florida80
05-27-2020, 18:56
Về Sài G̣n tôi bị lạc. T́nh trạng lạc hướng kéo dài trên taxi, xe ôm, đi một ḿnh hay cùng gia đ́nh, bè bạn, tôi thường lẩm nhẩm trong đầu: đường này Gia Long, Tự Do đây, chắc là Lê Văn Duyệt… Nhưng khi ra đến Hà Nội, lại tịnh không có sự lẩm nhẩm nào. Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đă hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi.
https://i.imgur.com/oQViIcG.jpg
Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nh́n mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp. Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đă trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ.
Sài G̣n, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đ́nh Phùng (nay là Nguyễn Đ́nh Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đă lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc ḷng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, c̣n ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài G̣n đều của tôi, chúng đă tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài G̣n thời lớn, bởi v́ đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhă nhặn trụ ṿng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba mươi sáu phố phường, nhờ quyết định hợp lư và cận nhân t́nh của những người tiếp thu Hà Nội sau 1954.
Quang Trung sau khi diệt Trịnh, cũng chỉ dám đổi Thăng Long ra Bắc Thành, vậy mà Thanh Quan cũng đă giận lắm, nhiều năm sau, bà c̣n viết Thăng Long thành hoài cổ để lại như một chúc thư. Bởi v́ con người luôn luôn gắn bó với đất nước, và đất nước của mỗi người không chỉ là nơi sinh và nơi lớn, mà c̣n là tiếng nói, là tên gọi những chốn thân yêu ấy nữa. Không thiếu văn nghệ sĩ đă lấy tên làng, tên tỉnh của ḿnh, làm bút hiệu. Sự đổi tên một con đường, một thành phố, vô t́nh đă đụng đến kư ức xương thịt, kư ức tâm hồn của một người, của nhiều người, của một vùng, một phương, kéo theo những bi thương, phẫn nộ, vô ích. Tại sao không tránh?
Chúng tôi về tới Sài G̣n sáng sớm ngày 2/11/2017. Vậy là hơn 20 năm xa cách (lần chót tôi rời Sài G̣n cuối tháng 9 năm 1997). Cảm tưởng lạc đưa đến sự từ chối thành phố trong mấy hôm đầu, khiến tôi không nhận được quê hương ngày trở lại, đă từng có thứ nắng thật lăng mạn, nắng Sài G̣n anh đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông. Tôi thực thụ gặp lại quê hương qua chuyến đi Sài G̣n-Châu Đốc-Hà Tiên, do một công ty du lịch tổ chức riêng cho hai Việt kiều: Cái Bè là điểm hẹn đầu tiên với sông nước Tiền Giang. Phải đến đây mới cảm được Cửu Long Giang bát ngát của Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh bốc khói trên chiều về bên sông như giọng thuỷ thần cất lên từ đáy nước. Chúng tôi lên thuyền nhỏ đi vào sông lạch, ở đây cách Rạch Gầm Xoài Mút không xa, nhưng tôi không dám hỏi cô lái đ̣ “địa chỉ” v́ chắc cô cũng chẳng biết việc Nguyễn Huệ phá quân Xiêm (1785 quá xa vời), hỏi thêm lẩn thẩn. Sông lạch miền Nam vô cùng quyến rũ, tôi nghĩ chắc hai chị em Hàn Mặc Tử đi thuyền trên sông trăng Sa Huỳnh ngày trước cũng chỉ tương tự thế này, ta thay ánh trăng bằng dừa nước, bằng tất cả những thứ cây sà xuống nước mà tôi không biết tên; ḷng tôi chĩu trong đáy nước. Nước tôi. Chúng tôi ăn bữa cơm trưa đầy thi vị bên con cá chiên xù, trong khung cảnh thơ mộng của ngôi nhà cổ Anh Kiệt, không xa Rạch Gầm Xoài Mút của Nguyễn Huệ.
