PDA

View Full Version : Bến Ngọc


florida80
05-07-2020, 20:20
Ḍng suối A-Mai, nguồn cung cấp nước cho trại và cho cả nhân dân sống chung quanh là một trong những con suối đổ vào con sông nhỏ, một nhánh của sông Hồng. Suối A-Mai thường chảy rất siết nên thuyền bè không thể di chuyển được. Các nguồn cung cấp cho trại được chuyển đến bằng thuyền bè th́ phải cập vào một cái bến băi tên là “Bến Ngọc”, cách K5 khoảng mười lăm cây số.

Dân chúng địa phương kể lại rằng trước đây có một ông điền chủ trong vùng tên là Ngọc đă làm ra cái bến ấy để làm nơi đổi chác những sản phẩm của ông ta với người khác. Khi Cộng Sản chiếm miền Bắc, gia đ́nh ông ta bị giết trong đợt đấu tố địa chủ của giai đoạn cải cách ruộng đất năm 1955. Cái bến đă bị bỏ hoang. Từ đó dân chúng dùng tên ông ta để đặt cho bến ấy.

Thật ra th́ không có ǵ ở Bến Ngọc ngoại trừ một cái băi cát dài khoảng trên một cây số, rộng khoảng sáu trăm thước về mùa khô và khoảng mười thước về mùa nước lớn. Dân chúng thường dùng bến ấy để cập những mảng tre bương mà họ chặt ở khu rừng trên thượng nguồn rồi chống theo ḍng suối để đến bến bán cho người khác.

Lương thực, than đá, lá cọ, và xăng dầu cung cấp cho trại được chuyển bằng xe lửa từ ga Hàng Cỏ ở Hà Nội đến ga Ấm Thượng, và rồi người ta dùng một chiếc phà để chuyển đến Bến Ngọc. Từ đó, họ thường dùng xe trâu để chuyển về trại nếu chỉ có một số lượng nhỏ, nhưng nếu số lượng lớn như tre, lá cọ, than đá, th́ trại viên và cán bộ phải đi ra đó mà lấy để chuyển về. Trại thường tổ chức một buổi “ra quân” để làm việc này.
https://i.imgur.com/SkschyQ.png

Sáng sớm hôm có buổi “ra quân”, khi mở cửa pḥng giam, cán bộ trực trại sẽ bảo chúng tôi sẵn sàng để đi “Bến Ngọc”. Chúng tôi không mang đồ đạc lỉnh kỉnh của riêng ḿnh mà chỉ mang theo b́nh nước uống v́ khi về chúng tôi sẽ phải mang vác nặng nề trên một lộ tŕnh khá xa! Chúng tôi xuất trại như thường lệ, nhưng những chiếc xe cải tiến th́ đă được đem về đậu trước cổng trại sẳn sàng. Trại viên lấy xe của đội ḿnh để kéo theo, quẹo về phía trái ở trước cổng trại rồi quẹo mặt vào con đường đất sét đi về phía Bến Ngọc. Con đường này rất bụi bặm vào ngày nắng nhưng lại trơn trợt vào ngày mưa. Các trại viên kéo xe cải tiến đi phía trước, hai hàng trại viên khác đi tiếp theo, và cuối cùng là các cán bộ, chúng tôi phải đi vội vă.

Khoảng nửa đường từ K5 đến Bến Ngọc, có một ngôi trường mà đầu tiên trông thấy đă khiến tôi rất kinh ngạc, đó là “Trường Phổ Thông Công Nông Nghiệp Số 1”. Học sinh trong trường là các trẻ em khoảng từ mười đến mười lăm tuổi. Chúng ăn mặc giống hệt chúng tôi và làm việc như chúng tôi! Các “thầy giáo” là những công an mặc quân phục với súng trên vai trông chừng chúng làm việc trên những cánh đồng. Đó là loại trường học ǵ vậy? Chúng cũng có buổi “ra quân” như chúng tôi. Tôi thử hỏi xem chúng học cái ǵ trong trường th́ chúng cười và nói “học cái ǵ, chúng cháu làm việc như trâu!” Chúng thường gọi chúng tôi là “bố” và hỏi xin “thuốc lào” dù chúng c̣n rất trẻ. Chúng là những trẻ bụi đời ở những thành phố lớn ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Pḥng, hoặc những đứa trẻ hư hỏng mà gia đ́nh không dạy được phải đưa vào trại để cải tạo. Cái gọi là “trường học” thật ra là một trại tù để giam trẻ con mà thôi. Hầu hết bọn chúng sẽ được chuyển đi các “nông trường” để sống cho hết đời hoặc vào các trại cải tạo khi đến tuổi mười tám.

