nguoiduatinabc
04-11-2020, 13:34
Thật không thể ngờ năm 2020, con người lại phải gánh chịu dịch bệnh khủng khiếp đến vậy. Người không mắc bệnh th́ làm không ra tiền, giờ đến chỗ ở cũng không có.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562675&stc=1&d=1586612029
“Trước khi có dịch, tôi kiếm mỗi tháng khoảng sáu triệu đồng đổ lại. Th́ mướn cái nhà một triệu rưỡi, c̣n lại là ăn uống, xoay xở lặt vặt. Hai tháng nay, không kiếm ra tiền, chẳng dám mướn nhà nữa, dọn ra đây ở tạm đă” – ông già sửa xe 70 tuổi cười móm mém bên cái lều bạt dựng xiêu vẹo trên vỉa hè đường Hai Bà Trưng, trung tâm Sài G̣n.
Ông già tên Nguyễn Văn Hạnh, làm nghề sửa xe hơn 10 năm nay. Nghe nói ông từng là lính ở chế độ cũ, bị tù cải tạo 10 năm, khi ra tù th́ vợ đă bỏ đi, nhà đă mất. Kiện tụng đ̣i nhà măi 5-6 năm không được kết quả ǵ, ông đành buông. Ông từng làm nhiều nghề để kiếm sống: đóng giày, sửa giày dép, bán phở, chạy xe ôm, cuối cùng già yếu, mất sức nên đậu lại ở nghề sửa xe.
Bây giờ “nhà” của ông Hạnh là miếng bạt che trên một diện tích vỉa hè chừng ba mét vuông, một xe máy cũ nát, vài viên gạch làm bếp và một cái lon (ống bơ) đựng gạo. Tài sản quư nhất của ông là bộ đồ nghề sửa xe và bầy mèo hoang làm bầu bạn.
Măi mới có khách ghé, ông già được dịp khề khà: “Bây giờ tạm thời ở đây luôn, chứ chú không trả được tiền mướn nhà. Hai tháng gần đây chú đâu có làm ra đồng nào đâu con. Chú nấu cho mèo ăn là chính. Phần chú, cứ mua miếng đậu bắp với giỏ cá nục về. Một giỏ ba con cá, 10 ngàn đồng, ăn một hộp hai, ba ngày. Chú ăn không có bao nhiêu đâu, nhưng mấy con mèo này ăn linh tinh một ngày cũng tới cả chục ngàn đồng đó”.
Mười ngàn đồng, nghĩa là không tới nửa đô-la, nhưng với ông già 70 tuổi này, như thế đă là nhiều.
Lâu nay ông Hạnh sống nhờ vào tiền sửa xe và tiền mà các nhà hảo tâm cho. Ông cũng hay được mọi người cho đồ ăn, khi nào đói quá ông lại t́m đến các quán cơm xă hội (như chuỗi quán cơm Nụ Cười mà ông khen là “đồ ăn ngon lại vệ sinh”). Nhưng đấy là trước khi dịch nCovid bùng phát. Kể từ khi có dịch, hai tháng nay, đường phố vắng, ông không c̣n khách nữa. Đến quán cơm th́ không chở bộ đồ nghề sửa xe theo được, mà để lại “nhà” th́ chỉ sợ mùa dịch trộm cắp nhiều, chúng lại lấy mất của ông.
“Từ sáng qua tới giờ (9h tối) chú mới kiếm được gần năm chục. Thôi th́ kệ, khi nào người ta có th́ người ta lại cho ḿnh”.