Buổi trưa hôm ấy mưa như trút nước, khiến tôi nhớ lại thứ mưa đặc biệt miền Nam, mưa rồi tạnh ngay, trời lại nắng, như lời chào thân ái của vùng đất miệt vườn với đứa nhỏ di cư, mười tuổi, năm năm mươi tư. Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Sa-Đéc, thăm ngôi trường cũ mà bà mẹ Marguerite Duras đă dạy học, trước khi đến căn nhà cổ của gia đ́nh Huỳnh Thủy Lê, người t́nh của Duras, trở thành nổi tiếng v́ phim Người t́nh (L’Amant) của Jean-Jacques Annaud. Căn nhà cũ gợi cảnh vàng son của cái đẹp ánh lên những gợn sóng xà cừ toả ra từ bộ trường kỷ, giường, sập gụ, tủ kinh, một chất xưa lắm, nay không c̣n nữa, đọng lại một mối t́nh sôi bỏng trong không gian, không mầu, nhưng tồn tại.
Trời lại mưa.
Mưa theo chân chúng tôi đến tận vùng đất cũ, tôi biết tên nhưng chưa bao giờ đến: Châu Đốc. Chúng tôi ở một khách sạn trên đồi cao, nằm cheo leo sườn núi Sam. Nh́n những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn Châu Đốc chiếu lên khung cảnh tuyệt vời, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hănh diện v́ quê hương, một cảm tưởng gần như đă biến mất trong tôi từ nhiều năm tháng: bởi đây là lần đầu tiên tôi được ở một khách sạn tại vùng đèo heo gió hút, do người ḿnh xây, có kiến trúc đẹp, những căn nhà nhỏ thơ mộng lẩn trong bụi cây, có mỹ thuật và tôn trọng môi trường, đầy đủ tiện nghi, khó t́m thấy trên đất Pháp cái ǵ tương tự. Tôi không khỏi bồi hồi cảm động, trong bụng nẩy lên một niềm tự hào dân tộc sâu xa: hai mươi bốn năm trước, tôi cũng tá túc tại một khách sạn sang ở Huế, nhưng pḥng tắm đầy gián, chuột; đêm ấy, tôi không sao ngủ được, nghĩ bụng không biết khi nào dân ḿnh mới thoát ṿng nhược tiểu, mới có khả năng xây dựng một căn nhà. Thế mà nay, những người Âu đến đây, cũng như chúng tôi, họ ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi: từ kiến trúc, bài trí, đến cách tiếp đăi lịch sự, nồng hậu, món ăn, tất cả đều top, giá lại phải chăng, chỉ bằng 1/4 giá một khách sạn tương đương như thế ở Pháp. Khó t́m thấy khung cảnh nào thần tiên hơn.
Sự tiếp xúc với Châu Đốc sâu hơn, ngày hôm sau, nhờ thiếu nữ hướng dẫn thật sự yêu nghề, yêu đất nước. Em rành từ tên cây, tên cỏ, đến tên đất của vùng quê em, ngơ nào em cũng biết, em kể về quá khứ xa, gần: nội em xưa làm công chức cao cấp trong chính quyền cũ, bị án tử h́nh. Ôi quê hương yêu quư, đâu đâu cũng thấy dấu vết tương tàn, nỗi buồn làm tắt niềm vui. Em dẫn chúng tôi đi thăm Trà Sư, điểm lạ của miền đất có âm thanh Châu Đốc gióng lên như tiếng trống, thúc giục ta tiến sâu vào vùng sông nước, cây cỏ, ḥa một, độc nhất vô nhị này. Trà Sư là rừng tràm bí mật và thơ mộng mà tôi đă nghe tiếng từ lâu, v́ không hiểu rơ, nên vẫn đồng hoá với Rừng mắm của B́nh Nguyên Lộc. Nhưng không phải: Trà Sư là rừng tràm mọc trên nước, mênh mông, bất tận, mở ra, mở ra măi… Thuyền đi, thuyền đi, rẽ lối trên bèo, đi sâu, sâu hơn, sâu măi, thuyền đến đâu bèo mở ra đến đấy rồi vội vàng khép lại sau lưng thành một cánh thảm xanh tuyệt vời, có lẽ v́ vậy mà người miền Nam gọi bèo tây là lục b́nh. (Chỗ này Thụy Khuê trật lất, bèo ở Trà Sư là bèo cám – NY)
Châu Đốc c̣n là quê hương của Thoại Ngọc Hầu, v́ Hầu mà chúng tôi đến đây: Thoại Ngọc Hầu hôm nay nằm trong dinh bên cạnh những ngôi mộ đá h́nh trái soan trắng, là mộ của gia nhân, tùy tướng. Hầu vẫn nhăm nhăm tay thương, tay kiếm, oai phong trấn giữ mảnh đất quan ải. Tôi giật ḿnh, vừa yên tâm, vừa sợ. Châu Đốc trong trí tôi ngày trước là vùng địa đầu, rắn rít, nước độc, bây giờ là đất Trà Sư mênh mông đẹp rộng như rừng mắm của B́nh Nguyên Lộc, có Thoại Ngọc Hầu sừng sững bảo vệ. Muôn đời.