Cộng Sản không có nhà tù, họ chỉ có “trường học”, “trại cải tạo”, và các “nông trường” mà thôi.

Những đứa trẻ này cũng tả tơi và ốm đói như chúng tôi; chúng kéo xe cải tiến đi về phía Bến Ngọc với những cán bộ vũ trang đi theo sau. Không có ǵ khác với chúng tôi cả ngoài việc chúng là trẻ con! Có lẽ có một điều khác hơn là chúng ăn nói dơ dáy với những tiếng lóng mà chúng tôi không thể hiểu nỗi, và chúng chửi thề luôn miệng!

Chúng tôi đến Bến Ngọc khoảng giữa trưa và chờ đợi tất cả đến nơi. Chiếc phà đầy than chưa cập bến. Trời bắt đầu mưa. Không có chổ nào núp mưa; chúng tôi ngồi co ro dưới mưa. Cái lạnh và cái đói trộn lẫn với nhau làm tôi run rẩy; hai hàm răng tôi đánh ḅ cạp. Tôi không ước mong ǵ hơn là có được một chén cơm nóng ở trong một căn pḥng ấm áp. Điều ước muốn ấy thật quá đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh này th́ nó c̣n khó hơn bay lên cung trăng! Tôi nh́n quanh các bạn bè; vài người trong họ đă từng giữ những chức vụ chỉ huy trước đây. Họ cũng đang co ro và run rẩy như những con mèo ướt.

Cán bộ th́ mặc pon-sô họp nhau cười nói và chia nhau những điếu thuốc lá. Trại viên th́ ngồi trong hàng run rẩy dưới mưa. Hai h́nh ảnh trái ngược nhau ở cùng một chỗ! Tôi chẳng thương mà cũng chẳng ghét ǵ các cán bộ. Họ cũng là những người Việt Nam; vài người trong bọn họ cũng có tính người. Lớn lên trong một xă hội được xây dựng trên nền tảng của sự hận thù, họ giống như những người máy. Tôi vẫn nhớ người bạn cũ của tôi tên là Khiêm, anh ta đă theo VC sau khi tốt nghiệp trung học, trong những ngày đầu “giải phóng”, anh ta đă nói với tôi rằng một khi đă gia nhập đảng Cộng Sản th́ anh ấy giống như có một dây tḥng lọng quấn quanh cổ. Anh ấy phải làm những ǵ mà họ bảo làm, nếu không th́ anh ấy sẽ bị thắt cổ chết mà thôi.

Chế độ Cộng Sản đă tạo nên những con người làm những ǵ mà họ được ra lệnh làm, nói những ǵ mà họ đă được nhồi nhét vào đầu, và suy nghĩ những ǵ mà họ được chỉ bảo. Năm này qua năm khác, họ đă được dạy rằng chúng tôi là những kẻ thù của Nhà nước và của Nhân dân, và quan trọng nhất là kẻ thù của Đảng, do đó họ phải đối xử với chúng tôi như những kẻ thù.

