florida80
04-23-2020, 19:15
Kỷ niệm Quốc Hận 30 tháng Tư, 2020
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hăy c̣n nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền h́nh. Đă mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ c̣n nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người b́nh thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất t́nh lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà c̣n là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua ḍng lịch sử nghiệt ngă của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
https://i.imgur.com/YrHvpi0.jpg
LÁ CỜ KHÔNG CHỊU CHẾT! Đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ tượng trưng cho tinh thần dân chủ và tự do của mọi người Việt khao khát một cuộc sống an lành, hạnh phúc, xứng đáng với nhân phẩm. Lá cờ này không nhất thiết đại diện cho một chế độ hay một chính phủ nhất thời mà là một sự tiếp nối truyền thống lâu đời của một dân tộc hào hùng. Nền vàng của lá cờ bắt nguồn từ cả ngàn năm trước, thuở Hai Bà Trưng quyết đánh đuổi quân Hán xâm lược, “đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Một số v́ vua sau đó cũng dùng cờ vàng để làm biểu hiệu cho quốc gia. Lá cờ vàng được thêm thắt, sửa đổi về sau để thành cờ Long Tinh (triều Nguyễn 1920-1945), cờ quẻ ly (chính phủ Trần Trọng Kim) và cuối cùng là cờ quẻ càn, hay lá cờ vàng ba sọc đỏ mà chúng ta có ngày nay, được dùng trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1949-1955) và Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975). Xem như thế đủ hiểu rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của một dân tộc, thấm đẫm hồn thiêng của tổ quốc từ đời này qua đời khác. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, lúc cả trăm ngàn người miền Nam bỏ chạy ra khỏi nước để trốn tránh một chế độ độc tài sắp áp đặt xuống phần đất phương nam, lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng cùng mọi người đi t́m tự do. Lúc ấy, lá cờ vàng như vị thần hộ mệnh, đi theo đoàn người viễn xứ để bảo bọc, che chở họ, đồng thời giữ vững, hâm nóng ngọn lửa tự do dân chủ trong ḷng họ. Trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, chưa có lá cờ dân tộc nào tồn tại dai dẳng và kiêu hùng nơi xứ người như lá cờ vàng ba sọc đỏ, tính đến nay đă hơn bốn mươi năm trời, và c̣n biết bao nhiêu năm tháng trước mặt nữa. Không những sống vững, sống mạnh trong các cộng đồng người Việt tự do khắp thế giới, lá cờ vàng ba sọc đỏ c̣n tiếp tục “sinh sôi nẩy nở” khắp nơi trên những phần đất tự do của các quốc gia sở tại.
Cách dây vài năm, như một phép lạ diệu kỳ, tại hội nghị quốc tế Bandung ở Indonesia vào tháng 4-2015, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại hiên ngang sánh vai với các các lá quốc kỳ khác với tư cách là lá cờ của một quốc gia hội viên. Đây là một ngoại lệ vô tiền khoáng hậu! Trên nguyên tắc, một hội nghị quốc tế không bị ràng buộc phải trưng một lá cờ của một quốc gia không tồn tại về mặt pháp lư. Ấy vậy mà hội nghị Bandung đă làm một việc mà ngay cả những nguyên tắc ngoại giao quốc tế cũng khó mà giải thích. Riêng ở Hoa Kỳ, đă có khoảng 14 tiểu bang, 7 quận hạt và 88 thành phố chính thức công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính thức đại diện cho cộng đồng người Việt tự do sinh sống nơi đây. Hằng năm, vào các dịp lễ lạt cổ truyền hay sinh hoạt cộng đồng, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn phất phới tung bay như góp vui với mọi người. Nơi tôi ở—Little Saigon, Orange County—cứ mỗi độ 30 tháng Tư về là các đường phố chính rợp bóng cờ vàng, xen lẫn với lá cờ của nước sở tại. Mỗi buổi sáng trong mùa tháng Tư Đen, vừa lái xe ra khỏi cổng tôi đă thấy những lá cờ vàng tung bay bên lá cờ sao Hoa Kỳ. Tôi vừa vui vừa buồn khi nh́n những lá cờ thân yêu ấy. Hy vọng một ngày nào đó không xa, khi đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, toàn dân sẽ đồng ḷng chọn lá cờ vàng truyền thống để làm biểu tượng cho tinh thần bất khuất ngàn năm của người Việt Nam.
