Log in

View Full Version : Trại Cải Tạo Tân Lập, Vĩnh Phú


florida80
05-07-2020, 20:09
https://i.imgur.com/zx0EaYG.jpg




Chương 23. Cuộc Hành Tŕnh Đi Vào Địa Ngục

Ngày thứ Bảy 16 tháng 4 năm 1977, chúng tôi không đi lao động như thường lệ! Tên cán bộ vào pḥng giam rất sớm báo tất cả trại viên mang đồ đạc ra sân trước để khám xét định kỳ. Ở trại Thủ Đức này, thường chỉ có khám xét khi sắp có sự di chuyển, do đó chúng tôi luôn phải chuẩn bị tư thế để ra đi. Chúng tôi phải mang tất cả đồ vật cá nhân ra sân, đặt riêng rẽ từng cái một và chờ đợi cán bộ hoặc “Ban Thi Đua” đến khám. Theo quy định của trại, chúng tôi không được phép giữ mọi vật bén nhọn v́ lư do an toàn, không được giữ lương khô, muối, hay tiêu ớt để đề pḥng trốn trại. Nhưng họ có quyền tịch thâu bất kỳ cái ǵ mà họ muốn. Chúng tôi thường dấu những thứ “bất hợp pháp” ở những nơi kín đáo hoặc bỏ lại trong pḥng để dùng lại sau này, và nếu chúng tôi có di chuyển th́ để lại cho người khác vậy. Cán bộ và Ban Thi Đua cũng biết điều ấy nên họ khám rất chu đáo khắp nơi trong sân cũng như trong pḥng giam. Tuy nhiên làm sao họ có thể t́m được hết mọi thứ mà chúng tôi đă cố t́nh dấu.

Tôi vừa bị một cơn cảm lạnh mấy ngày qua, một thứ bệnh thương hàn th́ đúng hơn; tóc tôi rụng khá nhiều! Một trại viên bác sĩ tên Tôn Thất Hưng đă chữa bệnh cho tôi bằng châm cứu, bằng xông hơi lá bạch đàn hái trong trại, và bằng vài viên Tylenol. Vài người cho tôi biết Tôn Thất Hưng là bác sĩ “dơm” v́ anh ta không nói được giọng Huế dù có ḍng họ Tôn Thất, một gịng họ hoàng gia ở Huế, và anh ta lại trông quá trẻ so với số tuổi năm mươi theo giấy tờ. Anh ta có cho tôi xem giấy của anh ta là Bác sĩ Tôn Thất Hưng, tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Lyon, Pháp, và Văn Bằng Châm cứu tại Tokyo, Nhật Bản. Tôi không biết anh ta là Bác sĩ thật hay giả, nhưng trong hoàn cảnh ấy, tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác hơn là giao tính mạng ḿnh cho anh ta. Tôi c̣n gặp lại Tôn Thất Hưng năm năm sau này khi tôi trở lại trại Thủ Đức; khi đó anh ta không làm Bác Sĩ nữa mà chỉ là một trại viên như mọi người khác. Anh ta được thả vào năm 1985 sau mười năm cải tạo chỉ v́ tội xử dụng giấy tờ giả mạo theo như lúc đọc lệnh tha.

Sáng hôm ấy, tôi có cảm giác sẽ bị di chuyển v́ tôi có nghe nói đă có một số trại viên ở nơi khác chuyển tới vào ngày hôm qua. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại có linh cảm này, nhưng kể từ khi bị giữ lại để điều tra sau khi bạn bè tôi bị đưa đi vào năm 1976, tôi luôn luôn chuẩn bị tư thế. Cái thông cáo về ba năm cải tạo vừa ban hành hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi; tôi trở thành nghi ngờ khi nghe thông báo của "Đảng và Nhà Nước" về chính sách đối với nhân viên của “Ngụy quân và ngụy quyền”. Họ bảo rằng chúng tôi phải đạt được “Tiến Bộ” trong thời hạn ba năm để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước! Tôi nghĩ rằng một lần nửa họ lại chơi chữ. Tôi không thể biết tôi sẽ ở trong trại bao lâu, và tôi có thể chịu đựng được bao lâu? Trong thâm tâm, tôi chỉ mong gia đ́nh tôi quên được tôi, coi như tôi đă chết từ những ngày “giải phóng”. Một tháng, một năm, rồi th́ ba năm, và rồi bao nhiêu năm nữa tôi phải ở trong trại? Tôi không muốn ở lại trại Thủ Đức v́ nó quá gần nhà tôi. Tôi không thích tạo hy vọng cho gia đ́nh tôi để rồi họ sẽ thất vọng khi nhận ra sự thật. Một sự di chuyển thật xa có lẽ là một giải pháp. Với ư nghĩ đó, tôi mang đồ đạc ra sân không một chút lo âu.

Hôm nay Đàn, một trại viên trong ban thi đua chỉ được phép đứng quan sát trong khi bốn cán bộ khám xét rất kỹ mọi vật của trại viên sau khi họ đă khám xét trại viên từ đầu đến chân! Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi bị lục soát cẩn thận như vậy. Tôi đoán linh cảm của tôi chắc là đúng. Sau khi khám xét xong, một cán bộ khác cầm giấy đi đến gọi tên từng trại viên. Ai có tên th́ ở lại ngoài sân c̣n ai không có th́ có thể đi vào pḥng giam. Trong danh sách, có tên của một trại viên đang bệnh nặng không thể ra sân trước đó, tên cán bộ gọi một trại viên khác điền vào cho đủ số. Tôi thấy vài người bạn tôi như Tuân, Hạnh, Lộc, Trung, Vinh, Tâm, có trong số ra đi, nhưng vài người khác có chức vụ cao trong Cơ quan như Cang (cựu Đặc Uỷ Trưởng), Lương (Giám đốc A10), và Trang (Giám đốc A8) lại trở vào buồng giam.

Chúng tôi được đưa qua khu A của trại Thủ Đức, giam vào trong pḥng giữa gần cửa khu. Từ đó, chúng tôi có thể nh́n thấy những trại viên mới chuyển đến, đa số họ tóc tai dài tḥng, da rám nắng như những người từ rừng rậm mới ra. Hầu hết họ đều trẻ hơn chúng tôi. Tôi bỗng nghe một giọng ca lập đi lập lại một khúc ca buồn nảo nuột: "Buổi sáng mùa đông, người lính trẻ trong tù, hai tay ôm song sắt, trông ngóng về phương xa. Người lính khe khẻ nói, ḿnh ơi hởi ḿnh ơi, v́ anh không dám giết, nên anh làm tù nhân, v́ anh không dám giết, nên anh đành xa em."

Vinh, trước là nhân viên của tôi, la lên hỏi những người ấy từ đâu đến, và tôi nghe một giọng từ pḥng bên vang lên: Tây Ninh! Tôi đoán có lẽ là họ đă ở những trại trong chiến khu D của Việt Cộng trước đây và giờ đây họ được đưa về để cùng chúng tôi di chuyển đến một nơi khác. Trại Thủ Đức chỉ là một trạm trung chuyển. Từ khi tôi bị giữ lại để điều tra, tôi luôn chuẩn bị tư thế để ra đi v́ tôi không nghĩ rằng VC lại giữ chúng tôi ở một nơi quá gần Sài G̣n như vậy. Nhưng vấn đề là bao giờ th́ đi, và đi đâu? Một hải đảo hay rừng Trường Sơn, hay Bắc Việt là những nơi mà tôi luôn nghĩ đến. Trong thâm tâm, tôi vẫn hy vọng đó sẽ là một nơi nào đó ở miền Nam , ít ra tôi vẫn c̣n ở trên “đất nước tôi”. Tôi chưa thể xem miền Bắc như là đất nước tôi được dù trong thật tế nó là một phần của Việt Nam . Những cái nón cối của người dân miền Bắc, những bộ đồng phục kaki màu vàng, xe đạp, dép râu, và những khuôn mặt đầy sát khí của người dân miền Bắc là những điều quá xa lạ đối với tôi! Trong chiến tranh, chúng tôi đối đầu với VC, nhưng chúng tôi không thù hận chúng; chúng tôi không giận dữ đối với chúng. Khi nói về những người lănh đạo miền Bắc, chúng tôi vẫn dùng những từ ngữ nhă nhặn. Ngược lại, họ luôn căm thù chúng tôi dường như là họ chỉ muốn giết chúng tôi ngay nếu có thể. Họ đă được dạy căm thù từ khi đi học. Những h́nh ảnh của những đứa trẻ miền Bắc trong những bộ đồng phục với khăn quàng đỏ la ḥ những khẩu hiệu dử tợn luôn luôn ám ảnh trong đầu tôi. Con tôi sẽ như thế nào đây trong một thứ xă hội như thế? Ngay cả trong chiến tranh, tôi vẫn chỉ muốn một xă hội đàng hoàng, không phải một thứ xă hội sắt máu. Lời ca của bài hát do ai đó đang lập đi lập lại khiến tôi nghĩ đến xă hội tương lai (hay có thể là trong hiện tại). “V́ anh không dám giết, nên anh làm tù nhân!” Thật là một hoàn cảnh bi thảm.

Bửa ăn trưa và chiều được Cang và Trang, những sếp cũ của chúng tôi mang đến. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi mà chỉ nh́n chúng tôi bằng một cái nh́n buồn bă. Trong trại, những trại viên được ở lại ít ra đă biết t́nh trạng sống của họ, c̣n những trại viên ra đi phải chấp nhận mọi điều xấu xảy ra cho họ ở nơi khác. Tôi nghĩ tôi phải chấp nhận mọi điều xảy đến cho tôi v́ tôi đă đặt cuộc đời tôi trong tay kẻ thù. Điều tốt nhất là im lặng chịu đựng những bất hạnh xảy đến, ngay cả cái chết nếu cần thiết. Tôi nhớ đến lư thuyết của nhà Phật dạy rằng “sống gửi, thác về” để tự an ủi ḿnh.

Khoảng nửa đêm, trong khi đang ngủ th́ một cán bộ vào pḥng giam gọi chúng tôi dậy chuẩn bị lên đường. Tôi đă sẵn sàng cho việc ấy, nhưng không nghĩ là nó đến quá nhanh như vậy. Tôi vội vàng bỏ quần áo, chăn màng vào balô. Một ít thức ăn c̣n lại lúc thăm nuôi hôm Tết như một hộp đường, một hộp bột gạo lứt, một ít thịt chà bông, tôi cố nhét chúng vào hai cái túi nhỏ của balô. Cái pon-sô được cột chặt vào bên cạnh ba-lô, cái bi-đông nước uống phía bên kia, và chiếc chiếu cói đặt lên trên, xong tôi gài chặt nắp ba-lô lại. Mọi vật chuẩn bị giống như lính chuẩn bị hành quân. Tôi thử ba-lô lên vai xong bỏ lại xuống sàn ngồi đợi. Mọi người trong pḥng giam đă xong xuôi. Đèn ngoài sân đột nhiên bật sáng. Cán bộ đi lại và nói chuyện ồn ào. Tôi nghe tiếng xe phía bên ngoài tường rào ngăn cách trại giam với cổng chánh.

Khoảng hơn một giờ sau, một cán bộ cùng hai người vũ trang đi vào pḥng giam kêu tên từng trại viên. Chúng tôi sắp hàng đi theo hai tên cán bộ vũ trang qua cánh cửa nhỏ đi ra ngoài sân trước. Vài chiếc “Molotova” đă đậu sẳn đó và chúng tôi được đưa lên sàn che kín của một chiếc xe sau khi đă bị c̣ng hai người chung vào một bằng một loại c̣ng thô sơ do những ḷ rèn ở địa phương làm ra. Loại c̣ng này không có dây xích nên tay chúng tôi không thể cử động được dễ dàng. Đó cũng là lần đầu tiên tôi bị c̣ng, tuy nhiên tôi chẳng nghĩ ǵ cả và cũng chẳng thấy xấu hổ nửa. Tôi chấp nhận điều này như một chuyện dĩ nhiên trong trại, và rồi có lẽ tôi c̣n sẽ phải chấp nhận bao nhiêu điều xấu hơn nửa. Hai tên cán bộ vũ trang ngồi ở hai bên sau của xe và mỗi xe chứa khoảng bốn mươi trại viên. Chúng tôi phải chờ cho đến khi đủ 410 trại viên lên xe. Xe rời khỏi trại Thủ Đức vào khoảng bốn giờ sáng ngày 17 tháng 4 năm 1977, tôi đă ở trại này đúng bảy tháng 12 ngày.

Mười chiếc Molotova cùng một chiếc xe nhỏ dẫn đường rời cổng trại vào sáng sớm, nhưng cũng đă có một vài xe đạp trên đường phố. Tôi thấy ai đó trong xe ném vật ǵ xuống đường, và sau này tôi mới biết họ đă gửi thư về nhà báo tin di chuyển. Tôi không biết thư có tới nhà không, nhưng tôi nghĩ đó quả là một hành động gan liều v́ rất dễ bị trừng phạt nếu bị phát hiện.

Lần này, đoàn xe không che dấu lộ tŕnh mà đi thẳng ra Tân Cảng trên xa lộ Sài G̣n - Biên Hoà cách trại Thủ Đức khoảng mười lăm cây số.

Chúng tôi được tháo c̣ng và leo lên chiếc tàu Sông Hương. Vài người cho biết đó là tàu Việt Nam Thương Tín, tàu đă từng đưa một số người di tản từ đảo Guam trở về Việt Nam trước đây. Bốn trăm mười người chúng tôi được đưa vào một hầm tàu đầy bụi than. Hầm tàu rộng khoảng 200 thước vuông cao khoảng bốn thước chỉ có một lỗ trống vuông mỗi cạnh khoảng sáu thước ở phía trên. Cạnh vách hầm ở phía giữa có một nhà xí làm bằng nan gỗ bọc chiếu cói. Bàn cầu là một cái bàn có khoét lỗ tṛn trên mặt bàn và một cái sô đặt phía dưới. Chúng tôi phải trải chiếu trên sàn hầm bằng sắt để chiếm chổ riêng, tuy nhiên v́ hầm tàu quá nhỏ so với số 410 người nên mỗi người chỉ vừa một chỗ để ngồi dựa trên đồ đạt. Tôi được lên tàu sớm nên giành được một chỗ khá cao ở góc hầm nơi để những bao than. Điều này giúp tôi rất nhiều v́ sau một ngày lênh đênh trên biển, phân và nước tiểu từ nhà cầu lan ra lênh láng trên sàn. Trên bốn trăm người mà chỉ có một cái sô nhỏ không thể nào đủ để đựng những thứ tiêu hoá.

Thức ăn và nước uống được tḥng xuống từ trên sàn tàu bằng một sợi dây qua cái lỗ. Họ cho chúng tôi ăn ḿ gói. Tôi đột nhiên nhớ đến những con gấu trong sở thú Sài G̣n mà trước đây thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem. Chúng tôi trông giống những con thú bị nhốt trong hầm và được những người nuôi thú cho ăn từ trên cao. Điều tệ hại hơn là có quá đông lũ chúng tôi trong một cái hầm nhỏ và dơ dáy; trong khi đó chỉ có vài con thú được nhốt trong một cái hầm được dọn dẹp sạch sẽ hơn. Tôi không thể ăn được ǵ trong những ngày này v́ quá mệt và hôi hám! Mỗi khi quá đói, tôi cố nhấm nháp một ít ḿ gói khô và nhấp một ngụm nước để tránh việc đi tiêu tiểu tiện càng nhiều càng tốt. Tôi không muốn bước trên sàn tàu đầy những thứ bẩn thỉu!

Tàu rời cảng khi trời bắt đầu sáng. Tôi nghĩ chắc khoảng tám giờ. Tuân, bạn tôi và tôi cá nhau đoán nơi mà chúng tôi sẽ đến. Tôi đoán một nơi nào đó ở miền Bắc, c̣n Tuân th́ bảo đảo Côn Nôn, nơi đă từng giam những trọng tội và tù chính trị của chính quyền Nam Việt Nam trước đây. Tôi không hiểu tại sao tôi lại đoán chúng tôi sẽ đi ra miền Bắc. Có lẽ tôi đă nghe nói đến những đợt đi ra Bắc trước đây. Tôi không biết chắc các bạn tôi đă bị đưa đi đâu, nhưng tôi biết họ đă bị di chuyển đến một nơi nào đó ở miền Bắc Việt Nam.

Từ khi Tuân và tôi bị giữ lại để điều tra, đă có thêm ba chuyến di chuyển ra Bắc nữa, vậy th́ lần này tôi nghĩ chắc cũng không khác. Chúng tôi đợi tàu ra đến biển để nh́n hướng mặt trời. Vài người khác cũng nhập bọn với chúng tôi để suy đoán. Chúng tôi chưa thể biết tàu đă ra đến biển chưa, nhưng đến sau bửa ăn trưa đầu tiên khi mặt trời nghiêng về hướng tây, chúng tôi đoán có lẽ tàu đă ra biển và dựa vào hướng của mây bay cùng với hướng của bóng mặt trời chúng tôi biết tàu đang tiến theo hướng Bắc. Mọi người đều thất vọng. Chúng tôi trong thâm tâm đều hy vọng ít ra chúng tôi vẫn ở miền Nam cho dù ở bất cứ trại nào!

Bốn trăm mười trại viên trong đó có khoảng 50 người từ khu D trại Thủ Đức, những người từng làm trong chính quyền Nam Việt Nam, trong Lực lượng Cảnh Sát, T́nh Báo, và khoảng năm mươi từ khu C, những người trong những tổ chức chống Cộng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 như “Lực Lượng Phục Quốc” của Đạo Công Giáo, những Giáo Phái Cao Đài, Hoà Hảo. Số c̣n lại đến từ Tây Ninh gồm những sĩ quan Cảnh Sát từ Trung Sĩ đến Trung Uư. Họ hầu hết trẻ hơn chúng tôi. Chúng tôi đang tiến về Bắc Việt, một vùng đất hoàn toàn xa lạ với chúng tôi dù rằng thật ra đó là một phần của lănh thổ Việt Nam. Chúng tôi đă từng nghe nhiều điều về miền Bắc, về sự đói nghèo của phần đất ấy, về cái gọi là “sắt máu” của Cộng Sản Bắc Việt. Lần này có lẽ chúng tôi có cơ hội để nh́n sự thật.