Trẻ con ở miền Bắc đă được dạy rằng chúng tôi là những tên quỷ dữ chỉ biết ăn gan uống máu của nhân dân. Khi các đứa trẻ trong “trường” hỏi chúng tôi về những điều này, chúng tôi không biết làm thế nào để giải thích cho bọn chúng mà chỉ biết cười và bảo đùa rằng chúng tôi cũng đă từng ăn gan và uống máu, nhưng chúng tôi chỉ ăn gan gà và uống máu dê mà thôi! Trẻ con ở miền Bắc được dạy rằng dân chúng miền Nam đă bị bóc lột đến tận xương tủy, do đó dân miền Bắc phải vào để giải phóng dân miền Nam, những người đang sống trong sự nghèo nàn và đau khổ. Điều tuyên truyền này đă khiến người miền Bắc nghĩ rằng dân miền Nam nghèo hơn người miền Bắc rất nhiều.

Có nhiều người đă thay đổi cả ư nghĩ sau khi được vào Nam. Trung úy Trung, cán bộ chấp pháp trong Ban Giám thị của trại, người đă từng có thái độ căm thù chúng tôi ra mặt khi chúng tôi mới đến trại. Khi hắn ta được vào miền Nam trở về, nh́n thấy những khác biệt giữa sự thật và những ǵ mà hắn ta đă được nghe trước kia về miền Nam, hắn ta đă thay đổi hẳn thái độ và trở nên tử tế hơn nhiều cán bộ khác. Nhiều cán bộ khác cũng đă thay đổi thái độ sau khi được vào miền Nam. Tôi tự hỏi thế th́ ai cải tạo ai đây?

Mưa đă tạnh, và chiếc xe trâu của nhà bếp cũng đang mang phần ăn trưa đến cho chúng tôi. Vài củ khoai ḿ với một lời an ủi là sẽ có phần “ăn tươi” vào bữa chiều đă giúp chúng tôi có một ít năng lực để làm việc.

Chiếc phà đă cập bến. Bốn trại viên phụ trách một chiếc xe cải tiến; chúng tôi phải thay phiên nhau xúc than đổ lên xe. Chiếc xe đầy than rất nặng; bánh xe lún vào trong cát không thể di chuyển được dễ dàng dù chúng tôi đă cố đẩy hết sức ḿnh. Một người trong chúng tôi giữ càng xe, ba người khác đẩy mạnh phía sau, nhưng chiếc xe vẫn không nhút nhích. Chúng tôi đổi cách làm: một người vẫn giử càng xe để lái, một người đẩy phía sau, hai người c̣n lại nắm vào bánh xe mà xoay để chiếc xe di chuyển từng đoạn ngắn một. Chúng tôi vật lộn với chiếc xe gần một tiếng đồng hồ mới đem nó được lên đường để chờ mọi người làm xong! Sau lần đầu đó, chúng tôi rút được kinh nghiệm. Mỗi lần đi lấy than chúng tôi mang theo vài chiếc ky để khiêng than đá từ chiếc phà lên xe cải tiến để ở trên bờ.

Đi trở về trại cũng rất xa dù khoảng cách chỉ vào khoảng mười lăm cây số. Đến những dốc ngược hay những đoạn đường lầy lội, chúng tôi lại phải tiếp tục vật lộn với chiếc xe. Dốc Trinh có độ dốc khoảng ba mươi độ là một đoạn đường khó khăn nhất v́ nó dài khoảng trên một trăm thước. Dân chúng địa phương bảo rằng họ đặt tên cho cái dốc ấy theo tên của một người con gái vẫn c̣n sống. Cô ta bị một tên VC cưỡng hiếp trở thành điên loạn. Trong những đêm có trăng, cô ấy thường khỏa thân đi lại trên dốc với mái tóc xơa ra trông giống như một bóng ma. Người ta thường gọi tên cái dốc là “dốc Trinh Hồng” v́ tên cô ta là Hồng.

Về đến trại, chúng tôi hoàn toàn hết sức lực! Cái gọi là “bửa ăn tươi” là một miếng thịt nhỏ khoảng ngón tay cái không đủ để thuyết phục chúng tôi ăn ngay được bửa ăn dù chúng tôi đang rất đói.