THÀNH PHỐ KHÔNG CHỊU CHẾT! Thành phố Sài G̣n, cho dẫu trong hiện tại có phải “mang tên xác người”, cũng như lá cờ vàng ba sọc đỏ, là một “thành phố không chịu chết”. Bốn mươi năm đă trôi qua, nhưng tên gọi Sài G̣n không bao giờ mất đi trên môi những người Việt xa xứ. Không những vậy mà ngay tại Sài G̣n, tên gọi này cũng không những không mai một đi mà c̣n tồn tại song song với cái tên xác người. Đối với người dân thành phố, người ta vẫn nói “mưa Sài G̣n, nắng Sài G̣n” chẳng hạn—nghe vừa thân mật lại vừa thơ mộng— chứ chẳng ai biết “nắng mưa thành phố hồ chí minh” là cái chi chi! Một buổi sáng thức dậy trong ḷng thành phố, bạn có thể nghe tiếng người cười nói lao xao ngoài ngơ, tiếng xe cộ, tiếng kèn xe, mùi khói xe lẫn với mùi cà-phê và hủ tiếu. Và bạn bảo tất cả những âm thanh cùng những mùi khác nhau trộn lẫn lại đó là một cái ǵ rất đặc trưng của thành phố này, rất “Sài G̣n”; chứ chẳng có ma nào nói, tất cả những điều đó là một cái ǵ rất “thành phố hồ chí minh”! Loại ngôn ngữ khiên cưỡng đó tự nó đă sượng sùng, ngượng nghịu nên không bao giờ có dịp thoát ra khỏi đôi môi người nói. Thêm nữa, không biết bao nhiêu công ty, cửa tiệm, nhăn hiệu hàng hoá ngày nay vẫn c̣n ưu ái mang tên Sài G̣n trong thành phố (bị xui xẻo) mang tên “người… chết” này! Thành phố có thể đang tạm mất tên nhưng cái hồn Sài G̣n vẫn c̣n đó, trong từng con người đang thở mỗi ngày ở đó, chờ dịp thực sự hồi sinh
Ở hải ngoại, Sài G̣n không những không chết đi trong ḷng những người dân Việt lưu vong mà c̣n thoát thai sống lại thành những Sài G̣n mới trên đất nước tự do xứ người. Đây là những “Little Saigon” đă mọc lên ở những nơi có đông người Việt cư ngụ. Những nơi có tên Little Saigon chính thức có thể kể đến là ở Westminster (California), San Jose (California), San Francisco (California), Sacramento (California), San Diego (California), Houston (Texas), Vancouver (Canada), v.v. Đó là chưa kể những khu Little Saigon mang tên chưa chính thức khắp nơi trên Hoa Kỳ và thế giới mà sinh hoạt thương mại, văn hoá, chính trị cũng rộn rịp không kém ǵ những Little Saigon chính thức. Những bảng tên đường tiếng Việt nhắc nhở đến Sài G̣n có thể t́m thấy ở Houston (Texas) hay Little Saigon (California), hay những bảng chỉ đường vào Little Saigon trên các xa lộ ở Californis đă đánh dấu sự “sinh sôi nẩy nở” của Sài G̣n không khác chi trường hợp của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sài G̣n không những không chết đi mà c̣n tiếp tục nở rộ ra như những bông hoa biểu hiện cho dân chủ, nhân quyền trên khắp các vùng đất tự do trên thế giới. Một mai không xa, những Sài G̣n nhỏ này sẽ sum vầy cùng Sài G̣n lớn, như những ḍng sông hân hoan đổ về biển rộng, cùng hát bài “Hội trùng dương” trong ngày hội lớn của dân tộc.