* * *
Ở một góc phố khác, bên quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh, có bà già bán rau cũng bám vỉa hè suốt từ 6-7h tối đến đêm. Bà có cái tên đẹp là Huỳnh Ngọc Oanh, 69 tuổi. Bà “khá giả” hơn ông Hạnh v́ c̣n có cái nhà để chui ra chui vào, nhưng lại vất vả hơn ông v́ gần như bị tàn tật, chân trái đi khập khiễng. Năm ngoái bà bị ngă, găy thêm tay phải, nhưng do không có tiền chữa trị nên vết thương… tự lành, chỉ ḷi xương ra thành một cục lớn ở cổ tay. Chồng bà mất đă lâu, hai đứa con th́ một đứa lấy vợ ở xa, hầu như chẳng giúp ǵ mẹ, c̣n một đứa đang đi cai nghiện.
Trước khi có dịch bệnh, mỗi ngày bà Oanh cũng bán được trung b́nh 100.000 đồng tiền rau củ. Nhưng hai tháng nay, bà đói, đói thực sự. Tiền không kiếm ra, bà trông chờ vào đồ ăn mọi người cho. “Có hôm tôi được ba, bốn người cho cơm, có hôm lại chẳng được ǵ. Thành ra, kinh nghiệm là ḿnh đừng có ăn hết, ḿnh phải để dành, ngày mai ḿnh ăn nữa. Rồi đồ ăn có bị nhớt nhớt chút đó, th́ ḿnh rửa đi. Cơm có hơi chua th́ ḿnh nấu cháo. Hồi trước, tôi đi bán hàng từ 6-7h, sớm lắm, bây giờ th́ đi không nổi nữa, mà có đi sớm cũng ế. Ở nhà đói bụng th́ nhắm mắt ngủ hoài à” – bà cười hơ hơ.
Và tại một góc phố khác nữa, có bà cụ 84 tuổi – “bà Tư bánh” – vẫn ngồi thu lu bên mẹt chè kho, bánh đa nướng, mỗi bịch chỉ 30.000-40.000 đồng, và bán măi tới 2h sáng vẫn chưa hết. Có hôm, công an khu vực đi ngang qua, trông thấy bà ngồi vỉa hè bán hàng giữa mùa dịch, không nỡ đuổi, bèn mua luôn chỗ bánh c̣n lại cho bà về. Bà cụ được về sớm một tối, nhưng hôm sau, bà lại mang mẹt hàng ra nữa…
* * *
Với những người như ông Hạnh, bà Oanh, bà Tư bánh, và hàng trăm hàng ngàn người khác đang bám vỉa hè từng ngày, từng đêm để kiếm ăn, cách ly xă hội không phải một dịp để “sống chậm”, dành thời gian chăm sóc gia đ́nh, hay trổ tài nấu ăn và chụp h́nh đăng Facebook. Cách ly xă hội cũng không phải lúc để họ đọc báo, nghe đài, xem tivi để theo dơi các chính sách của Nhà nước, phân tích, b́nh luận, dự đoán để rồi “ngạo nghễ tự hào” hay “hằn học bất măn” (hai thái cực tâm lư trái ngược nhau). Họ biết về dịch chỉ qua những nguồn tin vỉa hè (đúng nghĩa vỉa hè), qua việc lượng khách mua hàng giảm hẳn, và qua kinh nghiệm hay kư ức của họ về những biến động xă hội khủng khiếp họ từng nếm trải trong đời.
Từ những kinh nghiệm của ḿnh, ông Hạnh nhận định, như một nhà quan sát: “Cứ dịch bệnh đến là thiếu thốn, là đói. Đói th́ cướp. Chuyện này sẽ xảy đến thôi, dịch mà. Dịch càng kéo dài th́ tệ nạn cướp giật càng dữ, con người đối với nhau càng ác. Đói quá, đến đường cùng th́ ăn thịt nhau ấy chứ. Nhưng mà chú tính rồi, chú không sống tới lúc đó được đâu. Dịch kéo dài là chú chết trước đó. Tại sao á? Tại v́ nghèo. Người có tiền th́ sống được sáu tháng, ba tháng, người nghèo như chú th́ chỉ ba ngày là chết”.
Người nghèo. Dường như có cả một tầng lớp đông đảo đang sống cùng chúng ta trong xă hội, nhưng hoàn toàn nằm ngoài thế giới của chúng ta.