Đi lấy lá cọ hay lấy tre cũng chẳng khá hơn. Ba trại viên một xe cải tiến, số c̣n lại phải vác bằng vai. Hai bó lá cọ khoảng hai mươi kư lô mỗi bó được xuyên qua bởi một cây đ̣n xóc quả là quá nặng nhất là con đường quá dài và lầy lội với những dốc ngược. Để chất được nhiều trên xe cải tiến, họ bắt chúng tôi phải buộc những thanh tre vào sườn xe để chất lá lên cao lên khỏi sàn xe. Muốn kéo xe dể dàng hơn, vài người trong chúng tôi phải buộc dây vào càng xe rồi quấn quanh vai trông giống con trâu mang ách. Tôi thường đi theo xe cải tiến để lấy lá hay lấy tre mặc dù nó nặng hơn một chút v́ tôi không thể gánh trên vai được; nó khiến vai tôi đau ră rời.

Cuối năm 1979, khi trại cho phép gia đ́nh đến thăm nuôi trại viên, con đường đi Bến Ngọc trở thành con đường của gia đ́nh chúng tôi! Bến Ngọc cũng trở nên đông đúc hơn. Một số dân địa phương có thêm một nghề mới, đó là giúp đở gia đ́nh trại viên để chuyển đồ đạc họ từ phà lên bến và đôi khi phụ gánh vào trại.

Cũng kể từ đó, đi Bến Ngọc lại là một niềm vui cho chúng tôi mặc dù cũng vẫn rất mệt. Chúng tôi có cơ hội để gặp được dân Sài G̣n. Mặc dù họ không phải là thân nhân ḿnh đi nữa, nhưng ít ra họ vẫn thấy thân quen hơn.

Có lần tôi đi cùng mấy người trong đội đến Bến Ngọc để lấy gỗ về làm nhà, một người đàn bà đến hỏi tên tôi rồi bà ta bật khóc. Bà ấy là vợ của anh bạn tôi đi thăm chồng đang ở K3. Bà ta trao cho tôi một ít quà và bảo rằng bà ta không thể nhận được ra tôi v́ tôi thay đổi nhiều quá. Có lẽ là tôi đă quá tang thương nên không c̣n nhận ra được nữa! Tôi không nhận quà của bà ta nên sau khi thăm chồng xong bà ta gởi qua cho tôi một ít; đó cũng là lần đầu tiên tôi nhận được món quà của người Sài G̣n.

florida80
05-07-2020, 20:22
Hút Thuốc Lào

Có lẽ mọi trại viên đều biết đến “thuốc lào” dù rằng có người không hề hút thuốc. Khi ra đến trại Tân Lập, chúng tôi không c̣n được phát thuốc lá nữa mà được phát loại thuốc vụn và thuốc lào.

Thuốc vụn là loại thuốc cắt thừa trong các hảng thuốc lá. Nó rất khó quấn thành điếu v́ thuốc rất nát, nhất là với loại giấy quyến nhỏ dùng để quấn thuốc lá trong các hảng. Vài người sáng chế ra cây cờ nhỏ làm bằng miếng giấy dầy hay bằng miếng nilon để cuộn thuốc. Tôi không thể quấn được thuốc theo cách ấy mà phải dùng mọi thứ giấy có được để quấn bằng tay như quấn thuốc rê. Nhưng thuốc ấy không thể nào có đủ để hút trong ṿng một tháng hơn để đợi kỳ phát sau. Ngoài ra th́ c̣n “thuốc lào” nữa! Chúng tôi làm ǵ đây với loại thuốc này? Nhiều người không biết hút thuốc lào nên thử cuộn để hút như hút thuốc rê, nhưng nó không thể đốt cháy được. Tôi cũng thử làm theo cách ấy lúc đầu. Chỉ một vài người miền Nam là biết hút thuốc lào thôi, họ đổi thuốc vụn cho chúng tôi để lấy thuốc lào.