Từ Châu Đốc, chúng tôi theo con kinh Vĩnh Tế của Hầu để về Hà Tiên. Anh lái xe cho đi con đường dọc sát biên giới Miên Việt, bên kia núi là đất Miên, bên này đất Việt, anh guide bảo: mạ bên ḿnh lá xanh hơn mạ bên kia, cô ạ. Ư anh muốn nói, mạ ḿnh xanh hơn mạ Miên, tôi mỉm cười thầm nghĩ: Người ḿnh chủ quan thật. (Thụy Khuê lại trật nữa. Mạ bên ḿnh xanh hơn là v́ trồng lúa ngắn ngày rải toàn phân hóa học vô cơ, mạ bên kia là lúa dài ngày, ít lạm dụng phân hóa học – NY). Con đường đi dọc kinh Vĩnh Tế, mộc mạc, không trang điểm, c̣n là đường mộ chôn bao nhiêu nhân công đào kinh mở nước, họ đă nằm xuống đây. Phải đến mới cảm thấy thấm thía công lao của người trước: vừa chống trả với “quân xâm lăng” (xâm lăng hay đ̣i đất? V́ ḿnh chiếm đất của người ta!), vừa làm công việc dẫn thuỷ nhập điền cho dân cư cả một vùng đèo heo gió hút
https://i.imgur.com/oQViIcG.jpg
Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nh́n mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp. Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đă trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ.
Sài G̣n, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đ́nh Phùng (nay là Nguyễn Đ́nh Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đă lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc ḷng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, c̣n ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài G̣n đều của tôi, chúng đă tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài G̣n thời lớn, bởi v́ đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhă nhặn trụ ṿng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba mươi sáu phố phường, nhờ quyết định hợp lư và cận nhân t́nh của những người tiếp thu Hà Nội sau 1954.
Quang Trung sau khi diệt Trịnh, cũng chỉ dám đổi Thăng Long ra Bắc Thành, vậy mà Thanh Quan cũng đă giận lắm, nhiều năm sau, bà c̣n viết Thăng Long thành hoài cổ để lại như một chúc thư. Bởi v́ con người luôn luôn gắn bó với đất nước, và đất nước của mỗi người không chỉ là nơi sinh và nơi lớn, mà c̣n là tiếng nói, là tên gọi những chốn thân yêu ấy nữa. Không thiếu văn nghệ sĩ đă lấy tên làng, tên tỉnh của ḿnh, làm bút hiệu. Sự đổi tên một con đường, một thành phố, vô t́nh đă đụng đến kư ức xương thịt, kư ức tâm hồn của một người, của nhiều người, của một vùng, một phương, kéo theo những bi thương, phẫn nộ, vô ích. Tại sao không tránh?