Họ sống ngày nào biết ngày đó, không có tiền tiết kiệm hay bất cứ một khoản dự trữ nào. Họ không làm cho cơ quan nào để mà có trợ cấp hay bảo hiểm. Thậm chí, họ không có hộ khẩu, không có địa chỉ chính thức để được nhận hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Khẩu trang, cồn, nước rửa tay… với họ là những sản phẩm xa xỉ. Chết đói – ngay trong những năm tháng của thập niên thứ ba của thế kỷ 21 này – là nguy cơ có thật, lơ lửng trên đầu họ.
Quốc gia nào, chế độ nào cũng có những người sống dưới đáy xă hội. Nhưng ở các nước công nghiệp phát triển, gắn với nền dân chủ vững mạnh, những công dân dưới đáy không phải đối mặt với rủi ro chết đói, chết khát, chết rét (ngay cả trong hoàn cảnh khủng hoảng toàn xă hội), và thậm chí, nếu họ đủ nỗ lực, c̣n có cơ hội để dịch chuyển “lên” tầng lớp cao hơn.
Ở đây, câu chuyện liên quan đến khái niệm lưu động xă hội (social mobility) – sự dịch chuyển của cá nhân hay hộ gia đ́nh giữa các tầng lớp trong xă hội, là sự thay đổi vị thế xă hội của cá nhân hay hộ gia đ́nh đó (theo chiều đi lên hoặc đi xuống). Có thể thấy ngay là lưu động xă hội là một khái niệm xa lạ ở Việt Nam, nơi mà sự dịch chuyển theo hướng đi lên là hiếm. Nói cách khác, với dân Việt Nam, luôn có một tỷ lệ “nghèo bền vững”, một khả năng rất cao “con vua th́ lại làm vua, con săi ở chùa lại quét lá đa”. Không tồn tại “giấc mơ Việt Nam” như “giấc mơ Mỹ”, tức là không phải cứ chăm chỉ lao động, nhiệt t́nh và có trách nhiệm, là thay đổi được phận nghèo.
➡️ An sinh xă hội đâu rồi?
Nhưng ta hăy trở lại với việc “không để người dân nào chết đói” như một khẩu hiệu được các facebooker ở Sài G̣n lan truyền trong vài tuần gần đây.
Đúng là ở Mỹ, Canada, Úc, hay châu Âu, đâu cũng có người nghèo, sống dưới đáy xă hội. Nhưng mức nghèo của họ hẳn là khá giả hơn mức nghèo ở Việt Nam, không ai trong số họ phải chịu rủi ro chết đói. Điều đó là nhờ xă hội luôn có một “bộ đệm” tốt, để bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người dân: tồn tại. “Bộ đệm” ấy là nhà nước phúc lợi và xă hội dân sự.
Xă hội dân sự có sứ mệnh chia sẻ và thúc đẩy lợi ích chung, c̣n nhà nước có trách nhiệm cung cấp an sinh xă hội – được hiểu là những hỗ trợ tài chính của nhà nước dành cho người nghèo (có thu nhập thấp hoặc không thu nhập) – đặc biệt là khi phải đối phó với những biến cố như khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh, thiên tai, thảm họa.
Ở Việt Nam, khác với những lần khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng trong quá khứ (ví dụ đợt khủng hoảng giá-lương-tiền giữa thập niên 1980), kỳ dịch bệnh này, Chính phủ đă có ư thức hơn hẳn về an sinh xă hội. Chiều 5/4 vừa qua, tại phiên họp Thường trực Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch nCovid, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đă nhấn mạnh rằng phải thực hiện nhanh các gói hỗ trợ an sinh xă hội “v́ cuộc sống người dân không thể chờ đợi hơn”.