Thuốc lào hút được lâu hơn v́ mỗi lần chỉ hút một nhúm rất nhỏ. Có hai loại điếu để hút thuốc lào, đó là điếu bát và điếu cày. Hầu hết những trại viên từ miền Nam mới ra đều hút thuốc lào bằng điếu bát tự chế. Điếu bát là một cái hủ kín có hai lỗ trên mặt: một lỗ để chứa thuốc lào và một lỗ để hút. Cái lỗ để đựng thuốc lào được gắn vào đó một cái “nỏ” h́nh loa kèn để chứa một nhúm nhỏ thuốc lào mỗi lần hút, c̣n cái lỗ để hút th́ được gắn một ống dài thường là ống tre. Cái “nỏ” được gắn theo chiều ngược để đầu nhỏ của h́nh loa kèn nhúng vào trong nước chứa trong bát trong khi cái loa kèn th́ nằm phía trên nắp. Khi hút, khói thuốc sẽ đi vào nước trong điếu trước khi vào miệng của người hút. Trong trại, ít người có được cái điếu bát thật sự. Vài người chế tạo cái điếu bát từ những hũ chao, nhưng nó không hoàn hảo để mà hút thuốc lào và lại rất khó mang theo ḿnh.

Khi vừa ra tới trại Tân Lập, chúng tôi nh́n thấy những phạm nhân h́nh sự hút thuốc lào bằng một ống điếu làm bằng tre gọi là “điếu cày”, và chính chúng đă chỉ chúng tôi cách hút thuốc lào bằng loại điếu này.

Cái ống điếu gọi là “điếu cày” v́ nó được những người thợ cày mang theo ra đồng mỗi khi họ đi cày ruộng. Nó được làm bằng một mắt tre dài khoảng sáu hoặc bảy tấc, đường kính khoảng ba phân có một đầu kín để chứa nước và một đầu hở để hút thuốc. Cách cái mắt tre khoảng năm phân, người ta xoi một lỗ nhỏ để gắn cái nỏ điếu vào theo độ dốc khoảng bốn mươi lăm độ. Cái nỏ điếu phải được gắn thế nào để đầu nhỏ của nó chấm vào nước trong điếu mỗi khi được giữ khoảng 45 độ và khi được giữ ở chiều gần như ngang th́ nó nằm trên mặt nước. Nghệ thuật làm nỏ điếu là phải xoi lỗ làm sao cho khi hút nó rít lên một tiếng kêu lớn. Chúng tôi thường không ai biết làm nỏ điếu, do đó chúng tôi phải đổi chác với các phạm nhân h́nh sự để có được cái điếu cày.

Để đốt thuốc mỗi lần hút, chúng tôi cần phải có giấy hay những thứ nào dễ bắt lửa. Giấy rất hiếm trong trại cải tạo, do đó chúng tôi thường phải chẻ tre thành những thanh mỏng, ngâm trong nước vài ngày rồi đem phơi khô để làm đóm.

Hút thuốc lào th́ phải học cách hút. Chúng tôi nhúm một chút thuốc và ṿ nó lại thành những viên nhỏ gọi là “con dế”, đặt con dế ấy lên nỏ điếu, đốt cái đóm, và rồi với chiếc điếu ở vị trí khoảng 45 độ, chúng tôi đặt môi vào đầu điếu. Cùng lúc ấy, chúng tôi phải vừa đốt thuốc vừa hít nhẹ vào để khói thuốc đi vào trong điếu và con dế được đốt hết. Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn “tuyệt vời” nhất đối với người hút thuốc lào. Con dế đă bị đốt trọn vẹn sẽ được phun ra, rồi người hút thuốc lào giữ cái điếu gần như ngang với mặt đất để cái nỏ chỉ nằm trên mặt nước trong điếu chứ không ch́m vào trong nước nữa, tiếp theo người hút phải hít một hơi dài; cái điếu kêu rít lên, đó là lúc người hút thuốc lào cảm thấy “say sưa” nhất!

Tôi đă hút thuốc lào không lâu sau khi đến trại Tân Lập. Phong, một người tù h́nh sự làm chung với tôi khi tôi đi vẽ tấm tranh cổ động cho trại đă cho tôi cái điếu cày và chỉ tôi cách hút.