https://i.imgur.com/46s4JFK.jpg
VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CHỊU CHẾT! Những người không chịu chết này là những người phải bỏ xứ ra đi v́ không chấp nhận sống dưới một chế độ phi nhân, độc tài. Về chủ nghĩa cộng sản, rất nhiều danh nhân thế giới đă phát biểu những danh ngôn vô cùng sâu sắc, thấm thía. Tuy nhiên, không ǵ hay bằng nghe chính những người đă từng là cộng sản nói về nó. Một trong những người này là ông Boris Yeltsin, vị tổng thống đầu tiên của nước Nga hậu cộng sản (nhiệm kỳ 1991-1999). Ông Yeltsin đă từng là đảng viên Đảng Cộng Sản Nga trong 29 năm (1961-1990) và từng giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Xô-viết. Vào năm 1989, một trong những năm cuối cùng của Liên Bang Xô-viết, ông Yeltsin thực hiện một chuyến công du sang Hoa Kỳ. Trên danh nghĩa, lúc này ông vẫn c̣n là một người cộng sản. Trong chuyến công du, ông phát biểu như sau, do tạp chí The Independent của Anh tường thuật lại: “Let’s not talk about communism. Communism was just an idea, just pie in the sky”. (Xin tạm dịch: “Đừng nhắc đến chủ nghĩa cộng sản nữa. Chủ nghĩa cộng sản chỉ là một ư tưởng, chỉ là một cái bánh vẽ trên nền trời”). Những người trốn chạy cộng sản—hay trốn chạy “cái bánh vẽ” này—ở tất cả những nước đă từng bị hiểm hoạ này, kể cả ở Việt Nam, giờ đây đă trở thành những người không chịu chết. Nói như vậy là nói với một ư nghĩa có tính cách biểu tượng.
Người viết muốn nhấn mạnh rằng đa số những người tị nạn cộng sản không bao giờ quên được v́ sao họ đă trốn chạy. Khi đă an thân ở chốn tự do, họ không chịu chấp nhận một lối sống ṃn, sống cho qua ngày đoạn tháng, cho hết kiếp lưu vong. Sống như vậy cũng không khác ǵ đă chết. V́ vậy, đa số vẫn hướng ḷng về quê hương, vẫn xót xa khi thấy đồng bào trong nước bị đàn áp dưới chế độ của bạo quyền. Mỗi người trong họ vẫn làm một điều ǵ đó, bằng cách này hay cách khác, để góp phần vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc cho một ngày mai không c̣n hiểm hoạ cộng sản trên quê hương. Cũng cần phải thấy rằng những người “không chịu chết” này là những người “không sợ chết” khi họ đă liều ḿnh ra khơi, nơi mạng sống chỉ như sợi chỉ mành treo chuông. Ngày nay, những người không chịu chết này không chỉ là bậc ông, cha, chú của thế hệ lưu vong đầu tiên mà c̣n là cả thế hệ thanh niên gốc Việt sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Thế hệ trẻ này không cam tâm, ích kỷ hưởng thụ cuộc sống tự do dân chủ mà ḿnh đă may mắn có từ được lúc ra đời. Họ đă cùng đứng lên, sát cánh với cha ông đấu tranh cho tự do, dân chủ ở quê nhà bằng nhiều h́nh thức khác nhau.
Ở Việt Nam, ngoài thiểu số được hưởng đặc quyền đặc lợi, sẵn sàng làm lơ trước đau khổ của đồng bào, hay thậm chí đàn áp, hành hung người dân vô tội, đa số người Việt Nam cũng là những người không chịu chết, không chịu thua trước cường quyền. Họ là những nhà dân chủ sẵn sàng hy sinh sự an toàn của bản thân và gia đ́nh để cất lên tiếng nói phản đối những điều trái tai gai mắt do chế độ gây ra trong xă hội. Họ là những người dân oan bị tước đoạt nhà cửa, đất đai, dám chấp nhận cảnh lấy trứng chọi đá để bảo vệ tài sản mồ hôi nước mắt của ḿnh. Họ là tất cả những người nghe tiếng gọi của ḍng máu Lạc Hồng trong huyết quản, đặc biệt là thế hệ trẻ, dám đứng lên để cất tiếng đ̣i lại những phần đất nước máu thịt của tổ quốc đang bị bọn cầm quyền “hèn với giặc, ác với dân” nhượng bộ cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán từ mấy ngàn năm nay.
Bốn mươi lăm năm đă trôi qua, kể từ khi miền Nam lọt vào tay bạo quyền cộng sản. Đó là một thời gian dài đối với một đời người ngắn ngủi, nhưng lại chỉ như là một khoảnh khắc phù du trong lịch sử, nhất là lịch sử của một đất nước có gần năm ngàn năm văn hiến. Lá cờ không chịu chết—thành phố không chịu chết—những người không chịu chết, tất cả những thực thể không chịu chết đó chính là biểu hiện của một đất nước không chịu chết. Đất nước chúng ta như đang trải qua một căn bệnh ngặt nghèo. Nhất định đất nước sẽ hồi phục một ngày không xa. Với niềm tin vào lịch sử, vào thực tế và vào tinh thần bất khuất của mỗi người dân Việt, chúng ta có quyền chờ đón một ngày đất Việt sẽ lại được thái b́nh thịnh trị như xưa.