Tuy nhiên, trên thực tế, dân chúng cũng đă có những trải nghiệm từ việc triển khai gói hỗ trợ trong khủng hoảng kinh tế 2008, rồi gói 500 triệu USD bồi thường sau thảm họa môi trường biển miền Trung do tập đoàn Formosa gây ra. Đặc điểm chung là quy tŕnh kéo dài, thủ tục phức tạp, nhiều trung gian, và đặc biệt, tính công bằng cũng như hiệu quả đều rất đáng ngờ. Theo ghi nhận của một số nhà hoạt động môi trường trong nhóm xă hội dân sự Green Trees, đến nay, chưa hề có đánh giá chính thức và trung thực nào về hiệu quả của những gói hỗ trợ hay bồi thường này. Đa số người dân chỉ biết rằng họ mất rất nhiều thời gian và công sức để có thể nhận tiền, và sau khi được hỗ trợ, cuộc sống của họ cũng không thay đổi ǵ so với trước.
Đây đó, đă có những ư kiến của cư dân mạng cho rằng chẳng thà nhà nước cung cấp an sinh xă hội bằng cách hỗ trợ trực tiếp vào giá năng lượng (giảm giá xăng, miễn phí tiền điện…) c̣n có hiệu quả nhanh, rơ ràng hơn.
Đại dịch nCovid đă vào Việt Nam từ Tết nguyên đán (cuối tháng 1), và bùng phát từ cuối tháng 3, khi con số người nhiễm bệnh không c̣n dừng ở 16 ca. Cho đến nay, trong khi các hoạt động của xă hội dân sự nở rộ, nhất là ở Sài G̣n, th́ vẫn chưa người dân nào trong hàng ngàn người nghèo đang sống bám vào vỉa hè, mặt đường nhận được hỗ trợ từ nhà nước. Khái niệm “an sinh xă hội”, “nhà nước phúc lợi”, đối với những phận nghèo như ông Hạnh sửa xe, bà Oanh bán rau hay bà Tư bán bánh kia, vẫn c̣n hoàn toàn xa lạ.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562676&stc=1&d=1586612029
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562677&stc=1&d=1586612029
Nguồn: Luật Khoa Tạp Chí
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562675&stc=1&d=1586612029
“Trước khi có dịch, tôi kiếm mỗi tháng khoảng sáu triệu đồng đổ lại. Th́ mướn cái nhà một triệu rưỡi, c̣n lại là ăn uống, xoay xở lặt vặt. Hai tháng nay, không kiếm ra tiền, chẳng dám mướn nhà nữa, dọn ra đây ở tạm đă” – ông già sửa xe 70 tuổi cười móm mém bên cái lều bạt dựng xiêu vẹo trên vỉa hè đường Hai Bà Trưng, trung tâm Sài G̣n.
Ông già tên Nguyễn Văn Hạnh, làm nghề sửa xe hơn 10 năm nay. Nghe nói ông từng là lính ở chế độ cũ, bị tù cải tạo 10 năm, khi ra tù th́ vợ đă bỏ đi, nhà đă mất. Kiện tụng đ̣i nhà măi 5-6 năm không được kết quả ǵ, ông đành buông. Ông từng làm nhiều nghề để kiếm sống: đóng giày, sửa giày dép, bán phở, chạy xe ôm, cuối cùng già yếu, mất sức nên đậu lại ở nghề sửa xe.
Bây giờ “nhà” của ông Hạnh là miếng bạt che trên một diện tích vỉa hè chừng ba mét vuông, một xe máy cũ nát, vài viên gạch làm bếp và một cái lon (ống bơ) đựng gạo. Tài sản quư nhất của ông là bộ đồ nghề sửa xe và bầy mèo hoang làm bầu bạn.