Cảm giác say sưa của thuốc lào rất khác với cảm giác say thuốc lá hoặc say rượu. Nó làm cho người hút dường như bị tê ở mặt, dường như đang bay bổng, tay run run, đầu óc th́ rất tỉnh táo nhưng không thể kiểm soát được các cử động của tay chân. Đôi khi người say thuốc lào có thể bị ngă sấp xuống; mặc dù anh ta đă có ư muốn nắm giử vào vật ǵ đó để gượng lại nhưng anh ta không thể điều khiển cử động của ḿnh được nữa. Cái cảm giác đầu tiên này chỉ xảy ra trong ṿng năm phút, và rồi “con dế” tiếp theo không thể mang lại cái cảm giác ấy được nữa cho đến một thời gian lâu sau, có khi đến hôm sau. Đó cũng là lư do khiến các trại viên hay hút thuốc lào vào mỗi sáng sớm khi giật ḿnh thức dậy. Cảm giác say thuốc lào là một cảm giác rất khó quên. Một người nào đó đă đặt ra một câu ca dao để diễn tả rằng “Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đă chôn điếu xuống lại đào điếu lên!”

Khi Uyển làm đội trưởng của đội 10, Uyển và tôi thường ngồi ăn cơm chung với nhau, vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bửa ăn. Hai loại thuốc mà trại phát cho chúng tôi lúc ấy là “Sông Cầu” và “An Thái”. Vào năm 1980, khi các gia đ́nh miền Nam được phép ra thăm nuôi, họ mang loại thuốc lào miền Nam tên là “999”. Tôi đă hút thử thuốc này một lần duy nhất, và nó khiến tôi “gần chết!” Nhịp tim tôi đập rất nhanh; tôi ngă sấp xuống nền nhà mà không thể kiềm chế được ḿnh. Tôi bỏ hút thuốc lào kể từ đó, giao điếu cày của tôi cho Nhân, người bạn nấu nước trong đội. Điếu của tôi trở thành tài sản chung cho đội!

Hàng ngày khi đi lao động, Nhân mang cái điếu ấy theo mặc dù anh ta không hút thuốc lào. Vào giờ giải lao, các trại viên trong đội tôi thường đến chỗ của Nhân để uống nước và hút thuốc lào. Đôi khi họ bỏ vào lon guigoz những thứ mà họ thu nhặt được trên hiện trường lao động nhờ Nhân nấu dùm để “cải thiện”. Chúng tôi không được phép mang vào trại những thứ này, do đó phải ăn những thứ ấy ngay lúc giải lao.

Mỗi đội thường có một người phụ trách nấu nước uống khi đi làm lao động. Người này thường được gọi là “anh nuôi”, và trại viên trong đội thường phải nhờ những anh nuôi ấy nấu dùm đồ ăn mà họ thu nhặt được để ăn lúc giải lao. “Anh nuôi” c̣n có nhiệm vụ mang cái điếu cày cho toàn đội v́ trại không cho phép mỗi người mang điếu riêng của họ khi đi làm lao động. Khi đi lao động, “anh nuôi” gánh một đôi thùng nước có treo lủng lẳng xung quanh những củi nấu, ống điếu cày, và lon guigoz. Những h́nh ảnh rất quen thuộc của các trại cải tạo là “anh nuôi”, cái lon sữa guigoz bằng nhôm có gắn quai gọi là lon “gô”, và chiếc điếu cày.

florida80
05-07-2020, 20:23
Chương 33. Muông, Người Tù H́nh Sự Đặc Biệt

Hắn ta vào khoảng năm mươi vào năm 1977. Tội của hắn là truyền bá thơ văn của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”, và hắn không có một án phạt nào cả! Hắn ở trong trại cải tạo từ năm 1955.

Tôi gặp Muông lần đầu tiên lúc tôi đang vẽ tấm tranh cổ động cho trại ở pḥng ăn của một đội ở khu B, gần văn pḥng của “Ban Thường Trực Thi Đua”. Hắn đến để xem tôi vẽ.

- “Tại sao anh không tự vẽ lấy tấm tranh cổ động?” Hắn hỏi tôi.

Tôi ngạc nhiên hỏi lại hắn. “Sao anh hỏi tôi như vậy?”

