vấn đề định nghĩa bộ môn kịch. Người ta đặt câu hỏi : kịch là để đọc (văn chương) hay để xem (tŕnh diễn), chứ không phải tách rời sự tŕnh diễn để đặt ra vấn đề cá nhân hay tập thể, trọng hay khinh một cá nhân (tác giả hay nhà dàn cảnh), không phải vấn đề ư thức hệ cá nhân.
Sau khi phân tích kịch truyền thanh, truyền h́nh và nhắc đến truyện phim mà có người gọi là tiểu thuyết phim, ông Nguyễn văn Trung bàn đến Người Kéo Màn của Nhật Tiến. Ông đoán khi Nhật Tiến viết tác phẩm này chắc Nhật Tiến không biết đến cuộc tranh luận trên, nhưng một cách vô t́nh Nhật Tiến đă coi kịch là một thứ văn chương để đọc, là một thứ tiểu thuyết được bổ sung bằng một vài đặc điểm của kịch. (tr. 134)
Trong một lá thư trả lời của Nhật Tiến mà ông Nguyễn Văn Trung cho đăng, tiếp theo lời b́nh luận trên, Nhật Tiến giải thích v́ sao đă dùng một h́nh thức gồm 3 kỹ thuật : tiểu thuyết, kịch và điện ảnh. Đại khái Nhật Tiến muốn dùng ưu điểm của ba bộ môn : tiểu thuyết cho phép miêu tả, tŕnh bày tâm lư nhân vật và đi vào nội tâm, kịch với những đối thoại làm cho cốt truyện có tính linh động, và kỹ thuật điện ảnh cho thấy liên tiếp những h́nh ảnh mới.
Nhưng giải thích của Nhật Tiến không thuyết phục được ông Nguyễn Văn Trung, ông cho rằng không thể vượt qua ranh giới giữa tiểu thuyết và kịch, nếu xóa đi ranh giới th́ các bộ môn sẽ mất đi đặc tính của chúng.
Lập trường của tác giả và người phê b́nh là thế, đă đến lúc chúng ta đi vào tác phẩm Người Kéo Màn, tác phẩm kể chuyện ǵ ? Và như thế nào ?
II Nội dung Người Kéo Màn
Cần nói ngay Người Kéo Màn không phải là một vở kịch đúng theo nghĩa của nó, tức có thể được tŕnh diễn trên sân khấu, cũng không hẳn là một tiểu thuyết mà độc giả có thể đọc trong một tinh thần thư thái, v́ ở đây trí tưởng tượng của độc giả bị dồn dập thúc đẩy, phải theo dơi một không gian luôn biến đổi.
Tác giả Nhật Tiến dẫn độc giả vào cái thế giới của kịch nghệ, đằng sau sân khấu với đủ hạng người vội vàng, căng thẳng. Để hiểu nghệ thuật viết của Nhật Tiến, chúng ta cần theo dơi những t́nh tiết trong truyện.
Truyện khởi đầu bằng một ngoại cảnh : trước cửa hí viện, khán giả bắt đầu tụ tập, một đứa bé tàn tật đang ăn xin, nó ngơ ngác nh́n quang cảnh. Bỗng có tiếng một người đàn bà đang t́m nó, gọi nó là Cưng, bà ta chửi bới, đánh đập nó v́ nó không xin được tiền. Gần hí viện, trong một công viên, có một cặp vợ chồng, người vợ được gọi là thiếu phụ áo đỏ, người chồng là tác giả vở kịch sắp được tŕnh diễn trong hí viện. Tác giả ở trong một tâm trạng bứt rứt, dằn vặt, không hài ḷng về đoạn kết của vở kịch, và hối tiếc đă giao vở kịch cho người ta tŕnh diễn. Người vợ trái lại rất măn nguyện về cách diễn tiến của sự việc, và trách chồng là không bao giờ vừa ư, bà ta hoàn toàn không hiểu được chồng, cuối cùng bà ta thổ lộ rằng nhờ bà ta mà vở kịch mới tiến hành tốt đẹp như thế. Người chồng đâm nghi ngờ vợ đă có ǵ với « nó » để « nó » bỏ tiền ra thực hiện vở kịch. Cuộc căi cọ mỗi lúc một găng, rồi người chồng bỏ đi, không thèm vào hí viện xem tŕnh diễn vở kịch của ḿnh.