Măi mới có khách ghé, ông già được dịp khề khà: “Bây giờ tạm thời ở đây luôn, chứ chú không trả được tiền mướn nhà. Hai tháng gần đây chú đâu có làm ra đồng nào đâu con. Chú nấu cho mèo ăn là chính. Phần chú, cứ mua miếng đậu bắp với giỏ cá nục về. Một giỏ ba con cá, 10 ngàn đồng, ăn một hộp hai, ba ngày. Chú ăn không có bao nhiêu đâu, nhưng mấy con mèo này ăn linh tinh một ngày cũng tới cả chục ngàn đồng đó”.
Mười ngàn đồng, nghĩa là không tới nửa đô-la, nhưng với ông già 70 tuổi này, như thế đă là nhiều.
Lâu nay ông Hạnh sống nhờ vào tiền sửa xe và tiền mà các nhà hảo tâm cho. Ông cũng hay được mọi người cho đồ ăn, khi nào đói quá ông lại t́m đến các quán cơm xă hội (như chuỗi quán cơm Nụ Cười mà ông khen là “đồ ăn ngon lại vệ sinh”). Nhưng đấy là trước khi dịch nCovid bùng phát. Kể từ khi có dịch, hai tháng nay, đường phố vắng, ông không c̣n khách nữa. Đến quán cơm th́ không chở bộ đồ nghề sửa xe theo được, mà để lại “nhà” th́ chỉ sợ mùa dịch trộm cắp nhiều, chúng lại lấy mất của ông.
“Từ sáng qua tới giờ (9h tối) chú mới kiếm được gần năm chục. Thôi th́ kệ, khi nào người ta có th́ người ta lại cho ḿnh”.
* * *
Ở một góc phố khác, bên quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh, có bà già bán rau cũng bám vỉa hè suốt từ 6-7h tối đến đêm. Bà có cái tên đẹp là Huỳnh Ngọc Oanh, 69 tuổi. Bà “khá giả” hơn ông Hạnh v́ c̣n có cái nhà để chui ra chui vào, nhưng lại vất vả hơn ông v́ gần như bị tàn tật, chân trái đi khập khiễng. Năm ngoái bà bị ngă, găy thêm tay phải, nhưng do không có tiền chữa trị nên vết thương… tự lành, chỉ ḷi xương ra thành một cục lớn ở cổ tay. Chồng bà mất đă lâu, hai đứa con th́ một đứa lấy vợ ở xa, hầu như chẳng giúp ǵ mẹ, c̣n một đứa đang đi cai nghiện.
Trước khi có dịch bệnh, mỗi ngày bà Oanh cũng bán được trung b́nh 100.000 đồng tiền rau củ. Nhưng hai tháng nay, bà đói, đói thực sự. Tiền không kiếm ra, bà trông chờ vào đồ ăn mọi người cho. “Có hôm tôi được ba, bốn người cho cơm, có hôm lại chẳng được ǵ. Thành ra, kinh nghiệm là ḿnh đừng có ăn hết, ḿnh phải để dành, ngày mai ḿnh ăn nữa. Rồi đồ ăn có bị nhớt nhớt chút đó, th́ ḿnh rửa đi. Cơm có hơi chua th́ ḿnh nấu cháo. Hồi trước, tôi đi bán hàng từ 6-7h, sớm lắm, bây giờ th́ đi không nổi nữa, mà có đi sớm cũng ế. Ở nhà đói bụng th́ nhắm mắt ngủ hoài à” – bà cười hơ hơ.