- “V́ tôi nghĩ anh có đủ khả năng để sáng tác tấm tranh chứ không cần phải bắt chước theo tờ báo.” Hắn trả lời tôi.

- “Cám ơn anh, nhưng đây là cách làm của tôi trong mọi trại cải tạo. Điều này dễ cho tôi hơn v́ tấm tranh cổ động này không phải là của tôi, không ai có thể chụp mũ cho tôi được v́ nó không phải ư tôi.”

- “Anh khôn quá!”

Hắn ta hơi lùn, nhưng không ốm đói như những người khác. Tóc hắn đă ngă xám, gần như bạc hẳn mặc dù hắn trông không có vẻ già lắm. Hắn ta hỏi tôi nhiều điều về miền Nam, hỏi tôi làm ǵ trong chính quyền Nam Việt Nam, hỏi về gia đ́nh tôi, vân vân. Tôi chỉ trả lời những điều chung chung v́ tôi không biết hắn có phải là “cán bộ” muốn điều tra tôi hay không.

Tôi muốn hỏi hắn về tội trạng của hắn, án phạt mà hắn bị, nhưng tôi thấy không tiện v́ điều đó rất là bất lịch sự. Hầu hết các phạm nhân ở khu B đều là những tội phạm h́nh sự mang những tội như giết người, cướp của, hay hiếp dâm. Án phạt của họ thường ít nhất là mười năm.

Phong, một phạm nhân h́nh sự vẽ chung với tôi trong pḥng nói cho tôi biết rằng Muông là một “tù nhân chính trị” chứ không phải h́nh sự. Nhưng Phong không biết loại chính trị ǵ mà Muông bị bỏ tù!

Muông là một trại viên làm việc ở “ban chỉ huy trại”, nuôi heo cho cán bộ; hắn đă ở trong trại quá lâu nên có thể đi bất cứ đâu cũng không cần có cán bộ canh chừng. Đôi khi hắn ta mang cho tôi một ít thức ăn, một ít rau, và chúng tôi lần lần quen biết nhau nhiều hơn. Hắn ta kể cho tôi nghe về những việc xảy ra ở miền Bắc sau 1954 khi bị Cộng Sản chiếm. Tất cả những nhân viên làm cho Pháp hoặc cho Chính Phủ Quốc Gia đều bị bắt đi cải tạo, và một số lớn đă chết trong các trại. Số c̣n lại th́ bị chuyển đến những nông trường quốc doanh và sống ở đó cho hết đời.

Trong phong trào “nhân văn giai phẩm” vào năm 1955, hầu hết những văn thi sĩ có những tư tưởng đi ngược lại đường lối của Đảng đều bị cải tạo. Hắn ta không phải là nghệ sĩ hay nhà văn ǵ cả mà chỉ lưu giữ những bài viết của nhóm ấy và bị người khác báo cáo. Điều ấy khiến hắn bị trả một cái giá là cả cuộc đời hắn ở trong trại cải tạo từ năm 1955. Hai mươi hai năm từ những trại như Lào Kai, Yên Bái, Sơn La, vân vân, hắn được chuyển về trại Tân Lập để chờ đi nông trường. Hắn bảo rằng không bao giờ có chuyện thả các trại viên không có án ngoại trừ khi người ấy có thân nhân làm cho Cộng Sản ở cấp bậc cao, hoặc là có một “phép lạ” nào đó!

Tôi hỏi hắn tại sao hắn không về nhà v́ tôi thấy hắn có thể đi bất cứ đâu mà không ai canh chừng. Hắn nói rằng hắn đă về nhà hai lần rồi, nhưng không có thể trốn đâu được hay sống được trong xă hội của Cộng Sản. Họ kiểm soát hết mọi thứ kể từ gia đ́nh chúng ta, họ hàng chúng ta, và cả hàng xóm chúng ta.

Tôi thường xuyên gặp Muông cho đến khi hắn được chuyển đi một trại nông nghiệp của nhà nước tên là “Hồng Trường” vài tháng sau.