Xế chiều, tàu tṛng trành như đang gặp băo. Vài người bị say sóng ói mữa khắp khoang hầm trộn lẫn với phân và nước tiểu tạo thành một mùi hôi thối khó chịu. Vài người dùng nước để rửa, nhưng càng làm cho khoang hầm dơ bẩn hơn lên. Những chổ gần cầu xí bị vây bẩn nên một số người phải dời sang những chổ cao hơn làm khoang hầm trở nên chật chội hơn. Không ai có thể ngủ được trong t́nh trạng đó.

Tôi ngồi bó gối nghĩ đến gia đ́nh, vợ con tôi. Họ sẽ như thế nào khi biết tôi đang di chuyển đến một nơi vô định? Lần sau cùng gặp con tôi, nó không cho tôi bế! Tôi muốn mở ba-lô để lấy h́nh ra xem, nhưng không được v́ quá chật chội, tôi đă phải nhường chổ cho bạn bè. Thêm vào đó, tôi không muốn làm việc ấy trước mặt mọi người. Ai cũng nghĩ đến gia đ́nh trong hoàn cảnh ấy nhưng cũng phải che dấu đi bằng mọi cách.

Đột nhiên, một giọng hát từ đâu đó cất lên với bản nhạc “Ngày Anh Xa Vắng”. Mọi người im lặng lắng nghe. “Đợi chàng một hai năm, hay là cả đời xuân xanh, ngày nao đầu pha tuyết sương, vẫn mong tái ngộ một lần.” Bài ca được viết cho người vợ có chồng đi chinh chiến, nhưng trong hoàn cảnh ấy, lời ca lại thích hợp hơn lúc nào hết. Người đang ca là Hồ, trong nhóm trại viên từ Tây Ninh. Hồ không phải là ca sĩ; giọng anh lại không trau chuốt, nhưng rất buồn. Anh có diện mạo của một người đàn bà với dáng ẻo lả. Sau này chúng tôi thường gọi anh là “chị Hồ”, tuy nhiên trong cuộc sống chung, anh có nhiều nghị lực hơn mọi người tưởng.

Khi giọng ca của Hồ chấm dứt, nhiều người tham gia thay phiên nhau hát những bài “nhạc vàng” đă lâu bị cấm đoán trong trại. Vài người dùng muỗng gơ nhịp. Đám đông bắt đầu tụ tập quanh Hồ. Gần hai năm từ cái ngày “giải phóng”, tôi hứng khởi lắng nghe những bản nhạc quen thuộc của ngày xưa. Mọi người dường như quên đi hoàn cảnh bi thảm đang diễn ra! Không ai ca hay; cũng không có nhạc cụ nào đệm theo, nhưng những bản nhạc xưa dường như thấm sâu vào tâm tư mọi người. Gần gũi với “nhạc cách mạng” hầu như hàng ngày từ lúc vào trại, chúng tôi khát khao được nghe những ḍng nhạc êm ái của “nhạc vàng” để xoa dịu tâm tư và cũng để gợi lại những kỷ niệm của ngày xưa. Không ai dám ca nhạc vàng trong trại v́ chẳng ai muốn bị kỷ luật. Nhưng giờ đây trong hoàn cảnh bi thảm này, tôi nghĩ chẳng ai c̣n lo sợ đến “chánh sách” nữa.

Đám đông tiếp tục đến khoảng nửa khuya, nhưng rồi lơi dần. Bổng nhiên có một nhóm trại viên đánh nhau và la lối ở bên khu dành cho khu C trại Thủ Đức. Mọi người nh́n cảnh ấy, nhưng không ai muốn can thiệp vào. Một nhóm trẻ trong nhóm “Thanh niên Phục Quốc” đang đánh một trại viên mà chúng cho rằng đă làm “ăn-ten” ở khu C. Những người bị cho là “ăn-ten” là những trại viên đă báo cáo lên cán bộ những việc xảy ra trong trại viên. Có đôi khi một người bị nghi ngờ làm “ăn-ten” chỉ v́ người ấy làm đội trưởng và không đủ khôn khéo để làm vừa ḷng mọi người, nhưng cũng có khi v́ người ấy muốn tiến bộ để sớm về với gia đ́nh. Sống trong trại không đơn giản như ngoài xă hội v́ phải đối phó với nhiều hạng người mà không thể tránh va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, c̣n phải tránh sao khỏi là mục tiêu đối với cán bộ nữa. Tôi đă chọn một thái độ “nín thở qua sông” từ lúc vào trại đầu tiên là trại Long Thành, nhưng đôi khi tôi không tin tôi có thể làm vừa ḷng mọi người. Ca dao Việt Nam nói rằng: “Ở sao cho vừa ḷng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê.” Sống trong trại cải tạo, tôi luôn cảnh giác với việc đổ cho trại viên khác là “ăn-ten”. Vài người v́ ghét nhau thường hay nói xấu nhau, ai biết được? Tôi nghĩ rằng cách tốt nhất là im lặng quan sát một cách kỹ càng để tự bảo vệ lấy bản thân ḿnh.

Một lúc sau, ba trại viên từ khu C là Long, Tri và Dũng đi về phía của khu D t́m Uyển và Đôn định “thanh toán”. Chúng cho rằng Uyển và Đôn là “ăn-ten” ở khu D trại Thủ Đức. Tôi không chắc điều này, tuy nhiên tôi nghĩ Uyển và Đôn đều là những người có học, Uyển tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa c̣n Đôn là Kiến Trúc Sư, tôi nghĩ họ không thể dể dàng làm “chó săn” cho Cộng Sản. Nhưng ai mà biết được? Tuân và tôi khuyên những người ấy đừng làm những điều thiếu suy nghĩ như vậy v́ chúng tôi chưa biết chắc ǵ về Uyển và Đôn. Ngoài ra, điều ǵ sẽ xảy ra sau này v́ chúng ta vẫn c̣n đang ở trong trại?

Sự lộn xộn này đă làm đứt đoạn những bản “nhạc vàng”; mọi người về chỗ riêng ngồi im lặng dựa vào những đống đồ đạt mà nh́n lên trời. Không ai có thể ngủ được trong hoàn cảnh ấy. Tôi nhắm mắt cố tập trung tư tưởng. Không lâu sau khi vào trại, tôi thử tập một vài điều mà tôi biết được về Yoga. Hàng đêm trước khi đi ngủ, tôi thường ngồi xếp bằng một lúc, hai tay đặt trên đùi, mắt nhắm lại, và tập trung tư tưởng cố không nghĩ đến ǵ cả. Tôi thường tập như vậy để tách ḿnh ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn. Đôi lúc trong lúc mơ màng, tôi cảm thấy ḿnh nhẹ như lông, dường như có thể bay khỏi mặt đất; đôi lúc, tôi bị ch́m vào giấc ngủ say mơ thấy ḿnh đang ở trên một cánh đồng đầy hoa cỏ, mỗi bước đi như những cánh chim bay bổng, hoặc mơ giấc mơ của một cậu bé học tṛ đang cấp sách đến trường mà mỗi bước đi trên đường như có cánh dưới chân. Thức dậy, tôi thử phân tách những giấc mơ ấy, nhưng không thể được! Tôi nghĩ rằng đó chỉ là những ước mơ của tự do khi tôi đang bị giam hăm trong tù.

Sáng sớm hôm sau, một trận mưa nhỏ làm cho t́nh trạng hầm tàu trở nên bi thảm hơn. Trại viên dùng mọi vật có được để che thân và đồ đạt. Nước mưa trộn với phân và nước tiểu tạo thành những vũng nhầy nhụa trên sàn hầm rất khó tránh khi muốn di chuyển. Hầm tàu càng lúc càng bẩn thỉu! Trại viên phải ngồi co lại tại chỗ tránh di chuyển trừ trường hợp cần thiết. Thức ăn cùng với nước trong thùng được tḥng xuống từ những cái giỏ tre, trại viên cử người nhận rồi chia cho nhau. Dù rằng chúng tôi quá đói và mệt, không ai có thể ăn hay ngủ được giữa mùi hôi thối ấy! Tôi không biết điều ǵ ghê gớm hơn đang chờ đợi ở trại miền Bắc, nhưng tôi vẫn mong tốt hơn là hăy ra khỏi nơi này để tránh được t́nh trạng quá tệ hại.

Khoảng sau khi phát phần ăn trưa, tàu ngừng lại. Vài trại viên trước là Hải Quân Việt Nam đoán rằng tàu cập bến nào đó ở miền Trung, có thể là Cam Ranh hay Đà Nẳng, bởi v́ quá sớm để đến Bắc Việt. Tôi không biết có đúng vậy không, nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn mong chúng tôi sẽ được đưa đến một trại ở miền Trung để ít ra chúng tôi c̣n được ở trên phần đất nước của chúng tôi. Bắc Việt quá xa lạ với chúng tôi dù rằng thực tế th́ đó cũng là phần lảnh thổ của Việt Nam. Trong niềm mong mỏi đó, chúng tôi đặt mọi thứ vào lại trong túi ba-lô chuẩn bị rời tàu. Ít ra th́ chúng tôi không c̣n ở trong căn hầm bẩn thỉu này!

Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi, và đợi chờ cho đến trời tối. Trời vẫn c̣n mưa, nhưng cũng đă nhỏ dần. Chúng tôi không nhận được ḿ gói cho bữa ăn chiều như thường lệ mà chỉ được dưa hấu. Không có ǵ để cắt ra, chúng tôi đành phải đập dưa vào sàn tàu. Vơ dưa ném vào những vũng lầy nhầy làm cho sàn hầm thêm kinh khủng. Nhưng không ai c̣n để ư nữa v́ ai cũng nghĩ sẽ rời nơi này.

Khi trời đă tối hẳn, mái che hầm tàu mở rộng. Một chiếc thang được tḥng xuống cho mọi người lần lượt leo lên boong. Vài ḥn đảo nhỏ hiện ra mờ mờ từ đàng xa, đôi ba chiếc thuyền với những cánh buồm cuộn nhiều múi đặc trưng của miền Bắc khiến chúng tôi biết rằng chúng tôi đă đến cảng Hải Pḥng. Không c̣n Nam Việt Nam, không c̣n miền Trung nữa, chúng tôi đă đến miền Bắc Việt Nam, đến trung tâm của Cộng Sản Việt Nam! Mọi người đều thất vọng.

Phía bên kia đầu tàu cũng có trại viên leo lên boong. Chúng tôi không biết c̣n có thêm một hầm tàu khác nữa. Chúng tôi đứng vào hai hàng, một cán bộ c̣ng hai người đứng cạnh nhau trước khi chúng tôi lên bờ. Tay phải tôi c̣ng chung vào tay trái của Nghiệp, bạn tôi, chúng tôi bước lên hai tấm ván bắt từ tàu lên bờ. Với cái c̣ng không dây c̣ng hai tay của hai người, một khi tay người này di chuyển, tay người kia cũng phải di chuyển cùng chiều để tránh bị tréo tay, do đó Nghiệp và tôi di chuyển rất khó khăn trên cầu. Tôi được nghe kể rằng trong lúc lên bờ, có hai người từ nhóm bên hầm kia bị rơi xuống biển mất tích mà không ai cứu. Vài người nghĩ rằng họ tự tử, nhưng tôi th́ cho rằng một người trong họ bị trượt và kéo theo người kia; họ không thể gượng lại được v́ cái c̣ng và đồ đạt nặng nề trên vai.

Một hàng xe đ̣ đang chờ sẵn trên bến. Nghiệp và tôi lên ngồi vào giữa chiếc xe đầu v́ chúng tôi lên sớm. Lúc ấy vào khoảng 6 giờ chiều nhưng trời tối v́ đang mưa lâm râm. Tháng tư ở miền Bắc trời vẫn lạnh v́ mưa phùn gió bấc, đó là những ǵ mà tôi thường đọc trong sách nói về miền Bắc. Chỗ ngồi chúng tôi ở phía tài xế nên tôi ngồi phía cửa sổ xe có thể nh́n quang cảnh bên ngoài. Bến cảng nơi chúng tôi lên hoàn toàn hoang vắng. Cầu tàu đổ nát v́ đă bị nhiều trận bom. Ánh sáng từ những chiếc thuyền buồm trên vịnh Hạ Long lấp loáng từ xa. Bóng của những ḥn đảo nhỏ trông như những con quái vật khổng lồ vươn lên từ biển cả. Đó là một thắng cảnh của Việt Nam, nhưng làm sao chúng tôi có thể thưởng thức được trong hoàn cảnh thế này!

Một cán bộ phát mỗi người chúng tôi một ổ bánh ḿ cho chuyến đi trong khi chúng tôi chờ trên xe. Đoàn xe bắt đầu chuyển bánh vào khoảng nửa đêm. Tôi cho rằng Việt Cộng quen với việc hoạt động về đêm. Đó là lần thứ tư tôi bị di chuyển từ lúc vào trại. Lần đầu tiên từ trường Chu Văn An đến Long Thành, lần thứ hai từ Long Thành qua Thủ Đức, lần thứ ba từ Thủ Đức đi Tân Cảng, và đây là lần thứ tư: lần nào cũng bắt đầu vào nữa đêm, đó có lẽ là thói quen của chúng!

Thành phố Hải Pḥng ở gần đó. Đoàn xe chạy qua nơi nào đó trong thành phố nổi tiếng này, thành phố lớn thứ nh́ ở miền Bắc. Tôi nh́n thấy những căn nhà lá chen lẫn với nhà gạch. Vài ngôi nhà nửa gạch nửa lá; con đường đi rải rác những hố bom: dấu vết sự tàn phá của chiến tranh. Thành phố tối om v́ thiếu ánh sáng; vẫn c̣n những cột đèn dầu của thời Pháp thuộc. Tôi thấy một quán café có ánh đèn néon. Tên cán bộ theo xe nhắc chúng tôi đóng cửa sổ xe để tránh dân chúng giận dữ ném đá vào chúng tôi, những kẽ thù của họ trong chiến tranh! Nhưng, tôi chẳng thấy dân chúng trên đường phố ngoài vài đứa trẻ con ngó một cách lơ đểnh vào đoàn xe. Vài chiếc xe đạp chở đầy phía sau đang chạy trên đường phố. Thành phố rất im ĺm trong đêm vắng.

Đoàn xe ra khỏi thành phố sau vài phút; tôi đoán đó chắc chỉ là phần ven thành phố. Trời có trăng. Tôi cố nh́n ra đường để xem sinh hoạt của nhân dân miền Bắc, nhưng chẳng thấy ǵ. Cảm thấy mơi mệt và đói bụng sau hai ngày trên tàu, tôi ăn một ít bánh ḿ, uống một ngụm nước rồi ch́m vào giấc ngủ.

Tôi giật ḿnh thức dậy vào sáng sớm khi đoàn xe chạy trong một khu rừng. Có một vài người đẩy xe đạp thồ chất đầy củi bên lề đương. Đó là lần đầu tôi nh́n thấy cái gọi là “xe đạp thồ” của miền Bắc. Loại xe này chỉ có khung xe và hai bánh xe. Người ta dùng thanh gỗ dài cột vào ghi-đông để dễ lái; và họ cột những đồ nặng vào khung xe. Người ta không thể ngồi trên yên xe v́ thật ra không có yên xe nào cả, họ phải đi bộ bên hông xe để lái bằng tay trái và giữ thăng bằng chiếc xe bằng tay mặt. Loại vận chuyển này đă nổi tiếng trong trận đánh Điện Biên Phủ để chuyển súng đạn cho chiến dịch. Những người đàn bà đi hai bên đường gánh hay đội những gánh củi to. Cái nghèo của miền Bắc hiện ra rất rơ nét ở những sinh hoạt này.

Vào sáng sớm, đoàn xe rẽ mặt vào một con đường ṃn gồ ghề xuyên qua khu rừng bồ đề. Đến một cái suối, xe đầu tiên ngừng lại chờ đợi cả đoàn xe, rồi cả đoàn lần lượt chạy thẳng xuống suối! Ḍng suối chảy xiết; chúng tôi lo sợ v́ đang bị nhốt trong xe với chiếc c̣ng trên tay. Tài xế dường như quen thuộc lối đi nên lái chầm chậm qua suối một cách dể dàng. Qua thêm ba suối như vậy nữa th́ tới một con sông lớn. Tên cán bộ cho biết đó là nhánh của sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Tôi tự hỏi làm thế nào để qua được con sông lớn như thế này mà không có cái cầu nào cả. Đó không phải là con suối, và tôi nghĩ nó cũng không cạn như con suối! Tôi nh́n thấy một con đường dốc đi thẳng xuống bờ sông. Đoàn xe ngưng lại khoảng một giờ th́ có một chiếc phà nhỏ từ bờ bên kia sông qua. Đấy là một chiếc ca-nô nhỏ kéo một chiếc măng tre nhỏ. Nó chỉ có khả năng chở một chiếc xe mỗi lần! Xe tôi là chiếc xe đầu của đoàn xe nên được lên phà trước. Sông chảy siết v́ mùa nước. Phà chạy ngược ḍng kéo chiếc xe qua bờ bên kia, và rồi có vài người cột dây cáp vô phà quay ṛng rọc kéo phà vào bờ sông. Chiếc phà qua lại bờ kia để kéo một xe khác. Mọi việc diễn ra như trong chuyện đời xưa! Phải mất năm tiếng đồng hồ mới xong đoàn xe.

Tay phải tôi bị sưng lên. C̣ng quá chật mặc dù cổ tay tôi nhỏ. Tôi cố xoa bóp nó bằng tay trái. Ngồi bên cạnh tôi Nghiệp không nói ǵ, dường như đang ngủ dù tôi biết rằng anh ta vẫn thức. Tôi hỏi tên cán bộ để đi tiểu rồi cùng Nghiệp đi ra một bụi cây bên đường. Tôi cảm thấy nhẹ hơn sau khi ấy. Dân chúng nh́n chúng tôi ṭ ṃ. Vài đứa trẻ con mặc quần đùi và áo vá đùm la lên: “Nguỵ, Nguỵ”, nhưng không thấy ai ném đá như chúng tôi đă được báo trước. Tôi muốn hỏi chúng vài câu nhưng không dám. Vài trại viên ném cho chúng ít bánh ḿ; chúng chụp lấy rồi ăn ngon lành. Vài đứa trẻ c̣n chạy đến gần xe để nhận dưa hấu. Các cán bộ phải xua chúng ra xa khỏi đoàn xe. Đoàn xe bắt đầu chạy lại khi bắt đầu chiều.