Và tại một góc phố khác nữa, có bà cụ 84 tuổi – “bà Tư bánh” – vẫn ngồi thu lu bên mẹt chè kho, bánh đa nướng, mỗi bịch chỉ 30.000-40.000 đồng, và bán măi tới 2h sáng vẫn chưa hết. Có hôm, công an khu vực đi ngang qua, trông thấy bà ngồi vỉa hè bán hàng giữa mùa dịch, không nỡ đuổi, bèn mua luôn chỗ bánh c̣n lại cho bà về. Bà cụ được về sớm một tối, nhưng hôm sau, bà lại mang mẹt hàng ra nữa…
* * *
Với những người như ông Hạnh, bà Oanh, bà Tư bánh, và hàng trăm hàng ngàn người khác đang bám vỉa hè từng ngày, từng đêm để kiếm ăn, cách ly xă hội không phải một dịp để “sống chậm”, dành thời gian chăm sóc gia đ́nh, hay trổ tài nấu ăn và chụp h́nh đăng Facebook. Cách ly xă hội cũng không phải lúc để họ đọc báo, nghe đài, xem tivi để theo dơi các chính sách của Nhà nước, phân tích, b́nh luận, dự đoán để rồi “ngạo nghễ tự hào” hay “hằn học bất măn” (hai thái cực tâm lư trái ngược nhau). Họ biết về dịch chỉ qua những nguồn tin vỉa hè (đúng nghĩa vỉa hè), qua việc lượng khách mua hàng giảm hẳn, và qua kinh nghiệm hay kư ức của họ về những biến động xă hội khủng khiếp họ từng nếm trải trong đời.
Từ những kinh nghiệm của ḿnh, ông Hạnh nhận định, như một nhà quan sát: “Cứ dịch bệnh đến là thiếu thốn, là đói. Đói th́ cướp. Chuyện này sẽ xảy đến thôi, dịch mà. Dịch càng kéo dài th́ tệ nạn cướp giật càng dữ, con người đối với nhau càng ác. Đói quá, đến đường cùng th́ ăn thịt nhau ấy chứ. Nhưng mà chú tính rồi, chú không sống tới lúc đó được đâu. Dịch kéo dài là chú chết trước đó. Tại sao á? Tại v́ nghèo. Người có tiền th́ sống được sáu tháng, ba tháng, người nghèo như chú th́ chỉ ba ngày là chết”.
Người nghèo. Dường như có cả một tầng lớp đông đảo đang sống cùng chúng ta trong xă hội, nhưng hoàn toàn nằm ngoài thế giới của chúng ta.
Họ sống ngày nào biết ngày đó, không có tiền tiết kiệm hay bất cứ một khoản dự trữ nào. Họ không làm cho cơ quan nào để mà có trợ cấp hay bảo hiểm. Thậm chí, họ không có hộ khẩu, không có địa chỉ chính thức để được nhận hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Khẩu trang, cồn, nước rửa tay… với họ là những sản phẩm xa xỉ. Chết đói – ngay trong những năm tháng của thập niên thứ ba của thế kỷ 21 này – là nguy cơ có thật, lơ lửng trên đầu họ.
Quốc gia nào, chế độ nào cũng có những người sống dưới đáy xă hội. Nhưng ở các nước công nghiệp phát triển, gắn với nền dân chủ vững mạnh, những công dân dưới đáy không phải đối mặt với rủi ro chết đói, chết khát, chết rét (ngay cả trong hoàn cảnh khủng hoảng toàn xă hội), và thậm chí, nếu họ đủ nỗ lực, c̣n có cơ hội để dịch chuyển “lên” tầng lớp cao hơn.
Ở đây, câu chuyện liên quan đến khái niệm lưu động xă hội (social mobility) – sự dịch chuyển của cá nhân hay hộ gia đ́nh giữa các tầng lớp trong xă hội, là sự thay đổi vị thế xă hội của cá nhân hay hộ gia đ́nh đó (theo chiều đi lên hoặc đi xuống). Có thể thấy ngay là lưu động xă hội là một khái niệm xa lạ ở Việt Nam, nơi mà sự dịch chuyển theo hướng đi lên là hiếm. Nói cách khác, với dân Việt Nam, luôn có một tỷ lệ “nghèo bền vững”, một khả năng rất cao “con vua th́ lại làm vua, con săi ở chùa lại quét lá đa”. Không tồn tại “giấc mơ Việt Nam” như “giấc mơ Mỹ”, tức là không phải cứ chăm chỉ lao động, nhiệt t́nh và có trách nhiệm, là thay đổi được phận nghèo.