Bên trong hí viện, ở hậu trường những nhân vật chính xuất hiện từng cặp : ông lăo kéo màn, mặt mày hốc hác, sặc sụa mùi rượu, và thằng bé bóp nắm xôi trong bàn tay cáu bẩn của nó. Ông lăo nói cho thằng bé biết bố nó đă bỏ gánh hát, mẹ nó đẻ nó xong cũng chuồn đi, bỏ nó lại cho ông. Cặp thứ hai là diễn viên đóng vai Nga và diễn viên đóng vai Nghĩa. Người nữ diễn viên tỏ vẻ lo lắng v́ đây là lần đầu tiên cô diễn kịch, người nam diễn viên trấn an cô. Cặp thứ ba là nhà Đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân. Nhà Đạo diễn chỉ trích cặp diễn viên khi họ đang diễn thử một mẩu đối thoại, ông ta không vừa ư, bỏ đi và tự hỏi tại sao ḿnh phải quỵ lụy lăo Mạnh Thường Quân. Nhà Mạnh Thường Quân hút x́ gà, la rầy, ra lệnh cho người này người nọ, tập đọc bài diễn văn và từ chối gặp người thiếu phụ áo đỏ v́ bận.
Ở ngoại cảnh, trong một quán rượu, hắn, tức tác giả, uống nhiều rượu, say khướt, lẫn lộn thực với ảo. Thấy một ca sĩ lên hát được nhiều người vỗ tay, hắn tưởng ḿnh đang ở trong hí viện, và vở kịch của hắn đang được khán giả vỗ tay, hắn bèn loạng choạng bước lên bục gỗ để nói đôi lời với khán giả, nhưng liền bị tống ra khỏi quán. Hắn leo lên một chiếc xích lô.
Trở lại hậu trường để thấy sự căng thẳng giữa nhà Đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân. Đạo diễn không bằng ḷng diễn viên nam đă quên mấy câu của kịch bản. Mạnh Thường Quân trái lại nhận thấy điều đó không quan trọng. Mạnh Thường Quân càng tỏ vẻ dễ dăi chừng nào th́ Đạo diễn càng khó tính chừng đó và cứ dựa vào cái mẫu của các nhà đạo diễn ngoại quốc. Đạo diễn lại không bằng ḷng nữ diễn viên trong khi Mạnh Thường Quân khen nịnh diễn viên này v́ có hậu ư.
https://i.imgur.com/qbRxqqv.jpg
Ở ngoại cảnh, người phu xích lô đưa tác giả đến một nhà chứa, tác giả đă tỉnh rượu, gặp bà chủ chứa, bà này cho hay tác giả đă có một đứa con với một phụ nữ tên Hằng, Hằng đă đem cho người ta đứa con tên Nguyễn Văn Cưng. Tác giả bị thằng bé ám ảnh, cảm thấy đau xót.
Tiến sĩ Văn học đối chiếu, Đại học Paris III, Sorbonne Nouvelle.
Nhật Tiến là một nhà văn cầm bút rất sớm. Năm 1951, mới 15 tuổi ông đă viết một truyện ngắn được đăng trên báo Giang Sơn, truyện Chiếc nhẫn mặt ngọc. Năm 1954, khi di cư vào Nam, ông sống ở Đà Lạt và viết kịch cho Đài phát thanh Ngự Lâm Quân. Về sau sống ở Sài G̣n, thỉnh thoảng ông cũng sáng tác kịch, ông có những vở kịch mang tên : Cơn Giông, Bên Bờ Vực, Ngọn Cờ Núi Lam. Nhật Tiến giải thích sở dĩ ông sáng tác kịch là v́ theo thói quen của thời ông c̣n là một hướng đạo sinh – ông đă từng là một tráng sinh, tráng đoàn phó Tráng Đoàn Bạch Đằng – quanh một lửa trại đêm, hướng đạo sinh thường tŕnh diễn văn nghệ, đóng kịch vui chơi, và từ đấy Nhật Tiến có sở thích viết kịch. Nhưng sáng tạo của Nhật Tiến không chỉ ở trong lĩnh vực kịch nghệ. Trước 1975, ông đă có khoảng 9 truyện dài mà truyện đầu tay là Những Người Áo Trắng (1959), 2 tập truyện ngắn, 3 tập truyện thiếu nhi và những văn bản thuộc những thể loại khác : nhật kư, bút kư…
Năm 1962, khi tác phẩm Người Kéo Màn của Nhật Tiến ra mắt độc giả, không ít người bỡ ngỡ trước một h́nh thức lạ lùng, chưa từng thấy, mà tác giả gọi là tiểu thuyết kịch. Cho nên nếu có những phản ứng đây đó th́ không có ǵ đáng ngạc nhiên.
I Phản ứng về tác phẩm Người Kéo Màn
Theo Nhật Tiến, kịch tác gia lăo thành Vi Huyền Đắc, người đă có công đặt nền móng cho môn thoại kịch, khuyên Nhật Tiến nên gọi tác phẩm Người Kéo Màn là một tiểu thuyết đối thoại. Nhưng tiểu thuyết nào mà chẳng có đối thoại ?
