florida80
04-24-2020, 18:17
Những ḍng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đ́nh cựu tù “cải tạo”!
[
Lời người viết: Như mọi người đă biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ng̣i bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, v́ đă từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đă khiến cho người viết không thể nào quên được !
Chính v́ thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của ḿnh để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với ḷng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đ́nh nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những ǵ đă xảy ra, mà không nêu tên họ thật.
Kính xin quư vị đă từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hăy nhận nơi đây, những ḍng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương – tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.
o O o
Bài 1
Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:
Trước ngày 30/4/1975, Đại Úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đă phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại Úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đă sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ư đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng ḿnh.
Sau ngày 30/4/1975, Đại Úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 – Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lănh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đă được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xă Phước Lănh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rơ ràng, bởi v́, chính Bác ruột của ḿnh: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đă cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đă bị chết v́ đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.
Trở lại với gia đ́nh của Đại Úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài G̣n chưa thất thủ, th́ “Lực Lượng Ḥa Hợp-Ḥa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đă xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không c̣n cách nào khác, nên chị Thụy đă phải ôm áo quần và d́u dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương !
Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà Ga:
Ngày Đại Úy Thụy đă phải đến “tŕnh diện” tại “Thị bộ Ḥa Hợp-Ḥa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài g̣n chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại Úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !
Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đă bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài G̣n chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đă chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đă kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và c̣n cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đă đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:
Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng – Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đă rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chơng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chơng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, v́ phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, th́ những gịng nước đen ng̣m, hôi hám đă từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chơng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đă phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, th́ lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chơng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !
Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đă phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách văng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đă chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy c̣ng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.
Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy c̣n trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dăi nắng. Nhưng không, chị Thụy đă quyết giữ một ḷng chung thủy với chồng: Đại Úy Thụy, và đă sống cho chồng con.
Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, v́ chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đă kể, chị Thụy đă chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đă vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lư.
https://i.imgur.com/KyP19VV.gif
[
Lời người viết: Như mọi người đă biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ng̣i bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, v́ đă từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đă khiến cho người viết không thể nào quên được !
Chính v́ thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của ḿnh để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với ḷng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đ́nh nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những ǵ đă xảy ra, mà không nêu tên họ thật.
Kính xin quư vị đă từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hăy nhận nơi đây, những ḍng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương – tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.
o O o
Bài 1
Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:
Trước ngày 30/4/1975, Đại Úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đă phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại Úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đă sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ư đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng ḿnh.
Sau ngày 30/4/1975, Đại Úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 – Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lănh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đă được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xă Phước Lănh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rơ ràng, bởi v́, chính Bác ruột của ḿnh: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đă cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đă bị chết v́ đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.
Trở lại với gia đ́nh của Đại Úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài G̣n chưa thất thủ, th́ “Lực Lượng Ḥa Hợp-Ḥa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đă xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không c̣n cách nào khác, nên chị Thụy đă phải ôm áo quần và d́u dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương !
Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà Ga:
Ngày Đại Úy Thụy đă phải đến “tŕnh diện” tại “Thị bộ Ḥa Hợp-Ḥa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài g̣n chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại Úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !
Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đă bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài G̣n chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đă chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đă kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và c̣n cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đă đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:
Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng – Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đă rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chơng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chơng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, v́ phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, th́ những gịng nước đen ng̣m, hôi hám đă từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chơng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đă phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, th́ lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chơng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !
Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đă phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách văng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đă chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy c̣ng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.
Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy c̣n trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dăi nắng. Nhưng không, chị Thụy đă quyết giữ một ḷng chung thủy với chồng: Đại Úy Thụy, và đă sống cho chồng con.
Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, v́ chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đă kể, chị Thụy đă chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đă vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lư.
https://i.imgur.com/KyP19VV.gif