➡️ An sinh xă hội đâu rồi?
Nhưng ta hăy trở lại với việc “không để người dân nào chết đói” như một khẩu hiệu được các facebooker ở Sài G̣n lan truyền trong vài tuần gần đây.
Đúng là ở Mỹ, Canada, Úc, hay châu Âu, đâu cũng có người nghèo, sống dưới đáy xă hội. Nhưng mức nghèo của họ hẳn là khá giả hơn mức nghèo ở Việt Nam, không ai trong số họ phải chịu rủi ro chết đói. Điều đó là nhờ xă hội luôn có một “bộ đệm” tốt, để bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người dân: tồn tại. “Bộ đệm” ấy là nhà nước phúc lợi và xă hội dân sự.
Xă hội dân sự có sứ mệnh chia sẻ và thúc đẩy lợi ích chung, c̣n nhà nước có trách nhiệm cung cấp an sinh xă hội – được hiểu là những hỗ trợ tài chính của nhà nước dành cho người nghèo (có thu nhập thấp hoặc không thu nhập) – đặc biệt là khi phải đối phó với những biến cố như khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh, thiên tai, thảm họa.
Ở Việt Nam, khác với những lần khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng trong quá khứ (ví dụ đợt khủng hoảng giá-lương-tiền giữa thập niên 1980), kỳ dịch bệnh này, Chính phủ đă có ư thức hơn hẳn về an sinh xă hội. Chiều 5/4 vừa qua, tại phiên họp Thường trực Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch nCovid, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đă nhấn mạnh rằng phải thực hiện nhanh các gói hỗ trợ an sinh xă hội “v́ cuộc sống người dân không thể chờ đợi hơn”.
Tuy nhiên, trên thực tế, dân chúng cũng đă có những trải nghiệm từ việc triển khai gói hỗ trợ trong khủng hoảng kinh tế 2008, rồi gói 500 triệu USD bồi thường sau thảm họa môi trường biển miền Trung do tập đoàn Formosa gây ra. Đặc điểm chung là quy tŕnh kéo dài, thủ tục phức tạp, nhiều trung gian, và đặc biệt, tính công bằng cũng như hiệu quả đều rất đáng ngờ. Theo ghi nhận của một số nhà hoạt động môi trường trong nhóm xă hội dân sự Green Trees, đến nay, chưa hề có đánh giá chính thức và trung thực nào về hiệu quả của những gói hỗ trợ hay bồi thường này. Đa số người dân chỉ biết rằng họ mất rất nhiều thời gian và công sức để có thể nhận tiền, và sau khi được hỗ trợ, cuộc sống của họ cũng không thay đổi ǵ so với trước.
Đây đó, đă có những ư kiến của cư dân mạng cho rằng chẳng thà nhà nước cung cấp an sinh xă hội bằng cách hỗ trợ trực tiếp vào giá năng lượng (giảm giá xăng, miễn phí tiền điện…) c̣n có hiệu quả nhanh, rơ ràng hơn.
Đại dịch nCovid đă vào Việt Nam từ Tết nguyên đán (cuối tháng 1), và bùng phát từ cuối tháng 3, khi con số người nhiễm bệnh không c̣n dừng ở 16 ca. Cho đến nay, trong khi các hoạt động của xă hội dân sự nở rộ, nhất là ở Sài G̣n, th́ vẫn chưa người dân nào trong hàng ngàn người nghèo đang sống bám vào vỉa hè, mặt đường nhận được hỗ trợ từ nhà nước. Khái niệm “an sinh xă hội”, “nhà nước phúc lợi”, đối với những phận nghèo như ông Hạnh sửa xe, bà Oanh bán rau hay bà Tư bán bánh kia, vẫn c̣n hoàn toàn xa lạ.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562676&stc=1&d=1586612029
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1562677&stc=1&d=1586612029
Nguồn: Luật Khoa Tạp Chí