Trần C. Trí
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hăy c̣n nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền h́nh. Đă mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ c̣n nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người b́nh thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất t́nh lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà c̣n là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua ḍng lịch sử nghiệt ngă của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
https://i.imgur.com/YrHvpi0.jpg
LÁ CỜ KHÔNG CHỊU CHẾT! Đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ tượng trưng cho tinh thần dân chủ và tự do của mọi người Việt khao khát một cuộc sống an lành, hạnh phúc, xứng đáng với nhân phẩm. Lá cờ này không nhất thiết đại diện cho một chế độ hay một chính phủ nhất thời mà là một sự tiếp nối truyền thống lâu đời của một dân tộc hào hùng. Nền vàng của lá cờ bắt nguồn từ cả ngàn năm trước, thuở Hai Bà Trưng quyết đánh đuổi quân Hán xâm lược, “đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Một số v́ vua sau đó cũng dùng cờ vàng để làm biểu hiệu cho quốc gia. Lá cờ vàng được thêm thắt, sửa đổi về sau để thành cờ Long Tinh (triều Nguyễn 1920-1945), cờ quẻ ly (chính phủ Trần Trọng Kim) và cuối cùng là cờ quẻ càn, hay lá cờ vàng ba sọc đỏ mà chúng ta có ngày nay, được dùng trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1949-1955) và Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975). Xem như thế đủ hiểu rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của một dân tộc, thấm đẫm hồn thiêng của tổ quốc từ đời này qua đời khác. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, lúc cả trăm ngàn người miền Nam bỏ chạy ra khỏi nước để trốn tránh một chế độ độc tài sắp áp đặt xuống phần đất phương nam, lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng cùng mọi người đi t́m tự do. Lúc ấy, lá cờ vàng như vị thần hộ mệnh, đi theo đoàn người viễn xứ để bảo bọc, che chở họ, đồng thời giữ vững, hâm nóng ngọn lửa tự do dân chủ trong ḷng họ. Trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, chưa có lá cờ dân tộc nào tồn tại dai dẳng và kiêu hùng nơi xứ người như lá cờ vàng ba sọc đỏ, tính đến nay đă hơn bốn mươi năm trời, và c̣n biết bao nhiêu năm tháng trước mặt nữa. Không những sống vững, sống mạnh trong các cộng đồng người Việt tự do khắp thế giới, lá cờ vàng ba sọc đỏ c̣n tiếp tục “sinh sôi nẩy nở” khắp nơi trên những phần đất tự do của các quốc gia sở tại.
Cách dây vài năm, như một phép lạ diệu kỳ, tại hội nghị quốc tế Bandung ở Indonesia vào tháng 4-2015, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại hiên ngang sánh vai với các các lá quốc kỳ khác với tư cách là lá cờ của một quốc gia hội viên. Đây là một ngoại lệ vô tiền khoáng hậu! Trên nguyên tắc, một hội nghị quốc tế không bị ràng buộc phải trưng một lá cờ của một quốc gia không tồn tại về mặt pháp lư. Ấy vậy mà hội nghị Bandung đă làm một việc mà ngay cả những nguyên tắc ngoại giao quốc tế cũng khó mà giải thích. Riêng ở Hoa Kỳ, đă có khoảng 14 tiểu bang, 7 quận hạt và 88 thành phố chính thức công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính thức đại diện cho cộng đồng người Việt tự do sinh sống nơi đây. Hằng năm, vào các dịp lễ lạt cổ truyền hay sinh hoạt cộng đồng, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn phất phới tung bay như góp vui với mọi người. Nơi tôi ở—Little Saigon, Orange County—cứ mỗi độ 30 tháng Tư về là các đường phố chính rợp bóng cờ vàng, xen lẫn với lá cờ của nước sở tại. Mỗi buổi sáng trong mùa tháng Tư Đen, vừa lái xe ra khỏi cổng tôi đă thấy những lá cờ vàng tung bay bên lá cờ sao Hoa Kỳ. Tôi vừa vui vừa buồn khi nh́n những lá cờ thân yêu ấy. Hy vọng một ngày nào đó không xa, khi đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, toàn dân sẽ đồng ḷng chọn lá cờ vàng truyền thống để làm biểu tượng cho tinh thần bất khuất ngàn năm của người Việt Nam.