Rừng nối tiếp rừng, núi tiếp nối với núi, đoàn xe phải vượt qua nhiều con suối. Tôi ngồi gật gù mệt mỏi ở băng ghế và thức tỉnh khi trời b́nh minh. Đoàn xe lắc lư trên con đường đầy hố bom. Những đồi chè hiện ra hai bên đường trông giống như đường đi Đà Lạt ở Cao Nguyên miền Trung. Đây đó có những đoàn người mang gùi trên lưng đi hái chè, họ thoáng ẩn hiện giữa những hàng cây chè thẳng tắp. Vài người dân chạy xe đạp trên đường với chiếc cuốc cột trên sườn xe. Họ đang đi làm cho những nông trại tập thể! Chúng tôi đă được nghe nói về việc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt từ năm 1955, không c̣n ai c̣n được làm chủ ruộng đất nữa; mọi cái đều là của chung. Trong mười bài học tập khi mới vào trại, chúng tôi đă được dạy rằng đất đai và công cụ sản suất là của mọi người dân trong xă hội. Việt Cộng bảo rằng đó là việc làm chủ tập thể. Nhân dân làm chủ tất cả, “nhưng không có ǵ cả!” Mức hưởng của mỗi người tuỳ công lao động mà người đó đóng góp. Chúng tôi th́ đùa rằng “ai làm ít lảnh ít, làm nhiều lảnh nhiều, và ai không làm th́ hưởng hết!”

Chúng tôi đang đi vào một thành phố nhỏ vào sáng sớm. Tôi nh́n thấy hàng chử “Uỷ Ban Nhân Dân Thị xă Phú Thọ” trên nền đỏ treo trước căn nhà gạch có cột cờ treo lá cờ đỏ ngôi sao vàng, cờ của Bắc Việt. Phú Thọ là một phần của tỉnh Vĩnh Phú (gồm 2 tỉnh cũ: Vĩnh Yên và Phú Thọ) ở miền Trung Du Bắc Bộ. Thị trấn quá nhỏ với vài căn nhà gạch số c̣n lại hầu hết là nhà lá. Những cánh đồng khoai ḿ và đồi chè xác nhận rơ ràng đặc sản của vùng. Cây soan nằm thành hàng giữa những cánh đồng và dọc theo đường. Dân địa phương dùng cây soan để cất nhà lá v́ chúng có nhựa đắng có thể tránh được mối mọt. Vào mùa đó, cây soan đang ra bông màu tím nhạt. Những ngọn đồi trồng cây cọ để lấy lá lợp nhà. Dân miền Nam dùng lá dừa nước c̣n dân miền bắc th́ dùng lá cọ để lợp nhà. Hầu hết nhà cửa trong vùng thường có vách đất với một cái ao nhỏ phía trước nhà. Sau này tôi mới biết rằng dân chúng đào ao để lấy đất đấp nền nhà và trét vách c̣n ao th́ để nuôi cá.

Qua khỏi Phú Thọ, đoàn xe rẽ mặt trên một con đường gồ ghề để vào một khu rừng. Những dăy núi thoáng hiện đàng xa. Vài người dân miền núi nh́n chúng tôi một cách ṭ ṃ khi đoàn xe đi qua. Họ là những người thuộc các sắc tộc Thái, H”Mông, Tày, tôi không biết rơ, lưng họ đều mang gùi và tay cầm ŕu. Đồi núi bao bọc lấy thung lũng. Những cánh đồng lúa bậc thang trên lưng đồi trông từ xa giống như những con rắn đang ḅ ra khỏi hang. Nhà sàn với mái cong và cao là một đặc trưng của miền núi. Những đứa trẻ con bụng ỏng dơ dáy chơi đùa bên cạnh những con heo thả rong. Những con chó nằm lơ đểnh ở hiên nhà. Mọi vật ṭ ṃ nh́n chúng tôi khi đoàn xe đi qua. Ở nơi xa xôi này, xe hơi là cái ǵ rất bất thường đối với mọi người.

Khoảng trưa, đoàn xe đi qua một con suối rộng và chảy mạnh tên là “A-Mai” ở một cái bến nhỏ tên là “Bến Ngọc” rồi chạy trên một con đường đất sét rộng khoảng sáu thước. Hai bên đường có nhiều nhà lá hơn trước. Một khu nhà gạch vây quanh bởi một hàng rào tre và kẽm gai dầy có tấm bảng mang tên “Trường Phổ Thông Công Nông Nghiệp Số 1” nằm bên phải con đường. Trẻ con khoảng từ 10 đến 15 tuổi mặc quần đùi áo xanh bạc màu đang làm trên những cánh đồng quanh trường dưới sự trông chừng của những công an mặc quân phục. Tôi tự hỏi chúng là tù hay là học sinh của trường? Đoàn xe cuối cùng ngừng lại trước cửa của trại: chúng tôi đang đến trại cải tạo Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú sau một ngày rưỡi đi xe từ cảng Hải Pḥng. Lúc đó khoảng giữa trưa ngày 20 tháng 4 năm 1977.

florida80
05-07-2020, 20:10
Chương 24. Một Cái Nh́n Tổng Quát

Về Trại Tân Lập

Hai hàng “cán bộ” đang chờ đợi chúng tôi trước cổng trại khi chúng tôi đến nơi; họ hầu hết đều được vũ trang! Những bộ đồng phục vàng với những quân hàm mà chúng tôi chưa từng thấy trước đây ở các trại miền Nam. Chúng tôi được tháo c̣ng và đưa vào trong trại. Một cái băng biểu ngử giăng ngang cổng trại đề: “Chào mừng các anh đến với nước Việt Nam Xă Hội Chủ Nghĩa”.

Trại cải tạo Tân Lập nằm giữa một thung lũng bao quanh bởi rừng núi. Từ trại chúng tôi không thể nh́n thấy được đâu là chân trời. Con đường duy nhất dẫn đến trại là một con đường đất sét rộng khoảng bảy thước chạy từ Bến Ngọc, một cái bến mang tên của một ông cả trong vùng, người đă lập ra nó. Ai muốn đi đến trại từ Hà Nội th́ phải đi xe lửa từ ga Ấm Thượng, rồi dùng một phương tiện duy nhất đến Bến Ngọc là chiếc đ̣ dọc, một chiếc ghe nhỏ chèo bằng tay dọc theo nhánh của con sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Từ Bến Ngọc đến trại th́ chỉ có cách đi xe đạp hoặc đi bộ.

Có tất cả bảy phân trại thuộc trại cải tạo Tân Lập đặt tên là K, từ K1 đến K7. Phân trại mà chúng tôi được đưa đến là K5, cũng là bản doanh trung ương của bộ chỉ huy toàn trại. K1, K2 và K3 là ba phân trại lớn khác, các K khác nhỏ hơn. Từ Bến Ngọc vào th́ K đầu tiên là K5; và K cuối cùng là K1 cách K5 khoảng mười lăm cây số về phía bắc. K3 cách K5 bởi một cái suối tên là A-Mai, đó là nguồn cung cấp nước cho toàn trại và cho nhân dân sống trong vùng. K2 nằm khoảng giửa K5 và K1, và K4 cách K5 khoảng mười cây số về phía tây. K6 và K7 là 2 trạm trung chuyển để nhận tiếp liệu cho toàn trại.

Con đường đất sét từ Bến Ngọc đến K5 xa khoảng mười lăm cây số đi qua một dốc cao tên là dốc Trinh. Cái dốc này khá cao và rất trơn trợt vào những ngày mưa. Con đường từ ngả rẽ vào trại K5 phải đi qua một cánh đồng có tên là cánh đồng Mua v́ có nhiều cây Mua mọc ở đó. Mua là một loại cây họ với cây sim có hoa màu tím nhạt và trái màu xanh đen. Một chuồng ḅ nằm ở đầu khúc quanh ấy để làm cột mốc giữa đất của trại và những khu đồi và rừng cây gần đó. Khoảng cách từ khúc rẽ này đến trại khoảng tám trăm thước.

Kiến trúc của K5 trại cải tạo Tân Lập được chia ra làm hai phần: khu cơ quan và khu trại.

Khu cơ quan K5 cũng là bản doanh của trại. Nó gồm ba dăy nhà gạch để làm văn pḥng nằm theo h́nh chữ U và bốn dăy nhà lá phía sau hai nhánh để làm nơi ở cho các cán bộ độc thân. Căn nhà gạch chính nằm ở đáy h́nh chử U của tổng thể là căn nhà khang trang nhất nằm trên nền cao. Đó là văn pḥng của toàn trại và của trưởng K5. Hai căn nhà gạch kia là văn pḥng của Ban giám thị và Hội Đồng cán bộ phụ trách K5. Bốn dăy nhà lá khác được xây dựng trong một khu riêng biệt dành cho các cán bộ có gia đ́nh. Một nhà giữ trẻ dành cho con của các cán bộ nằm gần khu gia đ́nh. Rải rác chung quanh khu trại là những nhà lá gọi là “nhà lô” được dùng làm địa điểm lao động cho trại viên và cũng là điểm canh gác trại vào ban đêm.

Khu trại giam là khu đất h́nh vuông mỗi cạnh khoảng năm trăm thước bao quanh bởi tường gạch cao khoảng ba thước với kẽm gai khoảng một thước rưỡi bên trên. Trừ mặt trước ra, hai bên tường rào là hào sâu đầy nước. Cổng chính là một cái nhà gạch hai tầng với hai trạm gác ở hai bên của cánh cổng rộng khoảng sáu thước. Tầng trên cổng gác là văn pḥng của “cán bộ trực trại”. Có tất cả bốn khu trong trại giam tên là khu A, B, khu bệnh xá, và khu bếp cùng hội trường.

Đi vào trong trại, qua khỏi cánh cổng là một sân rộng khoảng một mẫu dùng làm khu quan sát và để làm khu tập họp trại viên đi lao động. Khu A ở phía góc phải gồm bốn dăy nhà gạch mái lợp lá cọ và bao quanh bởi một dăy pḥng dùng làm pḥng của “Ban thi đua”, pḥng của “cán bộ quản giáo” và làm cái gọi là “pḥng ăn” cho trại viên. Các nhà trong khu A được ngăn cách nhau bởi những bức tường gạch cao khoảng hai thước có gắn miểng chai bên trên. Mỗi bức tường có một cánh cửa nhỏ. Khu B ở phía cạnh trái của trại gồm hai dăy nhà không có rào quanh. Mỗi đầu nhà phía trái là một cái hồ xi măng h́nh chữ nhật cạnh mười và mười lăm thước sâu khoảng một thước rưỡi chứa nước để uống và để tắm rửa, nước này được bơm vào từ một máy bơm đặt ở gần suối. Mỗi nhà chia ra hai pḥng giam mỗi pḥng là sáu gian rộng năm thước, có hai gian làm kho chứa đồ ở hai đầu nhà và hai gian ở giữa làm nhà vệ sinh.

Pḥng giam là căn pḥng dài khoảng ba mươi thước rộng năm thước. Một cánh cửa gỗ ở cuối pḥng có thể khóa bên ngoài bằng một thanh gỗ luồn qua những khoen sắt. Mười bốn khung cửa sổ có song sắt không có cánh cửa gồm sáu cái ở mỗi phía và hai cái ở một đầu, chúng được mở rộng quanh năm ngay cả trong mùa đông với mục đích dể kiểm soát bên trong.

Hai dăy sạp hai tầng được làm bằng khung sắt chử L lót ván để làm chổ ngủ cho trại viên. Ai ngủ phía trên th́ phải leo lên bậc được làm bằng những thanh sắt ngắn hàn dính vào khung thẳng đứng. Kệ để đồ đạc cho trại viên được làm dọc theo tường phía trên cửa sổ ở tầng trên, c̣n trại viên nằm phía dưới th́ để đồ đạc trong cái kệ ở trong nhà vệ sinh. Tầng dưới của sạp cao khỏi mặt nền khoảng sáu tấc, tầng trên khoảng hai thước, do đó người nằm tầng dưới không thể đứng thẳng người được trên sạp.

Lối đi rộng khoảng hai mét ở giửa hai dăy sạp dẫn vào nhà vệ sinh. Trần nhà làm bằng nan tre đan có đóng dây kẽm gai dấu bên trên. Chỉ có một bóng đèn nhỏ treo giữa pḥng chiếu ánh sáng mờ về đêm, nhưng nó lại được thay bằng một ngọn đèn dầu sau khi điện cúp vào khoảng chín giờ tối. Ngọn đèn dầu này làm bằng một cái chai cắt ngang miệng với cái tim cắm thẳng vào dầu hôi.

Cái gọi là “nhà vệ sinh” cho trại viên trong pḥng giam là một căn pḥng rộng khoảng ba thước dài sáu thước với phía sau là nhà cầu và phía trước là kho chứa đồ. “Nhà cầu” là một lổ xí cao khoảng nửa thước với hai cái bàn ngồi h́nh bàn chân làm bằng xi măng ở hai bên một cái lổ nhỏ, phía dưới được đặt một cái thùng bằng gỗ. Phân tươi sẽ được lấy đi vào sáng hôm sau từ cái cửa nhỏ phía ngoài pḥng giam và sẽ được làm phân bón được gọi là “phân bắc”! Đó là một loại nhà cầu phổ biến ở miền Bắc được gọi là “cầu ba ngăn”. Chổ chứa đồ đạc trại viên nằm bên dưới sạp nằm được đặt phía trước của nhà vệ sinh. Đó là một pḥng nhỏ có ba cái kệ bốn ngăn đặt dọc theo tường. Cửa pḥng vệ sinh không thể khép sát được, do đó căn pḥng giam luôn luôn có mùi hôi thối.

Khu vực bệnh xá là một dăy nhà gạch dài khoảng ba mươi thước rộng sáu thước nằm trong một khu đất rào quanh bởi kẽm gai. Bên phải của cổng bệnh xá từ ngoài đi vào là một vườn trồng thuốc nam. Phía bên phải của bệnh xá là một cái ao nhỏ nuôi cá rô phi và một khu đất trồng rau muống, một loại rau thông dụng của người Việt, để “bồi dưởng” cho bệnh nhân. Phía mặt, gần khu A của trại là một hàng dậu cao bằng cây dâu tằm, một loại thuốc “an thần”. Không có bác sĩ hay y tá nào làm trong bệnh xá ngoài vài trại viên được ban giám thị tin tưởng cùng một cán bộ phụ trách, tất cả những người này đều không có một chút kiến thức ǵ về pḥng bệnh và trị bệnh. Hầu hết thuốc men trong bệnh xá là những loại bột lá hay rể cây được ṿ viên nhỏ gọi là “thuốc dân tộc”.

Hội trường là kiến trúc lớn nhất trong trại rộng khoảng tám thước dài năm mươi thước trên một nền đất viền bằng gạch nằm thẳng đường nh́n ra cổng chánh của trại. Mái hội trường lợp bằng lá cọ và vách th́ trét bằng đất trộn với rơm. Những khung cửa sổ làm bằng tre và một khung cổng chính ở đầu hội trường nằm song song với cổng chính của trại. Một cái bục có màn đỏ che ở một đầu hội trường chứng tỏ rằng hội trường này có mục đích để tŕnh diễn văn nghệ, nhưng hội trường th́ lại trống rỗng!

Khu vực nhà bếp nằm cạnh bên hội trường phía bên góc trái của trại gồm có hai dăy lều nằm thành h́nh chử L: Một dăy dùng làm nhà nấu nướng và một dăy ở cuối khu song song với hội trường làm nhà kho và nơi phát cơm cho trại viên. Khu nhà bếp được rào quanh bởi một ṿng rào kẽm gai với một cánh cổng rộng phía trái để các người làm trong bếp ra vào và một cổng nhỏ phía phải dành cho trại viên đi vào lấy cơm hay nước uống. Nhà nấu bếp là một căn lều không có vách với sáu cái ḷ có những cái chảo to phía trên: ba cái để nấu thức ăn hay nước uống và ba cái để nấu cơm (hay đúng hơn là nấu khoai ḿ, bắp, hoặc bo bo). Một cái giếng duy nhất trong trại nằm gần nhà nấu được nh́n thấy rơ từ xa v́ có một cái cần kéo nước dài làm đ̣n bẩy bằng tre cột một miếng sắt to ở một đầu c̣n đầu kia th́ cột một sợi dây treo cái thùng để lấy nước. Vào mùa nắng, giếng rất sâu nhưng nước trong c̣n về mùa mưa th́ nước lên tới miệng giếng nhưng rất đục. Nhưng chúng tôi cũng phải uống nước ấy mà thôi! Có một căn nhà lá nhỏ khác nằm trong khu bếp để nhốt trâu kéo xe cho nhà bếp, xe trâu là phương tiện di chuyển duy nhất của nhà bếp. Xe ḅ miền Nam khác với xe trâu của miền Bắc ở chổ xe ḅ miền Nam th́ có bánh xe làm bằng gỗ niềng sắt c̣n xe trâu miền Bắc th́ có bánh xe làm bằng vỏ xe hơi. Ngoài ra ở miền Bắc dùng trâu kéo xe chứ không dùng ḅ như miền Nam, do đó chúng tôi gọi nó là xe trâu.