Chúng tôi về tới Sài G̣n sáng sớm ngày 2/11/2017. Vậy là hơn 20 năm xa cách (lần chót tôi rời Sài G̣n cuối tháng 9 năm 1997). Cảm tưởng lạc đưa đến sự từ chối thành phố trong mấy hôm đầu, khiến tôi không nhận được quê hương ngày trở lại, đă từng có thứ nắng thật lăng mạn, nắng Sài G̣n anh đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông. Tôi thực thụ gặp lại quê hương qua chuyến đi Sài G̣n-Châu Đốc-Hà Tiên, do một công ty du lịch tổ chức riêng cho hai Việt kiều: Cái Bè là điểm hẹn đầu tiên với sông nước Tiền Giang. Phải đến đây mới cảm được Cửu Long Giang bát ngát của Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh bốc khói trên chiều về bên sông như giọng thuỷ thần cất lên từ đáy nước. Chúng tôi lên thuyền nhỏ đi vào sông lạch, ở đây cách Rạch Gầm Xoài Mút không xa, nhưng tôi không dám hỏi cô lái đ̣ “địa chỉ” v́ chắc cô cũng chẳng biết việc Nguyễn Huệ phá quân Xiêm (1785 quá xa vời), hỏi thêm lẩn thẩn. Sông lạch miền Nam vô cùng quyến rũ, tôi nghĩ chắc hai chị em Hàn Mặc Tử đi thuyền trên sông trăng Sa Huỳnh ngày trước cũng chỉ tương tự thế này, ta thay ánh trăng bằng dừa nước, bằng tất cả những thứ cây sà xuống nước mà tôi không biết tên; ḷng tôi chĩu trong đáy nước. Nước tôi. Chúng tôi ăn bữa cơm trưa đầy thi vị bên con cá chiên xù, trong khung cảnh thơ mộng của ngôi nhà cổ Anh Kiệt, không xa Rạch Gầm Xoài Mút của Nguyễn Huệ.
Buổi trưa hôm ấy mưa như trút nước, khiến tôi nhớ lại thứ mưa đặc biệt miền Nam, mưa rồi tạnh ngay, trời lại nắng, như lời chào thân ái của vùng đất miệt vườn với đứa nhỏ di cư, mười tuổi, năm năm mươi tư. Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Sa-Đéc, thăm ngôi trường cũ mà bà mẹ Marguerite Duras đă dạy học, trước khi đến căn nhà cổ của gia đ́nh Huỳnh Thủy Lê, người t́nh của Duras, trở thành nổi tiếng v́ phim Người t́nh (L’Amant) của Jean-Jacques Annaud. Căn nhà cũ gợi cảnh vàng son của cái đẹp ánh lên những gợn sóng xà cừ toả ra từ bộ trường kỷ, giường, sập gụ, tủ kinh, một chất xưa lắm, nay không c̣n nữa, đọng lại một mối t́nh sôi bỏng trong không gian, không mầu, nhưng tồn tại.
Trời lại mưa.
Mưa theo chân chúng tôi đến tận vùng đất cũ, tôi biết tên nhưng chưa bao giờ đến: Châu Đốc. Chúng tôi ở một khách sạn trên đồi cao, nằm cheo leo sườn núi Sam. Nh́n những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn Châu Đốc chiếu lên khung cảnh tuyệt vời, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hănh diện v́ quê hương, một cảm tưởng gần như đă biến mất trong tôi từ nhiều năm tháng: bởi đây là lần đầu tiên tôi được ở một khách sạn tại vùng đèo heo gió hút, do người ḿnh xây, có kiến trúc đẹp, những căn nhà nhỏ thơ mộng lẩn trong bụi cây, có mỹ thuật và tôn trọng môi trường, đầy đủ tiện nghi, khó t́m thấy trên đất Pháp cái ǵ tương tự. Tôi không khỏi bồi hồi cảm động, trong bụng nẩy lên một niềm tự hào dân tộc sâu xa: hai mươi bốn năm trước, tôi cũng tá túc tại một khách sạn sang ở Huế, nhưng pḥng tắm đầy gián, chuột; đêm ấy, tôi không sao ngủ được, nghĩ bụng không biết khi nào dân ḿnh mới thoát ṿng nhược tiểu, mới có khả năng xây dựng một căn nhà. Thế mà nay, những người Âu đến đây, cũng như chúng tôi, họ ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi: từ kiến trúc, bài trí, đến cách tiếp đăi lịch sự, nồng hậu, món ăn, tất cả đều top, giá lại phải chăng, chỉ bằng 1/4 giá một khách sạn tương đương như thế ở Pháp. Khó t́m thấy khung cảnh nào thần tiên hơn.