Và trong khi các nhà văn như Nguyễn Đ́nh Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Bùi Đ́nh… tiếp nhận tác phẩm Người Kéo Màn với một thái độ tán thành, th́ phía đại học, giáo sư Nguyễn Văn Trung tỏ ư ngờ vực h́nh thức mới này. Trong cuốn Lược Khảo Văn Học, tập II, chương Ngôn ngữ kịch, ông Nguyễn Văn Trung, sau khi nhắc đến cuộc tranh luận ở Tây phương về vấn đề: kịch là văn chương hay tŕnh diễn ? Và sau khi phân tích những yếu tố tạo nên kịch, đưa ra 2 điểm :
1/ Kịch là một bộ môn nghệ thuật được thực hiện bằng tŕnh diễn và tŕnh diễn do nhiều người đảm nhận.
2/ Kịch thiết yếu đ̣i hỏi một quần chúng xem kịch.
Vậy kịch là một bộ môn nghệ thuật cần có một tập thể để diễn xuất và một tập thể để thưởng thức. Nói chung, phải có tập thể th́ mới có kịch. Điều này không ai phủ nhận.
Theo Nguyễn Văn Trung, đặt vấn đề : kịch là văn chương hay tŕnh diễn không thể đưa đến những giải đáp ổn thỏa v́ cuộc tranh luận trở thành tranh luận về vai tṛ của tác giả kịch hay vai tṛ của nhà dàn cảnh. Cho tác giả một vai tṛ chủ yếu hay cho nhà dàn cảnh một vai tṛ chủ yếu, không bên nào hoàn toàn sai cả, vậy không đi đến đâu, v́ đặt vấn đề như thế là trong ư thức hệ cá nhân. Phải đặt vấn đề trong một tinh thần khác : tinh thần tập thể. Nếu tất cả (tác giả, nhà dàn cảnh, diễn viên…) đều coi đó là công tŕnh tập thể (…) trong một tinh thần trách nhiệm chung và với một ư định phục vụ quần chúng, nghệ thuật, th́ không c̣n vấn đề ai trọng ai khinh nữa.
Thiển nghĩ vấn đề tranh luận ở Tây phương, tức vấn đề kịch là văn chương hay tŕnh diễn, đơn giản là vấn đề định nghĩa bộ môn kịch. Người ta đặt câu hỏi : kịch là để đọc (văn chương) hay để xem (tŕnh diễn), chứ không phải tách rời sự tŕnh diễn để đặt ra vấn đề cá nhân hay tập thể, trọng hay khinh một cá nhân (tác giả hay nhà dàn cảnh), không phải vấn đề ư thức hệ cá nhân.
Sau khi phân tích kịch truyền thanh, truyền h́nh và nhắc đến truyện phim mà có người gọi là tiểu thuyết phim, ông Nguyễn văn Trung bàn đến Người Kéo Màn của Nhật Tiến. Ông đoán khi Nhật Tiến viết tác phẩm này chắc Nhật Tiến không biết đến cuộc tranh luận trên, nhưng một cách vô t́nh Nhật Tiến đă coi kịch là một thứ văn chương để đọc, là một thứ tiểu thuyết được bổ sung bằng một vài đặc điểm của kịch. (tr. 134)
Trong một lá thư trả lời của Nhật Tiến mà ông Nguyễn Văn Trung cho đăng, tiếp theo lời b́nh luận trên, Nhật Tiến giải thích v́ sao đă dùng một h́nh thức gồm 3 kỹ thuật : tiểu thuyết, kịch và điện ảnh. Đại khái Nhật Tiến muốn dùng ưu điểm của ba bộ môn : tiểu thuyết cho phép miêu tả, tŕnh bày tâm lư nhân vật và đi vào nội tâm, kịch với những đối thoại làm cho cốt truyện có tính linh động, và kỹ thuật điện ảnh cho thấy liên tiếp những h́nh ảnh mới.
Nhưng giải thích của Nhật Tiến không thuyết phục được ông Nguyễn Văn Trung, ông cho rằng không thể vượt qua ranh giới giữa tiểu thuyết và kịch, nếu xóa đi ranh giới th́ các bộ môn sẽ mất đi đặc tính của chúng.
Lập trường của tác giả và người phê b́nh là thế, đă đến lúc chúng ta đi vào tác phẩm Người Kéo Màn, tác phẩm kể chuyện ǵ ? Và như thế nào ?
II Nội dung Người Kéo Màn
Cần nói ngay Người Kéo Màn không phải là một vở kịch đúng theo nghĩa của nó, tức có thể được tŕnh diễn trên sân khấu, cũng không hẳn là một tiểu thuyết mà độc giả có thể đọc trong một tinh thần thư thái, v́ ở đây trí tưởng tượng của độc giả bị dồn dập thúc đẩy, phải theo dơi một không gian luôn biến đổi.