Sau khi được tháo c̣ng, chúng tôi xếp hàng đôi để đi vào trại. Họ không xét đồ đạc chúng tôi nữa, và chúng tôi được đưa thẳng vào khu A. Tôi thuộc đội đầu tiên, do đó vào pḥng giam số 1 trong nhà đầu tiên ở khu này. Khi tôi vào đến th́ đă nghe tiếng của Tuân gọi tới chỗ dành sẵn gần chỗ hắn nằm ở tầng trên trong góc pḥng. Ở mỗi chỗ nằm có để sẵn một chiếc chiếu cói, một cái mùng vải, hai bộ đồng phục tù, và một cái nón cối bằng lá. Tuân, Hạnh, Lộc và tôi nằm gần nhau ở tầng sạp trên dành cho bốn trại viên, do đó chúng tôi dễ nói chuyện với nhau hơn v́ không sợ bị người khác nghe thấy và báo cáo.

Việc đầu tiên tôi làm là đi tắm và giặt áo quần ở cái hồ ở phía đầu nhà. Tôi dùng cái gào bằng cao su cột bởi một sợi dây để kéo nước trong hồ lên. Sau khi tắm giặt xong, tôi cảm thấy hơi thoải mái hơn một chút bèn mặc thử bộ đồ tù vào. Chúng tôi nh́n nhau trông thật kỳ khôi! Cái kỳ cục nhất mà chúng tôi chưa từng thấy trong đời là cái nón cối bằng lá cọ. Chúng tôi bật cười với nhau khi nh́n nhau trong độ đồng phục tù này! Chúng tôi trông giống những người lao động trong những tấm h́nh chụp những công nhân ở Trung Cộng mà chúng tôi đă từng thấy trước đây. Màu xanh của bộ đồng phục gợi cho tôi nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu, một thi sĩ của miền Bắc: “Rồi một hôm nào cởi áo xanh, hết cùm, hết xích, hết roi canh”. Cái áo xanh mà Tố Hữu nói đến là chiếc áo tù của thời Pháp thuộc, và nó đă được nhà nước Bắc Việt bắt chước lại. Nhưng điều khác nhau là chúng tôi không phải là “tù nhân” mà là “trại viên” của trại cải tạo! Tù nhân th́ có án, c̣n chúng tôi th́ không. Chúng tôi phải thực hiện cho được tiến bộ để được trở về với xă hội! Quả thật là một điều khôi hài khi bị giam mà không có án phạt.

Khoảng hai giờ chiều, vài phạm nhân h́nh sự mang phần ăn vào nhà ăn, và rồi cán bộ vào báo chúng tôi đi ăn cơm! Đó là một bửa ăn thịnh soạn nhất mà chúng tôi nhận được kể từ ngày vào trại: một nồi cơm, một tô lớn thịt trâu, một tô canh, và một tô thịt heo cho sáu trại viên. Có cái ǵ đó lẫn trong cơm mà chúng tôi chưa nhận ra được. Vài người nghĩ là một loại đậu, nhưng sau này chúng tôi biết được đó là bo bo, một loại thức ăn gia súc của người Ấn Độ. Thịt trâu là loại thịt rất dai mà chúng tôi ăn lần đầu. Ở miền Nam, dân chúng ít khi nào ăn thịt trâu, nhưng đối với dân miền Bắc th́ thịt trâu là loại thịt thông dụng. Chúng tôi không thể nào ăn hết phần ăn này nên chúng tôi quyết định mang phần c̣n lại vào để dùng tiếp. Lúc đó c̣n quá sớm cho bữa ăn chiều nhưng lại quá trễ đối với bửa ăn trưa, do đó vài người vẫn chờ đợi bửa ăn chiều như thường lệ với mong mơi là sẽ có thêm bữa ăn thịnh soạn như vậy nữa. Vài người c̣n không mang phần ăn thừa vào và lại nói rằng họ sẽ được ăn như thế hàng ngày. Quả thật là một sự lạc quan tếu! Nhưng rồi không có bửa ăn chiều nào nửa hết. Chúng tôi bị nhốt vào pḥng giam vào khoảng 6 giờ chiều, và tôi th́ ngủ ngay sau khi đó v́ quá mệt.

Ngày hôm sau, chúng tôi phải lên hội trường để nghe ông giám thị trưởng, “đồng chí Thùy” nói chuyện. Ông ta là một người hơi ốm và xanh, cao khoảng một thước sáu mươi hai. Cái áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần vàng trông giống kiểu của một cán bộ cao cấp của VC. Bài nói chuyện của hắn ta rất trôi chảy như những diễn giả khác v́ tất cả đều học cùng một bài! Thùy là sếp của toàn trại. Với cái nh́n đầu tiên, hắn trông rất dễ gây cảm t́nh, nhưng qua cách nói không hở răng, cười không hở môi, chúng tôi biết hắn ta là một người rất hiểm độc. Với giọng nói Nghệ tỉnh, quê hương của Hồ, rất khó nghe, hắn ta dùng rất nhiều thơ của Hồ Chí Minh để thêm vào bài nói chuyện. Nhưng tựu trung th́ bài nói chuyện của Thùy là nói đến sự quan tâm của “Đảng và Nhà Nước” đối với việc cải tạo của những người có tội với nhân dân. Chúng tôi được đưa đến đây là để được gần với trung ương, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc cải tạo. Chúng tôi sẽ có điều kiện để lao động và học tập! Và rồi để kết luận, hắn lại bảo rằng ai tiến bộ trước sẽ được về trước. Chúng tôi đă nghe nói đi nói lại điều này ở mọi trại cải tạo rồi, chẳng có ǵ mới mẻ cả!

florida80
05-07-2020, 20:11
Chương 25. Cuộc Tuyệt Thực

Hai ngày đầu tiên ở trại Tân Lập là hai ngày nghỉ ngơi! Chúng tôi tụ tập nhau để hát nhạc vàng, ăn trưa và tối, tắm giặt và đi rong trong khu A. Chúng tôi không thể ra khỏi khu được v́ họ đóng cửa, nhưng chúng tôi có thể đi qua các nhà trong khu để gặp nhau. Cơm nước th́ được những phạm nhân h́nh sự làm trong nhà bếp mang đến nơi. Có vài phạm nhân h́nh sự làm trong Ban Thi Đua, nhưng họ chỉ đứng ngoài quan sát chúng tôi mà thôi.

Ngày chúa nhật 24 tháng 7 năm 1977, những sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi diễn tiến như thường lệ sau khi cửa pḥng giam được hai cán bộ đến mở ra, một cán bộ vũ trang và cán bộ trực trại. Trong lúc tôi cùng Tuân, Hạnh và Lộc đang ngồi uống trà tại chổ nằm th́ nghe tiếng ồn ào ở ngoài sân. Một nhóm trại viên la ḥ cổ vơ cho việc đánh nhau. Vài thanh niên trong nhóm “Phục Quốc” đánh Thượng, một trại viên thuộc nhóm “t́nh báo”. Chúng bảo rằng Thượng có thái độ rất là hèn hạ khi nói chuyện với cán bộ trực trại mà lại khoanh tay lại. Kết quả của trận đánh ấy là tay của Thượng bị găy! Tôi th́ không thấy thái độ của Thượng sáng nay ra thế nào, và cũng không biết Thượng có phải là ăn ten hay không dù anh ấy đă ở cùng trại với tôi ngay từ lúc đầu. Thượng không phải là bạn thân của tôi, và anh ta chỉ là một trại viên b́nh thường như nhiều trại viên khác chọn thái độ “nín thở qua sông” để sống trong trại. Nếu quả thật anh ta có khoanh tay khi nói chuyện với cán bộ trực trại th́ tôi nghĩ đó cũng chỉ là một thói quen khi thời tiết miền bắc đang lạnh mà thôi. Những thanh niên “Phục Quốc” là những người yêu nước, tôi không phủ nhận điều này, nhưng họ c̣n quá trẻ để hiểu biết mọi việc. Sự chống đối VC lại đổ lên đầu của Thượng, đó là một điều rất bất công.

Các cán bộ và ban thi đua vào mang Thượng đi bệnh xá và đóng cửa ở các bức tường ngăn cách các nhà với nhau trong khu A. Trại viên bắt đầu tập họp trong các pḥng giam, và tôi nghe giọng đồng ca bản nhạc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” vang lên từ nhà số 2, đó là bài ca tâm lư chiến thường được hát trong những dịp tranh đấu. Vài trại viên từ pḥng 2 sang yêu cầu Uyển và B́nh tham gia vào. Trong pḥng 1 nơi tôi đang ở có khoảng một trăm trại viên chia làm hai đội: đội một và đội hai. Uyển, trại viên từ khu D của trại Thủ Đức làm đội trưởng đội 1 và B́nh từ khu C của trại Thủ Đức là đội trưởng đội 2. Ngoại trừ những trại viên đang tắm giặt ở hồ nước, các trại viên c̣n lại trong phong đều tụ họp nhau và bắt đầu ca nhạc vàng và nhạc tranh đấu.

Khoảng mười giờ, bốn cán bộ vũ trang đi cùng cán bộ trực trại vào khu A để dẫn vài trại viên lên hội trường. Đó là những người đă đánh Thượng vào sáng nay như Tri, Long, B́nh, Dũng, và vài người khác mà tôi không nhớ tên. Sau một lúc th́ họ thả Long và Dũng về, số c̣n lại th́ đưa đi K1 để biệt giam. Vài người sau này đă chết ở đó, số c̣n sống th́ cũng rất tang thương.

Bửa ăn trưa được các phạm nhân h́nh sự mang đến pḥng ăn như thường lệ, nhưng tôi nghe ai đó ra lệnh không được ăn. Tôi không biết ai đă ra lệnh này, và chẳng trại viên nào dám đi vào pḥng ăn v́ ai cũng sợ bị đánh như Thượng sáng này! Có lẽ đó là lần đầu tiên mà VC chứng kiến cảnh ấy trong trại. Những cán bộ vũ trang đi chung quanh khu A nhưng không vào trong. Cán bộ trực trại th́ vào hỏi Uyển về t́nh h́nh đang diễn biến. Vài người lên tiếng yêu cầu thả những người bạn của họ trước khi họ ăn cơm. Cuộc tuyệt thực bắt đầu!

Bài ca “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” được lập đi lập lại nhiều lần và bắt nhịp bởi những tiếng vỗ tay tạo nên một nhịp điệu kích động. “Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người…Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!” Cái không khí quen thuộc này tôi đă từng nh́n thấy trong những buổi xuống đường của sinh viên được giật dây bởi VC trước kia nay lại đang diễn ra trong một trại cải tạo của VC. Quả là gậy ông đập lưng ông! Ngay cả những bài như “Dậy Mà Đi” hoặc “Tự Nguyện” của VC cũng đă trở thành một vũ khí tranh đấu chống lại chúng. “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà không khốn một lần”, hoặc “Nếu là người, tôi xin chết cho quê hương”. Những lời ca này lại trở thành đúng lúc hơn lúc nào hết.

Tuân, Hạnh, Lộc và tôi ngồi tại chỗ của chúng tôi để uống trà tham gia cuộc tuyệt thực! Bữa ăn chiều không được mang vào và phần ăn trưa th́ vẫn nằm nguyên trong nhà ăn. Vào khoảng 6 giờ chiều, cán bộ trực trại và cán bộ vũ trang vào điểm buồng giam như thường lệ. Chúng tôi không đứng ngoài sân để điểm mà ngồi tại chỗ để đếm số thứ tự. Nhạc vàng và nhạc tranh đấu lại được cất lên cho đến nửa đêm mặc dù đèn điện đă tắt sớm hơn mọi ngày. Chúng tôi thay phiên nhau hát. Tôi không thuộc nhiều nhạc, do đó tôi đă ca một bản nhạc tiền chiến tên là “Ghen”. Đó chỉ là bản t́nh ca. Khoảng nửa đêm, chúng tôi chui vào mùng ngủ v́ muỗi quá nhiều. Tôi ch́m vào giấc ngủ mệt mỏi với cái dạ dày trống rỗng.

Cuộc tuyệt thực bắt đầu một cách ồn ào và rồi chấm dứt trong lặng lẽ.

Cộng Sản đă cô lập chúng tôi mà không cần cấm đoán những ǵ mà chúng tôi muốn làm trong ṿng rào khu A. Không có một hậu thuẫn nào để làm chổ dựa, không có một tổ chức nào để hướng dẩn, cuộc tranh đấu trông giống như một ngọn lửa nhỏ, bạo phát bạo tàn! Họ chẳng cần đàn áp cuộc chống đối; nó tự tàn lụi lấy. Tôi đă biết trước như vậy và đang chờ đợi những hành động trả đũa của VC tiếp theo sau.

Sáng hôm sau, cán bộ đến để điểm buồng, trại viên ra khỏi pḥng giam, nhưng có thêm vài cán bộ vũ trang đi kèm với cán bộ trực trại. Không ai nhắc nhở ǵ đến cuộc tuyệt thực hôm trước có tiếp tục hay không. Một ngày không ăn và một đêm thức khuya đă khiến mọi người đều đói và mệt. Khi bữa ăn trưa được mang vào nhà ăn, mọi người đều đặt đồ đựng chung quanh và trại viên trực chia phần cho mỗi người như thường lệ. Cuộc tuyệt thực đă chấm dứt một cách dễ dàng giống như khi nó bắt đầu! Vài người cũng c̣n tụ tập để hát nhạc vàng, nhưng không c̣n quy tụ được đông như trước đó. Sau một đêm, tôi nghĩ chắc ai cũng nhận ra được t́nh trạng nguy hiểm của ḿnh ở trong trại khi không có được một sự hậu thuẫn nào. VC chưa làm ǵ cả, nhưng tôi tự hỏi điều ǵ sẽ xảy ra sau này đây. Tôi nghĩ chắc là họ không dễ dàng bỏ qua đâu. Có lẽ họ đă học được bài học diễn ra khi đưa những trại viên đánh Thượng đi, và họ đợi sự kiện lắng dịu lại.

Những trại viên nổi tiếng trong cuộc tuyệt thực đều bị trừng phạt về sau bằng cách này hay cách khác. Một số đă chết trong những phân trại khác và một số lại trở thành ăn- ten c̣n tồi tệ hơn những người khác !

florida80
05-07-2020, 20:11
Chương 26. Lao Động Là Vinh Quang

Những ngày nhàn rỗi tiếp sau cuộc tuyệt thực trôi qua trong lặng lẽ. Tôi đi ṿng quanh khu A để xem những bảng viết trên tường. Có 4 loại bảng được kẻ khắp nơi; đó là: bốn tiêu chuẩn cải tạo, ba mươi sáu điều nội quy của trại, hai mươi điều lệnh về nếp sống văn hóa mới, và mười chín điều về kỷ luật lao động.

Cái gọi là “Bốn Tiêu Chuẩn Cải Tạo” gồm bốn điều quy định mà mọi trại viên phải thực hiện để được coi là có tiến bộ. Điều quan trọng nhất là nhận tội và khai báo tội lỗi của người khác mà ḿnh biết dù họ đă bị bắt vào trong trại hay vẫn c̣n ở ngoài xă hội. Tôi không thể nhớ từng chữ của bản văn, nhưng tựu chung nội dung như sau:

1. Thành thật thú hết tội lỗi c̣n dấu diếm hay chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của đồng bọn và bọn phản cách mạng mà ḿnh biết được dù chúng đă bị bắt vào trong trại hay c̣n ở ngoài xă hội.

2. Tích cực học tập cải tạo; có trách nhiệm giúp đở các trại viên khác trong việc cải tạo.

3. Chấp hành nội quy của trại. Không được có lời nói phản tuyên truyền hoặc hành động phá hoại.

4. Tự nguyện tự giác lao động, tích cực học tập cải tạo. Đề xuất được những sáng kiến tốt trong việc quản lư và giáo dục phạm nhân, đẩy mạnh sản xuất của trại.

Nội quy của trại gồm 36 điều chia làm 4 phần: phần tổng quát, kỷ luật về học tập, về nếp sống, và về lao động.

Mười chín điều về “kỷ luật lao động” và hai mươi điều về cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” được phát triển một cách chi tiết từ bản nội quy.

Cái quan trọng nhất là bốn tiêu chuẩn cải tạo và nó được kẻ khắp mọi nơi trong trại. Các cán bộ cũng thường bảo rằng việc trở về xă hội của trại viên là tùy theo mức độ mà người ấy thực hiện được qua 4 tiêu chuẩn này. Điều đó đă khiến nhiều trại viên bị lẩn lộn giữa sự tiến bộ và sự tự trọng bởi v́ nếu muốn làm theo những tiêu chuẩn ấy th́ người trại viên phải làm những điều đi ngược lại quyền lợi của người khác. Quả là một chiến thuật nguy hiễm của VC để chia rẽ trại viên với nhau để điều hành trại! Trong hoàn cảnh ấy th́ ai mà không muốn được ra khỏi trại? Trại viên không c̣n tin tưởng nhau, và điều này giúp Cộng Sản điều hành trại được dễ dàng hơn.

Vài ngày sau khi xảy ra vụ tuyệt thực, t́nh h́nh trong trại càng lúc càng lắng dịu hơn. Vào ngày thứ hai một tuần sau đó, một cán bộ vào pḥng giam của chúng tôi gọi Uyển và B́nh, hai đội trưởng trong pḥng, cho mười trại viên đi với hắn để lấy “xe cải tiến” cho việc lao động vào hôm sau! Xe cải tiến là cái ǵ? Chúng tôi hỏi nhau.

Tôi theo nhóm để lấy xe cải tiến. Tên cán bộ giải thích rằng “xe cải tiến” là phương tiện để giải phóng đôi vai v́ chúng ta dùng nó thay v́ gánh nặng bằng vai. Thật là một cách giải thích kỳ khôi! Nhưng chúng tôi cũng không hiểu được cái từ “cải tiến” là thế nào. Cái ǵ đă cải tiến trong chiếc xe? Một cái máy gắn vào hay cái ǵ khác?

Chúng tôi, mười trại viên mặc bộ đồng phục tù với cái nón cối bằng lá cọ trông rất kỳ khôi đi theo tên cán bộ. Qua cổng trại, tên cán bộ bảo chúng tôi phải bỏ mũ nón ra; chúng tôi nh́n nhau ngạc nhiên. Không nói lời nào, nhưng trong thâm tâm chúng tôi cảm thấy tôi nghiệp cho cái thân của kẽ chiến bại.