THÀNH PHỐ KHÔNG CHỊU CHẾT! Thành phố Sài G̣n, cho dẫu trong hiện tại có phải “mang tên xác người”, cũng như lá cờ vàng ba sọc đỏ, là một “thành phố không chịu chết”. Bốn mươi năm đă trôi qua, nhưng tên gọi Sài G̣n không bao giờ mất đi trên môi những người Việt xa xứ. Không những vậy mà ngay tại Sài G̣n, tên gọi này cũng không những không mai một đi mà c̣n tồn tại song song với cái tên xác người. Đối với người dân thành phố, người ta vẫn nói “mưa Sài G̣n, nắng Sài G̣n” chẳng hạn—nghe vừa thân mật lại vừa thơ mộng— chứ chẳng ai biết “nắng mưa thành phố hồ chí minh” là cái chi chi! Một buổi sáng thức dậy trong ḷng thành phố, bạn có thể nghe tiếng người cười nói lao xao ngoài ngơ, tiếng xe cộ, tiếng kèn xe, mùi khói xe lẫn với mùi cà-phê và hủ tiếu. Và bạn bảo tất cả những âm thanh cùng những mùi khác nhau trộn lẫn lại đó là một cái ǵ rất đặc trưng của thành phố này, rất “Sài G̣n”; chứ chẳng có ma nào nói, tất cả những điều đó là một cái ǵ rất “thành phố hồ chí minh”! Loại ngôn ngữ khiên cưỡng đó tự nó đă sượng sùng, ngượng nghịu nên không bao giờ có dịp thoát ra khỏi đôi môi người nói. Thêm nữa, không biết bao nhiêu công ty, cửa tiệm, nhăn hiệu hàng hoá ngày nay vẫn c̣n ưu ái mang tên Sài G̣n trong thành phố (bị xui xẻo) mang tên “người… chết” này! Thành phố có thể đang tạm mất tên nhưng cái hồn Sài G̣n vẫn c̣n đó, trong từng con người đang thở mỗi ngày ở đó, chờ dịp thực sự hồi sinh
Ở hải ngoại, Sài G̣n không những không chết đi trong ḷng những người dân Việt lưu vong mà c̣n thoát thai sống lại thành những Sài G̣n mới trên đất nước tự do xứ người. Đây là những “Little Saigon” đă mọc lên ở những nơi có đông người Việt cư ngụ. Những nơi có tên Little Saigon chính thức có thể kể đến là ở Westminster (California), San Jose (California), San Francisco (California), Sacramento (California), San Diego (California), Houston (Texas), Vancouver (Canada), v.v. Đó là chưa kể những khu Little Saigon mang tên chưa chính thức khắp nơi trên Hoa Kỳ và thế giới mà sinh hoạt thương mại, văn hoá, chính trị cũng rộn rịp không kém ǵ những Little Saigon chính thức. Những bảng tên đường tiếng Việt nhắc nhở đến Sài G̣n có thể t́m thấy ở Houston (Texas) hay Little Saigon (California), hay những bảng chỉ đường vào Little Saigon trên các xa lộ ở Californis đă đánh dấu sự “sinh sôi nẩy nở” của Sài G̣n không khác chi trường hợp của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sài G̣n không những không chết đi mà c̣n tiếp tục nở rộ ra như những bông hoa biểu hiện cho dân chủ, nhân quyền trên khắp các vùng đất tự do trên thế giới. Một mai không xa, những Sài G̣n nhỏ này sẽ sum vầy cùng Sài G̣n lớn, như những ḍng sông hân hoan đổ về biển rộng, cùng hát bài “Hội trùng dương” trong ngày hội lớn của dân tộc.
https://i.imgur.com/46s4JFK.jpg
VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CHỊU CHẾT! Những người không chịu chết này là những người phải bỏ xứ ra đi v́ không chấp nhận sống dưới một chế độ phi nhân, độc tài. Về chủ nghĩa cộng sản, rất nhiều danh nhân thế giới đă phát biểu những danh ngôn vô cùng sâu sắc, thấm thía. Tuy nhiên, không ǵ hay bằng nghe chính những người đă từng là cộng sản nói về nó. Một trong những người này là ông Boris Yeltsin, vị tổng thống đầu tiên của nước Nga hậu cộng sản (nhiệm kỳ 1991-1999). Ông Yeltsin đă từng là đảng viên Đảng Cộng Sản Nga trong 29 năm (1961-1990) và từng giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Xô-viết. Vào năm 1989, một trong những năm cuối cùng của Liên Bang Xô-viết, ông Yeltsin thực hiện một chuyến công du sang Hoa Kỳ. Trên danh nghĩa, lúc này ông vẫn c̣n là một người cộng sản. Trong chuyến công du, ông phát biểu như sau, do tạp chí The Independent của Anh tường thuật lại: “Let’s not talk about communism. Communism was just an idea, just pie in the sky”. (Xin tạm dịch: “Đừng nhắc đến chủ nghĩa cộng sản nữa. Chủ nghĩa cộng sản chỉ là một ư tưởng, chỉ là một cái bánh vẽ trên nền trời”). Những người trốn chạy cộng sản—hay trốn chạy “cái bánh vẽ” này—ở tất cả những nước đă từng bị hiểm hoạ này, kể cả ở Việt Nam, giờ đây đă trở thành những người không chịu chết. Nói như vậy là nói với một ư nghĩa có tính cách biểu tượng.