Tác giả Nhật Tiến dẫn độc giả vào cái thế giới của kịch nghệ, đằng sau sân khấu với đủ hạng người vội vàng, căng thẳng. Để hiểu nghệ thuật viết của Nhật Tiến, chúng ta cần theo dơi những t́nh tiết trong truyện.
Truyện khởi đầu bằng một ngoại cảnh : trước cửa hí viện, khán giả bắt đầu tụ tập, một đứa bé tàn tật đang ăn xin, nó ngơ ngác nh́n quang cảnh. Bỗng có tiếng một người đàn bà đang t́m nó, gọi nó là Cưng, bà ta chửi bới, đánh đập nó v́ nó không xin được tiền. Gần hí viện, trong một công viên, có một cặp vợ chồng, người vợ được gọi là thiếu phụ áo đỏ, người chồng là tác giả vở kịch sắp được tŕnh diễn trong hí viện. Tác giả ở trong một tâm trạng bứt rứt, dằn vặt, không hài ḷng về đoạn kết của vở kịch, và hối tiếc đă giao vở kịch cho người ta tŕnh diễn. Người vợ trái lại rất măn nguyện về cách diễn tiến của sự việc, và trách chồng là không bao giờ vừa ư, bà ta hoàn toàn không hiểu được chồng, cuối cùng bà ta thổ lộ rằng nhờ bà ta mà vở kịch mới tiến hành tốt đẹp như thế. Người chồng đâm nghi ngờ vợ đă có ǵ với « nó » để « nó » bỏ tiền ra thực hiện vở kịch. Cuộc căi cọ mỗi lúc một găng, rồi người chồng bỏ đi, không thèm vào hí viện xem tŕnh diễn vở kịch của ḿnh.
Bên trong hí viện, ở hậu trường những nhân vật chính xuất hiện từng cặp : ông lăo kéo màn, mặt mày hốc hác, sặc sụa mùi rượu, và thằng bé bóp nắm xôi trong bàn tay cáu bẩn của nó. Ông lăo nói cho thằng bé biết bố nó đă bỏ gánh hát, mẹ nó đẻ nó xong cũng chuồn đi, bỏ nó lại cho ông. Cặp thứ hai là diễn viên đóng vai Nga và diễn viên đóng vai Nghĩa. Người nữ diễn viên tỏ vẻ lo lắng v́ đây là lần đầu tiên cô diễn kịch, người nam diễn viên trấn an cô. Cặp thứ ba là nhà Đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân. Nhà Đạo diễn chỉ trích cặp diễn viên khi họ đang diễn thử một mẩu đối thoại, ông ta không vừa ư, bỏ đi và tự hỏi tại sao ḿnh phải quỵ lụy lăo Mạnh Thường Quân. Nhà Mạnh Thường Quân hút x́ gà, la rầy, ra lệnh cho người này người nọ, tập đọc bài diễn văn và từ chối gặp người thiếu phụ áo đỏ v́ bận.
Ở ngoại cảnh, trong một quán rượu, hắn, tức tác giả, uống nhiều rượu, say khướt, lẫn lộn thực với ảo. Thấy một ca sĩ lên hát được nhiều người vỗ tay, hắn tưởng ḿnh đang ở trong hí viện, và vở kịch của hắn đang được khán giả vỗ tay, hắn bèn loạng choạng bước lên bục gỗ để nói đôi lời với khán giả, nhưng liền bị tống ra khỏi quán. Hắn leo lên một chiếc xích lô.
Trở lại hậu trường để thấy sự căng thẳng giữa nhà Đạo diễn và nhà Mạnh Thường Quân. Đạo diễn không bằng ḷng diễn viên nam đă quên mấy câu của kịch bản. Mạnh Thường Quân trái lại nhận thấy điều đó không quan trọng. Mạnh Thường Quân càng tỏ vẻ dễ dăi chừng nào th́ Đạo diễn càng khó tính chừng đó và cứ dựa vào cái mẫu của các nhà đạo diễn ngoại quốc. Đạo diễn lại không bằng ḷng nữ diễn viên trong khi Mạnh Thường Quân khen nịnh diễn viên này v́ có hậu ư.
https://i.imgur.com/qbRxqqv.jpg
Ở ngoại cảnh, người phu xích lô đưa tác giả đến một nhà chứa, tác giả đă tỉnh rượu, gặp bà chủ chứa, bà này cho hay tác giả đă có một đứa con với một phụ nữ tên Hằng, Hằng đă đem cho người ta đứa con tên Nguyễn Văn Cưng. Tác giả bị thằng bé ám ảnh, cảm thấy đau xót.