Trời cuối tháng tư, thời tiết miền Bắc vẫn c̣n se lạnh. Chúng tôi đi trên con đường đất sét nhầy nhụa dọc theo bức tường gạch phía trước trại. Những h́nh vẽ một cách vụng về trên tường diễn tả các hoạt động của trại viên. Những bông hoa soan màu tím nhạt rụng đầy trên mặt đất, và những chồi non đang trồi ra khỏi cành cây trơ trụi. Dân chúng gọi đó là cây “sầu đông” v́ đó là loại cây duy nhất ở miền Bắc bị rụng hết lá về mùa Đông.

Cái gọi là “xe cải tiến” là chiếc xe kéo có một cái thùng bằng gỗ dài khoảng một thước rưỡi rộng một thước và cao khoảng năm tấc với hai bánh xe bằng sắt bọc cao su gắn phía dưới. Hai càng xe bằng gỗ được gắn vào cái thùng ấy để kéo đi. Chúng tôi kéo năm cái xe trên con đường đất sét bên cạnh hàng rào trại nằm gần bên suối A-Mai đi từ bộ chỉ huy trại đến ḷ gạch.

Suối A-Mai lúc ấy đang cạn nước. Bờ suối chạy dài ra xa. A-Mai là con suối nhỏ chảy vào một nhánh của sông Hồng, do đó ḍng suối cũng lên xuống theo sự lên xuống của ḍng sông Hồng. Trong mùa mưa, nước sông Hồng lên rất cao, và đôi khi làm vỡ đê gây ngập lụt cho đồng bằng Bắc Việt. Tên cán bộ cho biết nước suối A-Mai từng lên tới tận con đường và chảy rất mạnh trong những ngày mưa lớn.

Phân trại K3 hiện ra ở phía xa xa bên kia bờ suối. Phương tiện duy nhất để đi từ K5 qua K3 là chiếc mảng tre do một phạm nhân lái. Một sợi dây cáp bằng thép nối liền hai cột xi măng ở hai bên bờ suối, và chiếc mảng được nối với sợi cáp bằng một cái ṛng rọc. Người lái mảng chống sào để đưa chiếc mảng đi từ bờ này qua bờ kia. Có một con đường ṃn từ con đường đất sét xuống tới bến mảng. Bên mặt của con đường đất sét, tôi nh́n thấy một vài cái nhà lá mà cán bộ cho biết đó là “nhà lô” cho những trại viên làm mộc. Cánh đồng phía sau trại hoàn toàn hoang vu với cỏ cao và bụi rậm.

Cách trại khoảng hơn một cây số, ḷ gạch vươn lên cao từ xa với tường bằng đất và mái lợp tôn rỉ. Khu đất quanh ḷ gạch bị đào bới trông giống như một thành phố cổ đang bị đào bới để t́m di tích. Một cái sân phẳng nằm bên cạnh dùng làm nơi đóng gạch.

Chúng tôi kéo xe vào trong một cái cḥi bên cạnh ḷ gạch, nơi ở của cán bộ. Hắn ta nói với Uyển rằng ngày mai sẽ vào để dẩn đội đi lao động ngày đầu tiên và rồi hắn đưa chúng tôi về trại.

Đến gần suối chổ quẹo vào trại gần máy bơm nước, tên cán bộ bảo rằng để “bồi dưỡng” cho việc làm của chúng tôi, hắn cho phép chúng tôi được tắm giặt trong mười lăm phút. Chúng tôi chạy thẳng xuống suối, cởi quần áo và tắm giặt một cách vội vả. Lúc ấy đă gần trưa, nhưng cũng c̣n hơi lạnh. Chúng tôi phải mặc áo quần ướt đi về trại.

Không chỉ có chúng tôi, những người đi lănh xe, mà tất cả mọi trại viên trong trại đều thắc mắc về chữ “cải tiến”. Khi nghe chúng tôi mô tả h́nh dạng của chiếc xe cải tiến, tất cả đều bật cười. Kể từ lúc ấy, hai từ “cải tiến” hay “cải thiện” đều trở thành một sự diễu cợt: xe cải tiến, thức ăn cải thiện, quần áo cải tiến, vân vân. Chúng tôi dùng từ “cải thiện linh tinh” để chỉ những người gặp cái ǵ thu nhặt cái đó, và nó đă trở nên một từ rất thông dụng trong trại cải tạo.

Trại viên sẵn sàng để đi lao động vào những ngày tiếp theo. Chúng tôi đă được cho biết rằng chúng tôi được “Đảng và Nhà Nước” đưa ra đây là để có điều kiện thuận tiện cho việc lao động cải tạo. Bằng cách này hay cách khác, chúng tôi phải làm việc và làm việc cực nhọc.

Một thành ngữ tốt để thay cho “lao động cưởng bức”: “Lao động là vinh quang!” Cái thành ngữ này đă trở nên quá quen thuộc đối với mọi người trong nước kể từ ngày Cộng Sản vào. Không chỉ chúng tôi trong trại mới biết mà mọi người dân đều biết rằng “lao động là vinh quang”. Những người Cộng Sản bảo rằng thông qua quá tŕnh lao động, nhân loại đă được phát triển từ vượn người để biến thành con người, và cũng thông qua lao động dân chúng sẽ cung cấp tài sản cho xă hội. Sự phát triển của xă hội tùy thuộc vào sự lao động của nhân dân, do đó mọi người trong xă hội Xă Hội Chủ Nghĩa phải lao động cho chính ḿnh và cho xă hội.

Trong cải tạo, lao động là thước đo sự tiến bộ của mỗi trại viên, họ bảo rằng đó là việc cải tạo thông qua lao động. Tôi nghĩ mọi thứ giải thích đều nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải làm việc! Nhưng trong t́nh trạng ấy th́ chúng tôi làm ǵ khác được ngoài việc phải làm những điều mà VC bảo chúng tôi làm? Chống lại lệnh chúng là chết sớm mà thôi. Cách duy nhất là phải chấp nhận hoàn cảnh để t́m cách sinh tồn. Mỗi khi tránh được việc lao động, chúng tôi thường đùa với nhau rằng “lao động là vinh quang, nhưng ở không là huy hoàng!”

Tiếng kẽng đánh thức chúng tôi dậy như thường lệ. Sau khi điểm số trại viên, cán bộ trực trại bảo chúng tôi cho người đi nhà bếp lảnh phần ăn sáng rồi chuẩn bị đi lao động. Đó là lần đầu chúng tôi lảnh phần ăn sáng ở trại Tân Lập, một muỗng canh (gọi là cái muôi) bo bo luộc rất khó nhai v́ cái vỏ cứng của hạt bo bo. Ngoại trừ vài người thật sự bệnh và được bệnh xá cho phép nghỉ hay những người trực vệ sinh buồng, mọi người đều phải xếp hàng đi ra sân tập họp phía sau cổng trại. Đă có một hàng cọc với những bảng nhỏ đề tên đội cắm sẳn ở đó. Trại viên ngồi xổm thành hai hàng theo từng đội. Có cả hai đội của phạm nhân h́nh sự ngồi phía bên phải của băi tập họp. Họ trông bẩn thỉu và ốm yếu với quần áo bạc màu và tả tơi. Nh́n họ rồi nghĩ lại ḿnh, tôi bỗng rùng ḿnh! Bộ đồ tù này có thể chịu đựng được bao lâu, và riêng tôi th́ có thể chịu đựng được bao lâu trong hoàn cảnh này?

Một cán bộ mặc sắc phục với quân hàm thượng úy -ba sao với một gạch- tự giới thiệu là trại phó đặc trách K5 tên là Bảng sẽ có vài lời nhân buổi lao động đầu tiên của chúng tôi. Chẳng có ǵ mới! Chúng tôi, những tội phạm của Nhà Nước và Nhân dân phải cải tạo tội lỗi của chúng tôi. Đảng và Nhà Nước đưa chúng tôi đến trại này là để có điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo. Để được trở về với gia đ́nh và xă hội, chúng tôi phải đạt được cái gọi là “tiến bộ”. Có ba điểm chính trong việc cải tạo để đạt được sự tiến bộ, đó là học tập, lao động và chấp hành nội quy của trại. Trong ba điều ấy th́ lao động là điều quan trọng nhất. Chúng tôi phải cố gắng tối đa trong lao động v́ lao động là thước đo mức độ tiến bộ của mỗi người! Giống như các cán bộ khác, Bảng lập lại những ǵ mà hắn đă được nhồi nhét vào đầu.

Bảng khoảng trung tuần bốn mươi, giọng nói Nam Định với chử “l” và “n” lẫn lộn với nhau chứng tỏ nguồn gốc bần nông của hắn, một giai cấp chính của VC. Tôi đă nghe nói rằng để được gia nhập Công An của Cộng Sản th́ người nào cũng phải có ít nhất là ba đời thuộc giai cấp bần nông. Cộng Sản bảo rằng người trong giai cấp ấy không có ǵ phải mất ngoài cái quần đùi rách, khi chiến thắng th́ họ sẽ được tất cả. Quả là một lư do vững chắc để gia nhập “Cách mạng”! Tiểu tư sản trí thức và tư sản là những giai cấp không trung thành với Đảng, chỉ có bần nông và công nhân là giai cấp trung thành nhất.

Nhiều cán bộ đi vào trại sau khi Bảng chấm dứt bài diễn văn. Họ là những “cán bộ quản giáo” hay c̣n gọi là “ban quản giáo” phụ trách các đội lao động.

Cán bộ trực trại gọi từng đội đi lao động. Đầu tiên là những đội h́nh sự và rồi đến phiên chúng tôi theo thứ tự từng đội từ 1 đến 8. Khi một đội được gọi đến, đội trưởng phải đứng lên và la lớn: “tất cả đứng dậy”, “bỏ mũ nón” và rồi “đứng nghiêm”. Khi đội đă đứng yên, đội trưởng quay lại đối diện với cán bộ trực trại và báo tổng số trại viên trong đội ḿnh, số trại viên ốm bệnh, số ở trong trại với những lư do, và tổng số trại viên xuất trại đi lao động. Trại viên đi theo hàng đôi qua cổng trại với mũ nón cầm ngửa ra hai bên. Các trại viên phía bên phải cầm nón ở tay phải và bên trái cầm nón ở tay trái. Họ bảo rằng làm thế là để dễ quan sát coi có ǵ dấu trong nón hay không, nhưng tôi th́ nghĩ họ muốn trại viên phải có thái độ phục tùng. Một hàng cán bộ vũ trang đợi chúng tôi bên ngoài trại. Cán bộ quản giáo đi cùng với trại viên c̣n hai cán bộ vũ trang -c̣n gọi là cán bộ bảo vệ- đi phía sau.

Trong những ngày đầu tiên này, chúng tôi được chia ra thành tám đội với những công việc làm như sau:

- Đội 1 và 2 gọi là đội gạch có nhiệm vụ làm gạch.

- Đội 3 gọi là đội rau xanh có nhiệm vụ trồng rau.

- Đội 4 gọi là đội xây dựng có nhiệm vụ sửa chữa nhà cho trại và cơ quan.

- Đội 5, 6, 7 và 8 gọi là các đội nông nghiệp có nhiệm vụ làm trên những cánh đồng quanh trại.

Ngoài các đội của chúng tôi c̣n có các tội nhân h́nh sự làm trong những đội như “đội chăn nuôi” chuyên nuôi heo, ḅ, gà vịt, đội “lâm sản” chuyên đi lấy củi, và đội “nhà bếp” chuyên nấu trong bếp. Một số phạm nhân h́nh sự khác th́ làm trong những bộ phận lẻ gọi là “diện rộng”, đi lao động không có cán bộ đi kèm, và làm việc riêng cho các cán bộ hay cho cơ quan.

Chúng tôi im lặng bước đi trên con đường mà tôi đă đi ngày hôm qua để đến ḷ gạch. Chúng tôi thuộc đội 1, do đó đội chúng tôi là “đội gạch”. Có hai đội làm ở ḷ gạch là đội 1 chuẩn bị đất và đội 2 đóng gạch. Công việc của chúng tôi là đào đất, gánh nước từ suối lên đổ vào đất, quần trâu để nhào đất, và khiêng đất lên sân cho đội 2 đóng gạch.

Trong mùa nắng, đất sét trộn cát rất cứng. Để đào đất ấy, chúng tôi phải dùng cuốc và xà beng chứ không thể dùng xẻng. Đất được đào khu chung quanh và chuyển đến một cái hố nhỏ ở chính giữa bằng xe cải tiến. Việc nặng nhọc nhất là gánh nước từ suối lên, khoảng cách chừng năm trăm thước. Chúng tôi phải gánh đôi nước khoảng bốn mươi lít trên vai và đi trên một con đường gồ ghề. Cái lỗ để trộn đất sâu khoảng hai thước phía dưới mặt đất, chúng tôi phải làm những bậc thang để gánh nước xuống và khiêng đất lên cho đội 2. Vài trại viên đă đan những cái ky bằng tre cho hai người khiêng đất, đó là những thanh tre được đan vào nhau với hai đ̣n để cầm. Đội chúng tôi được chia làm ba tổ để thay phiên làm những việc như gánh nước, làm đất, và khiêng đất lên sân đóng. Thật là một công việc nặng nhọc nhất là dưới ánh nắng bởi v́ nếu trời mưa th́ không thể đóng gạch được.

Sau khi đất và nước đă đủ trong lỗ, hai trại viên dẫn hai con trâu vào để lùa chúng đi quanh lỗ đất ấy. Chân trâu đạp lên đất để trộn đất với nước cho đến khi đồng nhất. Nếu chỗ nào không được th́ chúng tôi phải đạp cho đất được hoàn toàn. Họ gọi công việc này là “quầng trâu”.

Đống đất đă được nhào cho đồng nhất xong th́ chúng tôi phải dùng cuốc xẻng để trộn lần cuối và đánh thành đống để chuẩn bị khiêng lên chổ đóng gạch. Công việc này được gọi là “lên quả”.

Khi vừa ra tới ḷ gạch th́ tên cán bộ quản giáo bảo tôi chẻ lạt tre cho những người khác đan ky khiêng đất. Tôi không biết làm sao nên đă chẻ tre thành thanh thay v́ thành sợi lạt. Tên cán bộ không nói ǵ với tôi mà bảo tôi đi làm đất thay v́ chẻ lạt. Vào giờ trưa, hắn tập họp đội lại và đưa tôi ra làm một thí dụ điển h́nh về một người không hề biết lao động là ǵ mà trong chế độ cũ chỉ biết ăn bám vào công sức lao động của người khác! Tối hôm ấy trong pḥng giam, chúng tôi phải họp để phê và tự phê, và rồi tôi lại được đưa ra để làm đề tài phê b́nh cho đến khi tôi phải nhận khuyết điểm. Cuối cùng th́ tôi phải nói rằng tôi không hề biết ǵ về lao động tay chân bởi v́ lúc nhỏ tôi chỉ đi học và khi lớn lên tôi chỉ làm việc trí óc chứ chưa hề làm việc tay chân. Tôi hứa sẽ cố gắng tích cực hơn trong thời gian tới để theo kịp những người khác. Kể từ hôm ấy trở đi, chúng tôi phải đi lao động từ sáng đến chiều và tối lại th́ phải ngồi họp để kiểm điểm những việc làm trong ngày cho đến khi nghe tiếng kẽng đánh báo ngủ.

Đóng gạch cũng chẳng khỏe hơn làm đất. Chúng tôi phải ngồi xổm trên sân suốt ngày dưới ánh nắng. Đất mang lên sân được chất thành những đống nhỏ, người đóng gạch phải dùng cái khung bằng gỗ đè vào đống đất để lấy đất và đập xuống sân, kéo viên gạch sắp thành hàng và lấy cái khung ra để làm viên gạch khác. Điều này tưởng chừng như dễ dàng, nhưng dưới ánh nắng và suốt ngày phải ngồi xổm, ḅ từ nơi này đến nơi khác khiến mọi người đều bị đau lưng, đau hông, và đau vai. Thêm vào đó c̣n phải làm cho đủ tiêu chuẩn mà tiêu chuẩn ấy th́ cứ tăng lên hàng ngày.

Giữa hai công việc đóng gạch và làm đất th́ tôi chọn công việc sau mặc dù có nặng hơn nhưng tôi có thể di chuyển được chứ không phải ngồi xổm suốt ngày. Đội của chúng tôi và đội 2 thay phiên nhau làm hai việc này. May mắn cho tôi là tôi chỉ làm đội gạch khoảng một tháng th́ được đổi sang đội làm mộc. Tôi không biết tôi có thể chịu đựng bao lâu nếu cứ ở đội làm gạch? Lao động quả thật là vinh quang, đặc biệt là lao động cưỡng bức! Trong trại, chúng tôi luôn luôn phải biết cái thành ngữ “tự nguyện và tự giác lao động”, nhưng nếu chúng tôi không tự nguyện th́ họ buộc chúng tôi phải lao động hoặc là xử phạt chúng tôi bằng mọi cách!

florida80
05-07-2020, 20:12
Chương 27. Tôi Làm Thợ Mộc

Làm gạch quá nặng nề đối với tôi, và đi làm ngoài đồng th́ những con đỉa bám đầy chân mỗi lần bước xuống nước khiến tôi rất kinh khiếp. V́ vậy khi trại cần ai biết làm thợ mộc để biên chế vào đội mộc, tôi t́nh nguyện ngay dù thật t́nh th́ tôi chẳng biết ǵ ngay cả việc cầm cái cưa để cưa gỗ! Tôi cũng muốn nói ở đây là cái cưa ở Việt Nam là loại cưa khung với cái khung gỗ có hai tay cầm dài khoảng năm tấc nối liền nhau bởi một thanh gỗ nhỏ dài bằng cái lưởi cưa và được căng bằng một thanh gỗ khác ở giữa. Cái cưa này rất khó giữ cho thăng bằng nếu chưa quen tay.