Người viết muốn nhấn mạnh rằng đa số những người tị nạn cộng sản không bao giờ quên được v́ sao họ đă trốn chạy. Khi đă an thân ở chốn tự do, họ không chịu chấp nhận một lối sống ṃn, sống cho qua ngày đoạn tháng, cho hết kiếp lưu vong. Sống như vậy cũng không khác ǵ đă chết. V́ vậy, đa số vẫn hướng ḷng về quê hương, vẫn xót xa khi thấy đồng bào trong nước bị đàn áp dưới chế độ của bạo quyền. Mỗi người trong họ vẫn làm một điều ǵ đó, bằng cách này hay cách khác, để góp phần vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc cho một ngày mai không c̣n hiểm hoạ cộng sản trên quê hương. Cũng cần phải thấy rằng những người “không chịu chết” này là những người “không sợ chết” khi họ đă liều ḿnh ra khơi, nơi mạng sống chỉ như sợi chỉ mành treo chuông. Ngày nay, những người không chịu chết này không chỉ là bậc ông, cha, chú của thế hệ lưu vong đầu tiên mà c̣n là cả thế hệ thanh niên gốc Việt sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Thế hệ trẻ này không cam tâm, ích kỷ hưởng thụ cuộc sống tự do dân chủ mà ḿnh đă may mắn có từ được lúc ra đời. Họ đă cùng đứng lên, sát cánh với cha ông đấu tranh cho tự do, dân chủ ở quê nhà bằng nhiều h́nh thức khác nhau.
Ở Việt Nam, ngoài thiểu số được hưởng đặc quyền đặc lợi, sẵn sàng làm lơ trước đau khổ của đồng bào, hay thậm chí đàn áp, hành hung người dân vô tội, đa số người Việt Nam cũng là những người không chịu chết, không chịu thua trước cường quyền. Họ là những nhà dân chủ sẵn sàng hy sinh sự an toàn của bản thân và gia đ́nh để cất lên tiếng nói phản đối những điều trái tai gai mắt do chế độ gây ra trong xă hội. Họ là những người dân oan bị tước đoạt nhà cửa, đất đai, dám chấp nhận cảnh lấy trứng chọi đá để bảo vệ tài sản mồ hôi nước mắt của ḿnh. Họ là tất cả những người nghe tiếng gọi của ḍng máu Lạc Hồng trong huyết quản, đặc biệt là thế hệ trẻ, dám đứng lên để cất tiếng đ̣i lại những phần đất nước máu thịt của tổ quốc đang bị bọn cầm quyền “hèn với giặc, ác với dân” nhượng bộ cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán từ mấy ngàn năm nay.
Bốn mươi lăm năm đă trôi qua, kể từ khi miền Nam lọt vào tay bạo quyền cộng sản. Đó là một thời gian dài đối với một đời người ngắn ngủi, nhưng lại chỉ như là một khoảnh khắc phù du trong lịch sử, nhất là lịch sử của một đất nước có gần năm ngàn năm văn hiến. Lá cờ không chịu chết—thành phố không chịu chết—những người không chịu chết, tất cả những thực thể không chịu chết đó chính là biểu hiện của một đất nước không chịu chết. Đất nước chúng ta như đang trải qua một căn bệnh ngặt nghèo. Nhất định đất nước sẽ hồi phục một ngày không xa. Với niềm tin vào lịch sử, vào thực tế và vào tinh thần bất khuất của mỗi người dân Việt, chúng ta có quyền chờ đón một ngày đất Việt sẽ lại được thái b́nh thịnh trị như xưa.
Trần C. Trí