Tôi được chuyển ngay sang đội mới thành lập, đó là đội 10 và Uyển vẫn làm đội trưởng đội này. Ngày đầu tiên đến “nhà lô” của đội, ngay phía sau ṿng rào trại, để làm mộc, tôi được phân công để rọc gỗ thành những thanh gỗ khổ 4x10 phân. Tên cán bộ quản giáo bảo tôi đặt tấm b́a gỗ dày lên trên hai cái ghế ngựa và ngồi thẳng lên đó. Tôi phải giử lưỡi cưa bằng cả hai tay; tay mặt nắm vào một đầu ngay chỗ lưỡi cưa gắn vào khung c̣n tay trái th́ giữ đầu kia của khung cưa. Sau đó cả hai tay phải đưa đều lên xuống và mắt th́ nhắm thẳng theo đường mực để lái lưỡi cưa cắt theo đó. Điều này nghe cũng dễ, nhưng khi làm th́ rất khó v́ đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải xẻ gỗ bằng cưa. Lưỡi cưa cứ đi lượn ṿng như con rắn ḅ chứ không đi theo ư ḿnh muốn, càng lái th́ nó càng bị kẹt trong gỗ khiến tôi rất khó nhọc mới đưa lên xuống được. Chỉ một lúc sau mồ hôi đẫm ướt cả ḿnh mẫy, và hai vai tôi ê ẩm như bị ai đánh.

Tôi ráng giử b́nh tỉnh và tự nhủ rằng dù sao th́ c̣n hơn là phơi nắng và giẫm bùn suốt ngày ở chỗ làm gạch. Ở trong trại, tôi không thể tránh không làm việc được, do đó đành phải chấp nhận cái khá nhất trong số những cái xấu! Sau vài ngày, tôi có thể lái được lưỡi cưa theo ư ḿnh và công việc cũng trở nên dễ dàng hơn một ít.

Thời gian sau đó, đội chúng tôi được phân công làm nhà để gia đ́nh trại viên đến thăm nuôi. Nhà thăm nuôi này nằm ở ngả rẽ vào phân trại K5, đối diện với chuồng ḅ. Tôi lại cũng chẳng biết tí ǵ về kiến trúc, cho dù làm nhà gạch hay nhà lá. Nhưng trong đội có vài người ở trại Tây Ninh đă từng làm nhà, họ trở nên những “chuyên viên” hướng dẫn chúng tôi làm việc này.

Công việc đầu tiên của tôi là phải dùng ŕu để đẽo cây gỗ thành cột nhà. Những cây này do các phạm nhân h́nh sự trong đội lâm sản mang về. Trước hết tôi phải đẽo vuông cái cây rồi đẽo thành h́nh bát giác, sau đó dùng cái bào để bào tṛn thành cột nhà. Họ gọi là “chuông tư”, “trầm tám”, rồi “lăng cạnh”! Để làm những xà nhà th́ chỉ cần đẻo thành h́nh vuông rồi bào sơ cho có h́nh dáng.

Long và Tranh, những “chuyên viên” trong đội đặt cột và xà nhà trên mặt đất theo h́nh dạng của sườn nhà rồi vẽ những cái mộng và lỗ mộng cho chúng tôi đục, cưa và ráp lại thành h́nh.

Chúng tôi phải đào một cái ao phía sau để lấy đất đắp nền nhà. Sau ba tuần th́ sườn nhà được dựng lên, và lúc đó là lúc chúng tôi phải làm mái, làm tường, và những công việc về mộc khác.

Để làm tường bằng đất, chúng tôi phải đục những lỗ vuông nhỏ cạnh 1x3 phân trên cột và xà nhà gọi là “lỗ bua” để nhét những thanh tre vào. Những thanh tre được nối tiếp nhau và cột dính lại thành h́nh dạng trông giống như mạng lưới. Trong lúc đó th́ một toán phải đào đất, trộn rơm và nước vào rồi dùng chân trần mà đạp cho thành một chất nhầy nhầy. Chúng tôi dùng tay để trét thứ đất trộn rơm ấy vào vách để thành vách đất.

Mái nhà th́ làm bằng ba lớp tre. Những cây tre để nguyên cây gọi là “đ̣n tay” được cột bằng dây lạt song song theo đường ngang từ cây kèo này qua cây kèo khác với khoảng cách khoảng một thước. Những cây nứa nhỏ được gọi là “rui” được cột vào đ̣n tay theo chiều dọc cách nhau khoảng năm tấc từ đ̣n tay trên cùng đến đ̣n tay cuối. Cuối cùng là những thanh tre chẻ khoảng ba phân cột vào rui theo chiều song song với đ̣n tay ở khoảng cách khoảng ba tấc được gọi là “mè”.

Để lợp mái, chúng tôi dùng lá cọ non dài khoảng một thước rưỡi đến hai thước. Chúng tôi xé hai tép nhỏ ở hai bên lá cọ, gắn nó vào mạng lưới của rui và mè theo chiều ngửa lên. Sau ba lớp lá, chúng tôi phải cột một thanh tre để giử lá ở vị trí v́ vùng này thường hay có băo. Đỉnh của mái nhà là một hàng các cọc tre đâm xuyên qua và những cái lá cọ móc vào rồi đặt nằm chéo nhau.

Sườn nhà được nối với nhau bằng những mộng đuôi cá hay những cọc tre. Chỉ có cửa sổ và cửa cái là dùng đinh để đóng mà thôi! Cái nhà, hay nói đúng hơn là căn lều khoảng 8x10 thước, mà chúng tôi phải bỏ ra hai tháng trường để làm hoàn tất với công sức lao động cực nhọc của bốn mươi người chưa kể những phạm nhân h́nh sự cung cấp cây và lá. Nhưng điều mà tôi thu nhận được qua thời gian này là tôi bắt đầu có một ít kinh nghiệm về việc sử dụng cưa, đục, bào và ŕu, tất cả sẽ có ích cho tôi trong thời gian sắp tới.

Sau khi hoàn thành “nhà thăm nuôi” cho trại viên, đội chúng tôi, đội 10 được đặt tên là “đội mộc và xây dựng tạm thời” với nhiệm vụ làm và sửa chữa nhà cửa làm bằng cây và tre trong trại và khu cơ quan. Trong thời gian không có công tác xây dựng th́ chúng tôi được làm mộc ở nhà lô. Một đội khác được thành lập trong lúc đó là đội 2 chuyên làm mộc gia dụng như đóng đồ đạc bằng gỗ, xẻ gỗ cung cấp cho mộc và xây dựng.

Tôi suy nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để tránh các công việc nặng nhọc khác ở trong trại là làm sao học nghề làm mộc để được ở lại đội 10. Với một ít khéo léo và với khả năng về tính toán, tôi nhanh chóng bắt kịp nghề nghiệp này. Tôi có thể tính được mọi thứ trong căn nhà và không cần phải sắp cây gỗ xuống đất theo h́nh dạng cái khung nhà để vẽ mộng. Tôi chỉ cần cán bộ quản giáo cho biết về kích thước chung của căn nhà là có thể tính toán một cách chính xác bao nhiêu vật liệu để làm. Sáu tháng sau, tôi trở thành chuyên viên cho đội! Tôi lợi dụng việc ấy để có thể làm những điều mà tôi muốn làm theo ư ḿnh.

Hàng ngày đến nhà lô, cán bộ quản giáo nói với đội trưởng Uyển về công việc phải làm, và rồi Uyển hỏi tôi cần bao nhiêu trại viên để làm công việc ấy. Tôi thường yêu cầu số người nhiều hơn là nhu cầu để mọi người đều được thoải mái hơn trong công việc. Khi làm nhà, tôi thường bảo những phạm nhân h́nh sự trong đội lâm sản chất những thứ cần thiết theo từng loại để chúng tôi khỏi phải di chuyển quá nhiều, điều đó có thể làm chúng tôi rất mệt nhất là với t́nh trạng thiếu dinh dưỡng ở trong trại. Mọi điều mà tôi tính toán đều với mục đích là làm thế nào để tránh cho chúng tôi mất sức. Chúng tôi phải tránh sự tiêu hao năng lượng cho chúng tôi trong hoàn cảnh này để c̣n có thể sống sót!

Luôn luôn có những điều ngộ nghĩnh xảy ra trong mọi t́nh huống, ngay cả trong những t́nh cảnh bi đát nhất. Ở trại Tân Lập th́ hầu hết nhà cửa là nhà “tạm thời”, nghĩa là nhà làm bằng tre, gỗ và lá cọ. Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, và đôi lúc chính điều này đă tạo nên một cảnh ngộ trái ngược. Các cán bộ và gia đ́nh của họ cần nhà để ở, cần cḥi để nuôi heo gà vân vân, và chúng tôi lại là những người làm ra những thứ mà họ cần. Nhà tốt hay xấu là tùy thuộc vào chúng tôi! C̣n chúng tôi th́ cần cái ǵ? Tất nhiên điều mà tù cải tạo nào cũng cần là thức ăn và công việc làm nhẹ nhàng! Tôi không bao giờ quên cơ hội để đ̣i hỏi những thứ cần thiết cho cuộc sống của chúng tôi như gà, thịt, trứng, khoai ḿ, và ngay cả rau. Họ khó có thể từ chối những điều yêu cầu ấy v́ họ luôn muốn chúng tôi làm việc tốt cho họ. “Chúng tôi luôn muốn làm tốt mọi việc và làm nhanh cho các ông, nhưng như các ông thấy, chúng tôi không đủ sức. Nếu các ông có món ǵ đó để bồi dưỡng cho chúng tôi, món ǵ cũng được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm việc tốt hơn”. Đó là câu nói đầu môi của tôi mỗi lần tôi muốn hỏi xin thức ăn cho chúng tôi khi làm việc cho họ.

Có một lần chúng tôi làm một căn nhà bảy gian cho khu gia đ́nh cơ quan, khi đặt cây đ̣n tay ở nóc nhà, tôi thấy vài người mang đồ đến cúng rồi tặng cho chúng tôi đồ cúng ấy. Tôi hỏi xem họ làm ǵ vậy th́ họ cho biết cây đ̣n tay là một vật quan trọng nhất trong cái nhà, và theo sự tin tưởng của họ, họ yêu cầu chúng tôi trân trọng khi đặt đ̣n tay cho căn nhà để họ có may mắn khi sống trong nhà ấy. Chúng tôi th́ chẳng cần điều ǵ ngoài phẩm vật của họ! Kể từ đó, chúng tôi đă biết được rằng cho dù là Cộng Sản, họ cũng rất mê tín.

Một lần khác khi làm cửa nhà cho họ, chúng tôi làm cửa trước và cửa sau thẳng đường từ trước ra sau. Họ đến yêu cầu tôi cho làm chéo qua một chút. Tôi biết đó cũng là một điều mê tín, do đó tôi bảo với họ rằng đó là ư kiến của “ban kế hoạch trại”. Một lát sau họ mang đến cho chúng tôi một bao bo bo và bảo tôi làm dùm họ điều mà họ muốn. Chúng tôi chia nhau phần bo bo rồi vừa sửa lại mà vừa cười với nhau!

Sự thiếu ăn và cái đói là điểm chính yếu trong trại cải tạo. Đội chúng tôi dù được làm những việc tương đối nhẹ nhàng hơn vài đội khác nhưng lại không có được những “bồi dưỡng” như những đội nông nghiệp, do đó tôi đă phải yêu cầu cán bộ quản giáo cho trồng cái ǵ đó để trại viên trong đội có thêm phần ăn. Ông ta cho phép Niệt, một trại viên trong đội làm việc ấy. Sau vài tháng, Niệt thay luôn người phạm nhân h́nh sự và trở thành trại viên “diện rộng” làm riêng cho cán bộ quản giáo. Niệt trồng cho đội giàn bầu và vài luống rau, ngoài ra anh ta c̣n có nhiệm vụ đi kiếm thêm thức ăn cho cán bộ quản giáo. Đôi lúc anh ta mang vào pḥng cho riêng tôi một ít thức ăn mà anh ấy kiếm được. Trong cái địa ngục như trại Tân Lập, không có ǵ quan trọng hơn thức ăn, mọi loại thức ăn, bởi v́ mọi người đều đói!

Đầu năm 1978, Uyển chuyển qua làm trong ban “Thi Đua”. Ban Giám Thị đưa Yêm từ K1 qua làm đội trưởng đội 10. Yêm chưa biết ǵ về mộc và xây dựng, nhưng v́ là đội trưởng anh ta muốn nắm lấy trách nhiệm. Anh ta đưa tôi vào làm mộc ở nhà lô thay v́ làm công việc xây dựng. Đó là thời gian mà tôi có dịp để học đóng đồ gia dụng. Công việc này tương đối nhẹ hơn làm xây dựng, nhưng phải ở tại nhà lô và không có thêm được thức ăn “bồi dưỡng”. Điều này rất quan trọng cho chúng tôi.

Trong trại, chúng tôi thường làm giường, tủ chạn, bàn ghế cho cán bộ và gia đ́nh. Đôi khi họ c̣n bảo tôi làm dùm “ḥm” (rương đựng quần áo làm bằng gỗ). Việc này thường là công việc làm riêng tư, không có trong kế hoạch của trại, do đó tôi lại có cơ hội để yêu cầu họ cung cấp cho tôi món này món nọ.

Sau vài tuần lễ, Yêm không thể nào làm được việc của đội, đặc biệt là khi làm căn nhà khá lớn, do đó cán bộ quản giáo và cán bộ kế hoạch của trại bảo tôi phải trở lại làm việc như là chuyên viên về xây dựng cho đội. Tôi làm công việc này v́ tôi biết họ cần tôi trong công tác xây dựng, và đó cũng là cơ hội để tôi có thể tránh được công việc nặng nề và có cơ hội giúp các trại viên khác trong đội.

Cũng v́ điều này đă khiến có lần tôi suưt bị nguy hiểm khi ban giám thị trại có ư định chơi tṛ chơi dân chủ trong trại bằng cách cho phép trại viên bầu ban thi đua và các đội trưởng. Tôi đă cảm thấy đó là một chiến thuật của VC để loại trừ những trại viên nào được các trại viên khác có cảm t́nh.

Trong đội tôi, dưới sự chủ tŕ của cán bộ quản giáo, các trại viên đă đề cử đội trưởng Yêm, đội phó Sinh, và tôi ra để được bầu vào chức vụ đội trưởng. Sau cuộc bầu cử, tôi lại là người được một trăm phần trăm phiếu bầu của các trại viên trong đội. Một buổi họp của Ban Giám Thị với Bích, một phạm nhân h́nh sự làm trưởng ban thi đua, đă đi đến kết luận là phải chuyển tất cả những người đă được các trại viên tín nhiệm đi đến phân trại khác, trong đó có tên tôi. Uyển, Yêm và vài người nữa được chuyển đi K1, nhưng họ giữ tôi lại v́ lư do không có người thay thế để làm công việc xây dựng. Tôi ở lại đội 10 với nhiệm vụ củ là “chuyên viên về xây dựng”, và họ đưa Tống từ K1 sang làm đội trưởng đội 10.

Các trại viên đến đội 10 và đi khỏi đội, các trại viên được chuyển đến trại Tân Lập và rồi được thả ra khỏi trại; nhiều cán bộ quản giáo đến phụ trách đội 10 và chuyển đi đội khác. Tôi vẫn cứ ở đội ấy hầu hết thời gian từ đầu cho đến khi rời trại Tân Lập để đi về miền Nam. Long, Tranh, Tánh, và những trại viên trong nhóm 410 người trên chiếc tàu “Sông Hương” đă được thả ra khỏi trại từ đội 10. Vui, Nam, Giới, Tứ, và những trại viên khác được chuyển đến trại Tân Lập từ Lào Kai, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn vân vân là những trại viên cuối cùng của đội 10. Nhưng chỉ có tôi là ở đội ấy từ đầu đến cuối.

Cũng không phải tất cả mọi việc đều trôi chảy! Mặc dù chúng tôi thường làm trong nhà lô, “nắng không tới mặt, mưa chẳng tới đầu”, nhưng rồi cũng luôn luôn có những việc ngoại lệ. Trong mùa giông băo, và miền Bắc Việt Nam th́ thường có giông băo, chúng tôi phải đi sửa mái nhà trong trại và khu cơ quan trong khi các đội khác th́ được nghỉ. Mái nhà làm bằng lá cọ rất dể bị tung bay trong gió băo nên chúng tôi không bao giờ được nghỉ ngơi trong mùa này!

Thêm vào đó, chúng tôi làm việc nguy hiểm mà không có trang bị an toàn nào cả. Làm việc trên mái nhà, đặc biệt là vào mùa đông khi có mưa phùn và gió bấc, những sợi lạt tre rất bén dễ cắt đứt tay. Tôi đă té xuống đất một lần từ mái khi cột dây lạt và dây bị đứt làm mất thăng bằng. May mắn là tôi rơi trúng đống lá cọ nên chỉ mất một cái răng chứ không bị thương nặng. Nếu không có đống lá th́ không biết tôi sẽ ra sao?

Một lần khác, ba trại viên trong đội cùng tôi phải đi cắt một cây sung ở bờ suối A-Mai về làm cột nhà. Hôm ấy trời mưa nhỏ chứ chưa phải là mưa to. Sung là một loại cây có nhiều nhựa rất khó cưa ngang bằng cái cưa cá mập. Cây lại nằm ở bờ suối ngay chỗ giáp với mặt nước. Chúng tôi không thể đứng dưới nước để cưa nên chúng tôi phải đóng cái ghế ngựa vào thân cây và ngồi trên ghế để cưa cây. Mực nước càng lúc càng dâng lên cao. Có lẽ là đang mưa to ở trên nguồn. Lúc đầu th́ cây sung nằm gần bờ nhưng lần lần thấy bờ càng xa ra. Khi đă cắt xong th́ chúng tôi không c̣n làm cách nào khác hơn là bám vào thân cây để nó trôi theo ḍng nước đang chảy xiết. Một lần may mắn nữa là cây sung lại trôi tấp vào bờ; chúng tôi lôi nó lên bờ và đi về nhà lô với quần áo ướt và lạnh.

Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để quen dần với mọi thứ. Kể từ lúc bắt đầu chưa biết làm mộc là ǵ cho đến lúc có thể làm được hết mọi việc và thành một thứ chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng trong trại, tôi đă phải vượt qua biết bao nhiêu là khó khăn! Cán bộ và ban giám thị lần lần biết tôi. Đầu năm 1981, nhà lô đội 10 chuyển qua địa điểm mới, ở gần bộ chỉ huy trại và nằm cạnh vườn cam. Tôi có thể đi ra nhà lô một ḿnh mà không cần phải có cán bộ đi theo trông chừng. Đôi khi ban giám thị trại c̣n cho phép tôi được đi một ḿnh ra nhà dân để quan sát lấy ư về để làm nhà cho cơ quan. Tôi nghĩ tôi có thể nhân đó mà trốn trại được và họ chỉ có thể phát hiện khi điểm buồng vào buổi tối mà thôi. Nhưng như tôi đă nói từ trước, trại Tân Lập bao quanh bởi núi rừng và thật sự tôi không biết đi đâu khi trốn ra khỏi trại! Cũng đă có vài cuộc trốn trại nhưng chưa một ai đi được xa v́ tất cả đều bị những người dân miền núi trong vùng bắt nộp về trại để nhận phần thưởng là một ít gạo và thực phẩm. Mọi cuộc trốn trại bị thất bại đều dẫn đến cái chết bằng cách này hay cách khác sau khi bị biệt giam một thời gian dài.

Một mẫu chuyện t́nh trong đời cải tạo: Khi nhà lô mới của đội 10 dời về khu vườn cam, nó cũng nằm gần nhà giữ trẻ cho gia đ́nh cán bộ. Cô giáo nhà trẻ tên là Lan thường đến nhà lô để nhờ tôi làm dùm thước kẻ. Lúc đầu tôi không chú ư ǵ đến cô ta v́ cô ta là “cán bộ”. Nhưng lâu dần điều ấy trở thành thường xuyên, và cô ta chỉ nhờ tôi làm dùm công việc này trong khi có nhiều trại viên khác làm trong nhà lô. Mỗi lần có dịp đến để sửa chữa trong nhà trẻ, học sinh của cô ta lại cho tôi biết rằng cô giáo đang “trang điểm” trước khi ra gặp tôi! Vài người bạn trong đội và ngay cán bộ quản giáo cũng biết điều này, nhưng họ chỉ cười với tôi mỗi khi thấy cô ấy đi tới nhà lô. Lan không đẹp nhưng có nụ cười hấp dẩn và thân h́nh cân đối, có lẽ v́ cô ấy lao động từ bé. Sự quan hệ của chúng tôi dần dần trở nên gần hơn cho đến khi tôi chuyển về miền Nam đầu năm 1982. Tôi không biết điều ǵ sẽ xảy ra nếu tôi không chuyển khỏi trại Tân Lập?

Không chỉ ḿnh tôi mà một số trại viên khác cũng bắt đầu có những sự quan hệ với các cán bộ nữ. Bên cạnh đó th́ sự quan hệ giữa trại viên, nhất là những người trong đội lâm sản với dân quanh vùng càng lúc càng nhiều hơn. Thật là một t́nh trạng đảo ngược! Tôi có thể nói rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, nhưng mà quan điểm của con người th́ đă bắt đầu thay đổi!

florida80
05-07-2020, 20:13
Chương 28. Dưới Hai Tầng Áp Bức

Trại Tân Lập không phải là một trại mới xây như tên gọi của nó. Tân Lập là một mẫu mực của một trại cải tạo của Việt Cộng bởi v́ nó đă được thành lập từ thời 1954 sau khi Cộng Sản thôn tính miền Bắc Việt Nam. Nó đă từng là trại giam giữ các nhân viên của thời Pháp. Trong phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” 1955 ở miền Bắc, nó lại được dùng để tập trung các văn thi sĩ có những tư tưởng chống Cộng. Tân Lập cũng đă từng là nơi để nhốt những địa chủ trong giai đoạn “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc sau 1954. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các tù binh Mỹ cũng đă bị giam ở đó. Trước khi chúng tôi đến trại th́ Tân Lập đă là trại cải tạo các thiếu nhi phạm pháp và các trẻ bụi đời. Với một lịch sử như vậy, Tân Lập là một trại cải tạo tổ chức rất hoàn hảo.

Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại Tân Lập gồm hai thành phần: Các đơn vị Công An VC quản lư trại và các trại viên.

Các sĩ quan công an VC được chia làm hai bộ phận, “Ban Giám Thị” và “Hội Đồng Cán Bộ”. Ban Giám Thị hay Ban Chỉ Huy trại gồm những Công An trông coi các việc điều hành chung trong trại như Trưởng trại, các trại phó đặc trách mỗi K, các trại phó trông coi các ban ngành như kế hoạch, giáo dục, chấp pháp, và an ninh. Hội đồng cán bộ bao gồm hai bộ phận chính, đó là các cán bộ quản giáo trông coi trại viên trong mỗi đội và các cán bộ vũ trang hay cán bộ “bảo vệ” có nhiệm vụ canh gác trại và quan sát trại viên lao động bên ngoài trại.

Trại viên trong trại được chia thành từng đội và tổ. Mỗi đội gồm khoảng từ ba mươi đến bốn mươi trại viên với một trại viên được sự tín nhiệm của ban giám thị hay cán bộ quản giáo làm đội trưởng. Đội được chia thành ba hay bốn tổ tùy theo công việc của từng đội. Mỗi tổ có khoảng mười trại viên và có một tổ trưởng trông coi công việc lao động do đội trưởng hay cán bộ quản giáo giao phó cho tổ ấy.

Một tổ chức đặc biệt của trại Tân Lập là cái gọi là “Ban Thi Đua” gồm có “Thường Trực Thi Đua” và “Hội Đồng Tự Quản” bao gồm các đội trưởng. Đó là những cái tai và mắt của Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ.

Khi chúng tôi vừa đến trại Tân Lập th́ cái gọi là “Thường Trực Thi Đua” nằm trong tay của các tội nhân h́nh sự, với Bích, một tên “mắt lé răng hô”, và Khôi nắm giữ mọi sinh hoạt trong trại. Chúng rất có thế lực! Có lần tôi được gọi lên văn pḥng của chúng để kẻ khẩu hiệu, tôi thấy có một cán bộ kế hoạch của trại vào để hỏi vài trại viên đi theo làm công việc ǵ đó. Bích đang nằm để một phạm nhân xoa bóp trong pḥng riêng phía bên trong văn pḥng của thường trực thi đua; hắn ta la lớn lên rằng “bảo ông ta đợi tôi, tôi đang bận!” Tôi không hiểu hắn ta là loại tù ǵ? Nếu là trại viên th́ chắc đă bị phạt nặng lắm rồi!

C̣n Khôi th́ hàng mỗi buổi sáng ngồi ở bệnh xá để cho phép trại viên được nghỉ bệnh trong trại hay không. Các trại viên nào muốn khỏi đi lao động th́ phải có cái ǵ đó đút lót cho hắn!

Trong khi trại viên chỉ có một chén nhỏ bo bo th́ chúng có đầy dẫy thức ăn; trong khi trại viên bị nhốt trong pḥng giam th́ chúng có riêng pḥng ngủ và có riêng những người phục dịch để giặt giũ và ủi áo quần! Chúng dường như là những ông vua ở trong trại. Không ai biết về tội trạng của chúng và án tù mà chúng bị xử. Tôi nghe vài phạm nhân h́nh sự bảo rằng Bích đă từng là một cán bộ kinh tài làm trong bộ tài chánh ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Hắn ta ăn cắp tiền của bộ và bị xử hai mươi năm. Khôi th́ là một sĩ quan ở địa phương có tội giết vợ nên bị tù chung thân. Ban Giám Thị trại rất tin tưởng bọn chúng nên trao cho bọn chúng hết mọi quyền hành trong trại.

Vào năm 1978, vài trại viên trong nhóm “Chế độ cũ của miền Nam” gia nhập vào “Thường Trực Thi Đua”. Khôi được dời đi K1, nhưng Bích th́ vẫn là trưởng ban thi đua cho đến khi được tha ra khỏi trại vào năm 1981.

Tôi không muốn phê b́nh hay kết án các hành động của Ban Thi Đua trong nhóm của các trại viên đến từ miền Nam. Tôi chỉ muốn kể lại ở đây những ǵ đă xảy ra ở trại Tân Lập. Đối với những ai đă ở trại Tân Lập th́ tôi nghĩ họ đă biết quá nhiều về các Thường Trực Thi Đua này. C̣n đối với những người khác th́ tôi nghĩ chắc là khó có thể tin được những việc làm của họ là sự thật. Đôi khi chính tôi c̣n phải tự hỏi rằng những người ấy là công an của VC hay là tù cải tạo?

Uyển, B́nh, Tú, Diêu vân vân là những “thường trực thi đua” được điều khiển bởi Bích và hành động cũng giống như Bích. Trại viên trong trại bị áp bức bởi hai bộ phận: Các Cán Bộ và các Thi Đua. Điều nguy hiểm của Cộng Sản là chúng dùng thủ đoạn “ném đá dấu tay”, dùng Thi Đua như một công cụ của chúng để điều hành trại. Các cán bộ th́ luôn miệng nói rằng “đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước” là không đánh đập hay hành hạ trại viên để trả thù, và nếu có những hành động xấu nào đó xảy ra th́ đó là hành động của từng cá nhân chứ không phải là chính sách của Đảng và Nhà Nước. Những điều mà các Thi Đua làm đó là do ư của họ chứ không phải là do Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ!

Nhiều trại viên đă không thù hận các VC mà lại thù hận những thi đua, và họ đă quên rằng chính các thi đua là những người thi hành những chỉ thị của Ban Giám Thị trại.

Các Thường Trực Thi Đua đứng bên ngoài pḥng giam để quan sát, nghe lén, và phê b́nh các buổi họp của trại viên.

Các Thường Trực Thi Đua tổ chức riêng cho ḿnh những hệ thống ăn-ten gồm những trại viên làm tai mắt cho chúng.

Các Thường Trực Thi Đua gọi những trại viên vi phạm nội quy của trại lên văn pḥng và đánh đập các trại viên ấy.

Các Thường Trực Thi Đua bắt buộc các trại viên bị bệnh phải đi lao động.

Rất nhiều hành động của Thường Trực Thi Đua đă tạo nên những căm thù trong trại viên.

Cái chiến thuật này của Cộng Sản đă rất thành công trong trại cải tạo, đặc biệt là ở trại Tân Lập. Trại viên sợ hăi các thường trực thi đua như Bích, Uyển, B́nh, Tú, Diêu, vân vân, hơn cả những cán bộ trong ban giám thị như Thùy, Bảng, hay Trung.

florida80
05-07-2020, 20:13
Chương 29. Quay Đầu Về Núi!

Mùa Đông năm 1977, đó là mùa Đông đầu tiên mà chúng tôi phải chịu ở miền Bắc Việt Nam. Thời tiết rất lạnh, nhất là đối với chúng tôi, những trại viên bị ốm đói, không đủ quần áo che thân, và ngủ không có chăn mền trong những pḥng giam mà cửa sổ luôn luôn được mở rộng để dễ kiểm tra bên trong. Mưa phùn và gió bấc là những điều mà trước kia chúng tôi chỉ được đọc trong các tiểu thuyết viết về sự đau khổ của những người nghèo ở miền Bắc. Giờ đây chúng tôi phải sống với những thứ đó trong một t́nh trạng c̣n tồi tệ hơn cả những người nghèo, trong cái địa ngục của thế gian!

Lưu Đ́nh Việp, nguyên chánh nhất của ṭa thượng thẩm Sài G̣n đă bị bệnh tiểu đường. Ông ta làm trong đội “rau xanh”. Một hôm nọ ông ta bị con đỉa cắn vào chân; máu không cầm được mà lại không thể ở trong trại để nghỉ ngơi. Hàng ngày ông phải gánh những gánh gọi là “phân tươi” để tưới rau. Phân tươi c̣n gọi là “phân bắc” là phân lấy từ nhà cầu của trại viên trộn với nước suối. Vết thương của ông ta bị làm độc và không có thuốc men ǵ nên ông bị chết sau vài tuần lễ! Ông ta là người trại viên đầu tiên chết ở trại cải tạo Tân Lập.

Sau đó th́ trại viên thay phiên nhau chết từng người một. Vài trại viên đă ngă ra chết khi đang hút thuốc lào; tay của họ c̣n nắm cái điếu. Vài người chết trong lúc lao động. Có người th́ chết trong lúc đang ngủ.

Lúc ấy tôi đang làm trong đội 10, đội “mộc”. Tôi phải đóng quan tài gần như hàng ngày, và những tội nhân h́nh sự trong “đội lâm sản” th́ mang người chết đi chôn.

Hôm ấy là một đêm mùa Đông vào tháng chạp năm 1977. Chúng tôi đang ngồi họp sau bửa ăn chiều trong pḥng giam khi đă bị nhốt vào pḥng th́ nghe tiếng lanh canh mở khóa pḥng giam làm gián đoạn buổi họp của chúng tôi. Cán bộ quản giáo của đội 10 vào và bảo Uyển, đội trưởng đội 10 cho năm người đi với ông ta. Lúc đó vào khoảng chín giờ tối. Hôm ấy là phiên trực của tôi do đó tôi đi cùng bốn trại viên khác trong đội để đến nhà lô của đội đóng một cái quan tài chôn một trại viên vừa chết cách đó khoảng một tiếng đồng hồ. Điều này rất là bất thường v́ chúng tôi vẫn thường làm việc này trong giờ lao động mà thôi.

Đóng một cái quan tài! Nói th́ dễ hơn làm v́ chúng tôi không có sẵn gỗ ván theo kích thước. Chúng tôi phải cưa gỗ bằng cưa tay để có được theo đúng kích thước, phải bào cho nhẵn và rồi lại phải rong cạnh cho thẳng để có thể ghép vào nhau được. Tiếp theo đó th́ chúng tôi đóng thành một cái quan tài h́nh hộp vuông dài hai thước với các cạnh năm và sáu tấc có sẵn cái nắp để đóng đinh vào. Chiếc quan tài làm xong vào khoảng nửa đêm; chúng tôi khiêng nó vào bệnh xá để đặt tử thi và đồ đạc của anh ta vào đó.

Với hai sợi dây cột vào hai đầu của quan tài, chúng tôi luồn một thanh đ̣n tre ngang qua cho dễ khiêng bằng vai. Một người trong chúng tôi bưng một cái mâm gồm một chén cơm, vài trái chuối, vài cây nhang, và hai cây đèn cầy. Một người khác th́ cầm cây đuốc để soi đường v́ lúc ấy trời rất tối. Một người nữa th́ cầm mấy cái xẻng, và hai người c̣n lại th́ khiêng quan tài. Cán bộ quản giáo đi phía trước c̣n hai cán bộ vũ trang th́ đi phía sau, chúng tôi đi trên một con đường đất sét dốc ngược về phía K4 của trại. Cái nghĩa trang để chôn trại viên bị chết nằm trên đỉnh của một ngọn đồi trước dùng để trồng cây trà, nằm cách K5 khoảng mười cây số.

Dưới ánh đuốc lung linh, những ngôi mộ đất nhỏ nằm không theo thứ tự trông giống như những luống cày dở dang. Bạn bè của chúng tôi đang nằm đó! Nhưng ít ra th́ thân xác và linh hồn của họ không c̣n bị hành hạ nữa, và gia đ́nh họ cũng không c̣n phải chờ đợi họ một cách vô vọng nữa!

Thọ, một trại viên trong đội văn nghệ đă viết một bài ca có tựa đề là “Quay đầu về núi”.

“Rồi một ngày mai anh chết đi, em không c̣n phải đợi phải mong. Và rồi một ngày mai anh chết đi, thân xác anh quay đầu về núi, trong mộ phần không chút khói hương.... Xin em trồng giữa mộ anh một loài hoa nhỏ dại không tên.”

Cái huyệt hố đă được các phạm nhân h́nh sự đào sẵn. Chúng tôi đặt quan tài gần bên cạnh hố, đốt mấy cây nhang và hai cây đèn cầy, đặt cơm, muối, và mấy trái chuối lên mâm. Tôi khấn thầm cho anh ta được b́nh an nơi thiên đàng, và rồi chúng tôi tḥng quan tài xuống dưới huyệt, lấp đất lại và trở về trại.

Trời đă bắt đầu hừng đông; chúng tôi được phát mỗi người một chén cơm và ít muối để bồi dưỡng cho việc làm này và được cho phép nghỉ trong trại hôm ấy, không phải đi lao động. Đó là lần đầu tiên tôi đi chôn một người bạn tù, tôi không nhớ được tên anh ta. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng v́ sau đó chúng tôi phải thay phiên nhau đi hầu như hàng đêm!

Đầu tiên, chúng tôi đóng quan tài khi có người chết; sau đó chúng tôi đóng sẵn để chờ người chết. Trại viên chết quá nhiều, chết v́ đói, v́ bệnh không có thuốc, v́ kiệt sức. Chúng tôi không c̣n gỗ để đóng quan tài nữa, do đó chúng tôi phải dùng một cái quan tài cho nhiều người chết. Chúng tôi đặt người chết và đồ đạc của họ quấn trong chiếc chiếu vào trong quan tài, mang đến mộ phần của họ, chôn tất cả xuống mộ và mang chiếc quan tài trống trở về cho người chết khác!

Đỉnh đồi sau đó đă đầy, chúng tôi phải dời qua một đỉnh đồi khác để lập một nghĩa trang mới. Trại Tân Lập nằm trong một thung lũng bao quanh bởi núi, do đó tất cả các người chết đều được quay đầu về núi cho dù có chôn họ theo hướng nào đi nữa!

florida80
05-07-2020, 20:14
Chương 30. Đói!

Đó có lẽ là điều chính yếu trong tất cả các trại cải tạo, và ở trại Tân Lập th́ đó lại là một vấn đề quan trọng giữa cái sống và cái chết. Rất khó có thể diễn tả được cái đói trong trại cải tạo bởi v́ nó khác hơn mọi cái đói khác. Người ta đói v́ không có ǵ ăn. Trại viên th́ đói mặc dù vẫn có ăn ngày ba bữa!

Ngày đầu tiên đến trại Tân Lập, chúng tôi được một bữa ăn thịnh soạn gồm cơm, thịt trâu và thịt heo. Vài ngày sau th́ chúng tôi vẫn có cơm độn với một ít bo bo với một ít canh bí đỏ. Nhưng rồi th́ bo bo được lần lần thay cho gạo cho đến khi chúng tôi chỉ được chín mươi phần trăm bo bo với một chút cơm và đôi khi không có một tí cơm nào nữa hết.

Cao lương hay bo bo là một loại thực phẩm gia súc được viện trợ từ Ấn Độ. Hột bo bo lớn khoảng một phần tư hạt bắp với cái vỏ cứng và dầy hơn hạt bắp. Bo bo chưa xay vỏ rất khó nấu chín, và cái vỏ th́ cũng rất khó lột ra ngay cả nấu thật lâu đi nữa!

Đầu tiên th́ chúng tôi nhai bo bo giống như ăn cơm, nhưng rồi chúng tôi khám phá ra rằng bo bo bị tiêu hóa ra ngoài nguyên cả hột. Chúng tôi phải nhai kỷ hơn, nhưng mà cái vỏ cứng của nó khiến răng và hàm chúng tôi đau chịu không nỗi. Chúng tôi lại phải giă nó ra, và vài người c̣n nấu lại trước khi ăn nữa.

Cái đói đă tạo nên nhiều hành động rất là bi hài, đặc biệt là khi chia phần ăn. Khi đi lấy bo bo ở nhà bếp về cho đội th́ phải có ít nhất là hai trại viên đi cùng. Một người để mang bo bo c̣n người kia th́ đi theo để kiểm soát v́ mọi người đều nghi rằng bo bo bị cắt bớt trên đường từ bếp về đến đội. Để chia phần ăn, các trại viên thường dùng thành ngữ “công bằng và chính xác!” Nhưng rồi ai cũng nghĩ rằng phần của ḿnh ít hơn của người khác. Trại viên không tin tưởng vào những cái chén hay cái muôi (muỗng canh) nữa, do đó vài người đă chế ra những cái cân làm bằng thanh tre với một ḥn đá cột ở một đầu và cái đĩa cột ở đầu kia để chia phần ăn. Cũng chưa đủ, có người c̣n đề nghị đếm số theo một thứ tự nào đó hay bắt số theo một quy ước nào đó rồi người đầu tiên lấy phần ăn cho dù đó không phải là cái chén của ḿnh. Thật là một bi hài kịch! Một tục ngữ Việt Nam nói rằng: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Điều này trông rất rơ ràng trong trại cải tạo.

Bữa ăn của trại viên thường là một chén nhỏ bo bo hay một thứ ǵ đó xem như tương đương với cơm, và một chén canh rau. Bát canh rau này thường là nước muối có một vài cọng rau như lá xanh của bắp cải, lá của su hào, lá cải củ, hay rau muống, tùy theo từng mùa. Cái gọi là “những thứ tương đương với cơm” là những cái mà trại có như bo bo, khoai ḿ, khoai lang, bắp, và đôi khi bánh bột ḿ.

Khoai ḿ hay sắn là thường xuyên nhất v́ đó là sản phẩm chính của tỉnh Vĩnh Phú. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên là “bạch sâm”! Điều tệ hại là chúng tôi ít khi được ăn khoai ḿ tươi mà thường là khoai ḿ khô: Sắn lát hay sắn duôi! Sắn lát (chúng tôi gọi là nút chai) hay sắn duôi (cắt thành sợi) được cắt từ nguyên củ khoai ḿ kể cả vỏ và tim, được phơi nắng (và phơi cả mưa), và được trữ lâu ngày trong nhà kho, do đó chúng thường rất dai và mốc. Sau khi được nấu lên, sắn lát chỉ chín ở lớp ngoài c̣n bên trong th́ vẫn c̣n sống, c̣n sắn duôi th́ biến thành một chất cháo nhầy nhụa.

Khoai ḿ, khoai lang, và bắp là những thứ nông sản mà dân địa phương thường nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Dân chúng trong chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa không nộp thuế bằng tiền, đặc biệt là thuế nông nghiệp; họ đóng bằng những nông phẩm của họ để thay vào đó. Sau vụ mùa, chúng tôi thường thấy những người dân địa phương sống vùng quanh trại gánh sắn duôi, sắn lát, khoai lang, và bắp vào trại để nộp thay v́ nộp cho chính quyền địa phương.

Dân chúng trong vùng rất nghèo, họ là những người dân sơn cước như người Tày, Mường, H”Mông, hay những người dân sống trong xóm đạo (Công giáo) bị chuyển từ những thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định về đây sau năm 1954 để xây dựng “khu tinh tế mới”. Để thực hiện chính sách đàn áp tôn giáo đặc biệt là Công giáo, và để tịch thu tài sản của những người giàu có và những gia đ́nh của những người làm cho chế độ cũ, Cộng Sản đă thiết lập những cái gọi là “khu kinh tế mới” ở những vùng xa xôi hẻo lánh và bắt những người dân này đến để khai phá. Vài địa danh như Bến Ngọc, A-Mai, và Dốc Trinh là tên của những người đầu tiên đến khu này. Ngọc là tên của một ông cả trong làng người đă lập ra cái bến, A-Mai là người chết đầu tiên trong ḍng suối, và Trinh là tên một cô gái vẫn c̣n sống, người đă bị VC hiếp dâm và vẫn thường đi lang thang trên đầu dốc gần trại.

Dân chúng sống quanh trại rất nghèo đến nỗi không đủ áo quần để mặc; họ trao đổi mọi thứ có được để lấy cả mấy bộ đồ tù! Vài trại viên phải đưa áo quần trại cho các phạm nhân h́nh sự nhờ đổi dùm thức ăn mặc dù họ biết chắc rằng những phạm nhân h́nh sự này sẽ cắt xén rất nhiều của họ. Trong t́nh trạng đói kém th́ có được một ít c̣n hơn là không có ǵ cả! Quần áo rách c̣n có thể vá lại được chứ cái đói th́ không thể trị được. Một bộ áo quần đổi lấy một kư bo bo, ba kí lô sắn, hay nửa kư lô gạo, sau một thời gian ngắn những trại viên mới đến c̣n tả tơi hơn những phạm nhân h́nh sự.

Theo kỷ luật của trại, trại viên không được phép mua bán đổi chác bất cứ vật ǵ. Đôi khi các cán bộ lại đứng ra làm trung gian để kiếm lời; họ bảo rằng làm như thế th́ đôi bên đều có lợi. Các phạm nhân h́nh sự trong đội lâm sản và ở diện rộng là những người thu lợi nhiều nhất trong dịch vụ này.

Nhiều sự vi phạm kỷ luật của trại bắt nguồn từ cái đói mà ra đă bị nâng lên như là những vi phạm do từ quan điểm của trại viên. Một trại viên chỉ nhặt quả bí đỏ để ăn v́ quá đói đă bị xử phạt rất nặng v́ đă phá hoại tài sản của trại, tài sản của Đảng và Nhà Nước, và tài sản của Xă Hội Chủ Nghĩa! Nhiều trại viên đă bị chết trong các nhà biệt giam chỉ v́ vài cọng rau mà họ thu nhặt lúc làm lao động trên cánh đồng.

Đôi khi chúng tôi cũng được trại phát cho một ít đường, chỉ một ít khoảng độ một trăm gram cho mỗi trại viên. Những hạt đường ấy dường như thấm sâu vào từng tế bào vị giác trên đầu lưỡi của tôi. Vài trại viên c̣n ngồi đếm từng hạt đường mà anh ta bỏ vào miệng. Không chỉ đường mà thôi, muối cũng rất hiếm trong trại. Tôi vẫn luôn nhớ một lần vào năm 1978, chúng tôi đang đắp nền cho một căn nhà của khu gia đ́nh cán bộ nằm trên một khoảng đất trồng khoai lang. Chúng tôi nh́n một cách thèm thuồng những củ khoai thu nhặt cho các cán bộ. Tôi cố hỏi xin cán bộ quản giáo các lá khoai lang để “bồi dưởng” cho đội. Chúng tôi không có muối để ăn với lá khoai lang luộc, và chúng tôi cũng không được phép mang bất cứ vật ǵ vào trại. Chúng tôi đành phải ăn những lá khoai nhạt phèo đó để lấp cho đầy cái dạ dày đang trống rỗng của chúng tôi vậy!

Chung quanh trại cũng không c̣n cái ǵ có thể thu nhặt để ăn được. Qua thời gian, rau dại đă không c̣n mọc được, cào cào, dế, ếch nhái, và ngay cả chuột cũng không thể sinh tồn được v́ chúng đă bị tiêu diệt bởi nhiều thế hệ tù. Ḍng suối A-Mai th́ không có một con cá hay cả một con ốc! Dân chúng nghèo khổ trong vùng đă thu nhặt hết những thứ ǵ ăn được. Có lẽ cá, ốc, và thú vật trong vùng đều đă tuyệt chủng hết rồi!

Chúng tôi chỉ dựa vào tiêu chuẩn của trại là mười lăm kí lô của những thứ tương đương với gạo trong mỗi tháng cho mỗi trại viên.

Khoai ḿ, đặc biệt là sắn lát và sắn duôi không có một chút dinh dưỡng nào cả; nó chỉ giúp cái dạ dày cảm thấy đầy một chút mà thôi. Nhưng ngay cả chúng cũng không đủ để lấp được cái dạ dày vốn đă trống rỗng của chúng tôi nữa! Sau thời gian dài ăn khoai ḿ, thân h́nh chúng tôi trở nên c̣m cơi trong khi mặt th́ trông to ra! Đầu tiên chúng tôi cảm thấy nằng nặng ở hai g̣ má, và rồi th́ hai quai càm sưng lên. Chúng tôi nh́n nhau ngạc nhiên. Có phải chúng tôi mập ra không? Khuôn mặt chúng tôi trở nên to nhưng lại xanh xao! Chất độc của acid cyanhydric trong vỏ của khoai ḿ đă tích trử trong tuyến dưới hàm khiến chúng tôi giống như bị bệnh quay bị. Khi thức dậy mỗi buổi sáng, ghèn dán kín đôi mắt tôi; cổ họng tôi th́ khô khốc! Căn pḥng dường như quay cuồng quanh tôi khi tôi đặt chân lên mặt đất.

Khoai lang, gọi là “hoàng sâm” th́ làm cho miệng tôi đắng nghét mỗi khi thức dậy, và nó khiến chúng tôi đói hơn là ăn khoai ḿ v́ số lượng của nó quá ít! Bắp, bo bo, và bánh bột ḿ th́ đỡ hơn một chút, nhưng lại không có thường xuyên như khoai ḿ. Bắp th́ là loại cho gia súc ăn, không phải là loại bắp ngọt, được phơi khô rất cứng và nấu chưa được mềm ra. Bánh bột ḿ là loại bột do Liên Xô viện trợ được nhào và nặn rồi luộc thành những cái bánh tṛn khoảng một tấc đường kính và dầy khoảng một phân.

Tôi đă cố gắng tập ăn ít ngay từ trại đầu tiên, nhưng cái phần ăn này cũng vẫn thiếu đối với tôi. Trong khi chia phần, tôi cố lảng tránh ra xa, nhưng rồi tôi vẫn c̣n quan sát từ đàng xa và đôi khi vẫn cảm giác là phần của ḿnh ít hơn của người khác. Tôi tự ghét ḿnh v́ điều này, nhưng vẫn không thể tự kềm chế được ḿnh.

Mỗi trại viên có cách ăn khác nhau. Có người th́ ăn ngay sau khi chia phần; người khác th́ để lại cho đến khi vào chổ ngủ mới ăn v́ họ không muốn ngủ trong cơn đói! Có người th́ ăn chậm chạp như không muốn bữa ăn chấm dứt; người khác th́ ăn vội vă như quá đói và sợ phần ăn của ḿnh bị mất đi. Vài người th́ chia phần ăn ra làm những phần nhỏ và ăn mỗi lần một chút dường như họ có nhiều phần ăn vậy; người khác th́ ăn ngay một lúc nhưng lại nhai rất kỹ như muốn phần ăn của ḿnh được hấp thu một cách trọn vẹn.

Cái thói quen xấu của tôi là tôi thường hay đổ nước vào chén sau khi ăn xong rồi uống luôn phần nước ấy như muốn không bỏ sót cái ǵ trong chén sau khi ăn xong! Khi Uyển c̣n là đội trưởng của đội, tôi thường ngồi ăn chung với anh ta; chúng tôi vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bữa ăn! Sau khi Uyển chuyển qua làm thi đua, tôi không mang phần ăn vào pḥng như trước nữa mà ăn ngay sau khi được chia ra, xong rồi rửa chén bát và đặt chúng ngay trên bàn để đợi bửa ăn tiếp theo.

Đầu tiên th́ chúng tôi có những pḥng ăn gần cổng khu A, nhưng không ai ăn uống trong đó. Chúng chỉ được dùng để làm nơi đặt đồ lấy nước uống và để treo áo quần đi lao động. Vào năm 1980, sau khi những trại viên ở những trại khác được chuyển đến th́ những pḥng ăn ấy trở thành pḥng dành cho các cán bộ quản giáo và ban thi đua. Chúng tôi dựng những chiếc lều tranh trong sân ở gần pḥng giam với những chiếc bàn và kệ bằng tre để chứa đồ đạc của chúng tôi v́ lúc đó chúng tôi quá đông.

Tôi không biết làm thế nào để mô tả được cái đói trong thời gian này. Nó có nghĩa là chúng tôi ăn mỗi ngày ba bữa mà vẫn đói, không thấy cái ǵ trong dạ dày cả. Khi những trại viên chuyển đến trại Tân Lập từ Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, vân vân, lúc miền Bắc bị Trung Cộng tấn công, họ trông thấy chúng tôi mà đâm ra sợ hăi! Mặc dù chúng tôi ra miền Bắc sau họ, nhưng chúng tôi trông gầy ốm và xanh xao hơn họ nhiều. Chúng tôi thường so sánh sự khác nhau của những trại cải tạo do Công An quản lư và do Bộ Đội quản lư qua sự ốm đói của các trại viên.

Cái đói và sự thiếu ăn đôi khi khiến vị giác chúng tôi trở nên sai lệch. Hầu hết trại viên trong t́nh trạng này đều biết rằng họ cảm thấy ngọt ngào ngay cả khi bỏ một hạt muối vào miệng. Khi được hỏi anh sẽ ước muốn điều ǵ khi được thả ra th́ Chưởng, một trại viên trong đội tôi nói rằng anh ta chỉ muốn một rổ đầy khoai ḿ để ăn cho đă đời trong khi ngồi trên xe lửa về miền Nam. Nhưng rồi anh ta cũng không thực hiện được ước mơ của ḿnh bởi v́ anh ta đă chết sau đó mấy tháng! Chúng tôi thường đùa rằng nếu cho chúng tôi được chọn lựa giữa một bửa ăn ngon lành và một cô gái đẹp th́ chúng tôi sẽ chọn bửa ăn. Một bửa ăn ngon có thể giúp chúng tôi sống sót được; ngoài ra chúng tôi làm ǵ được với một cô gái đẹp trong t́nh trạng của chúng tôi như thế?

Mỗi lần có được bửa ăn “tươi”, một chút thịt heo nấu với nước muối, mọi người trong chúng tôi đều muốn có được một ít mỡ thay v́ thịt nạc. Sự thiếu dinh dưỡng đă tàn phá mọi thứ dự trử trong cơ thể khiến cho da chúng tôi trở nên mốc thếch và nhăn nheo. Da trâu cũng trở nên một loại thực phẩm cao cấp, ngay cả loại da đă bịt trống cũng đă bị đánh cắp để ăn. Khi đào khoai lang ngoài đồng, nhiều trại viên đă ăn sống khoai mà không lột vỏ cũng không rửa sạch. Vài bệnh trạng như kiết lỵ và tiêu chảy do sự ăn uống thiếu vệ sinh mà ra đă giết chết rất nhiều trại viên vốn yếu ớt sẵn rồi. Một trại viên làm ở ḷ rèn nướng một con cóc nhỏ rồi ăn cả con đă ngă ra chết ngay tại chổ v́ gan cóc bị nhiểm độc.

Mỗi đêm, cái đói khiến tôi rất khó ngủ. Chiếc loa phóng thanh nhỏ treo ở cuối pḥng lại vang lên lời ca của một ca sĩ nỗi tiếng của VC, Ái Vân, con gái của nữ nghệ sĩ nhân dân Ái Liên. “Cuộc đời vẫn đẹp sao, t́nh yêu vẫn đẹp sao, dù đạn bom man rợ thét gào, dù thân thể triền miên mang đầy thương tích....” Bài ca được quảng cáo là đă được đoạt huy chương vàng tại đại hội thanh niên toàn thế giới (chính xác là thế giới Cộng Sản) ở Đông Đức. Tôi rất bực ḿnh nhưng không biết làm ǵ khác hơn là nhét lỗ tai lại và cố vỗ giấc ngủ. Tôi muốn la to lên rằng “cuộc đời này rất vô nghĩa, t́nh yêu cũng rất vô nghĩa khi mà cái dạ dày của tôi đang trống rỗng và tôi đang sống trong cái địa ngục của thế gian này!”

Dùng thực phẩm như là một con mồi và chiếc gậy là một thủ đoạn của VC. Chúng bảo rằng ai làm lao động tốt sẽ được ăn phần ăn đặc biệt và ai lười biếng th́ bị ăn phần ít hơn. Chúng chia ra làm ba loại tiêu chuẩn ăn: 15 kí lô lương thực hàng tháng cho những trại viên b́nh thường, 18 kí lô cho những trại viên tiên tiến, và 13 kí lô cho những trại viên lười biếng. Điều này đôi khi cũng làm vài trại viên bị sa bẫy! Trong lúc đói ai mà không muốn có được nhiều hơn, do đó có người đă cố làm lao động để được xuất ăn đặc biệt. Họ đă quên rằng làm như thế th́ họ sẽ mất rất nhiều năng lượng mà không thể bù đắp được bởi vài kí lô thực phẫm hàng tháng! Những người to xác và những người ăn xuất ăn đặc biệt lại là những người bị suy sụp sớm nhất.