Sự tiếp xúc với Châu Đốc sâu hơn, ngày hôm sau, nhờ thiếu nữ hướng dẫn thật sự yêu nghề, yêu đất nước. Em rành từ tên cây, tên cỏ, đến tên đất của vùng quê em, ngơ nào em cũng biết, em kể về quá khứ xa, gần: nội em xưa làm công chức cao cấp trong chính quyền cũ, bị án tử h́nh. Ôi quê hương yêu quư, đâu đâu cũng thấy dấu vết tương tàn, nỗi buồn làm tắt niềm vui. Em dẫn chúng tôi đi thăm Trà Sư, điểm lạ của miền đất có âm thanh Châu Đốc gióng lên như tiếng trống, thúc giục ta tiến sâu vào vùng sông nước, cây cỏ, ḥa một, độc nhất vô nhị này. Trà Sư là rừng tràm bí mật và thơ mộng mà tôi đă nghe tiếng từ lâu, v́ không hiểu rơ, nên vẫn đồng hoá với Rừng mắm của B́nh Nguyên Lộc. Nhưng không phải: Trà Sư là rừng tràm mọc trên nước, mênh mông, bất tận, mở ra, mở ra măi… Thuyền đi, thuyền đi, rẽ lối trên bèo, đi sâu, sâu hơn, sâu măi, thuyền đến đâu bèo mở ra đến đấy rồi vội vàng khép lại sau lưng thành một cánh thảm xanh tuyệt vời, có lẽ v́ vậy mà người miền Nam gọi bèo tây là lục b́nh. (Chỗ này Thụy Khuê trật lất, bèo ở Trà Sư là bèo cám – NY)
Châu Đốc c̣n là quê hương của Thoại Ngọc Hầu, v́ Hầu mà chúng tôi đến đây: Thoại Ngọc Hầu hôm nay nằm trong dinh bên cạnh những ngôi mộ đá h́nh trái soan trắng, là mộ của gia nhân, tùy tướng. Hầu vẫn nhăm nhăm tay thương, tay kiếm, oai phong trấn giữ mảnh đất quan ải. Tôi giật ḿnh, vừa yên tâm, vừa sợ. Châu Đốc trong trí tôi ngày trước là vùng địa đầu, rắn rít, nước độc, bây giờ là đất Trà Sư mênh mông đẹp rộng như rừng mắm của B́nh Nguyên Lộc, có Thoại Ngọc Hầu sừng sững bảo vệ. Muôn đời.
Từ Châu Đốc, chúng tôi theo con kinh Vĩnh Tế của Hầu để về Hà Tiên. Anh lái xe cho đi con đường dọc sát biên giới Miên Việt, bên kia núi là đất Miên, bên này đất Việt, anh guide bảo: mạ bên ḿnh lá xanh hơn mạ bên kia, cô ạ. Ư anh muốn nói, mạ ḿnh xanh hơn mạ Miên, tôi mỉm cười thầm nghĩ: Người ḿnh chủ quan thật. (Thụy Khuê lại trật nữa. Mạ bên ḿnh xanh hơn là v́ trồng lúa ngắn ngày rải toàn phân hóa học vô cơ, mạ bên kia là lúa dài ngày, ít lạm dụng phân hóa học – NY). Con đường đi dọc kinh Vĩnh Tế, mộc mạc, không trang điểm, c̣n là đường mộ chôn bao nhiêu nhân công đào kinh mở nước, họ đă nằm xuống đây. Phải đến mới cảm thấy thấm thía công lao của người trước: vừa chống trả với “quân xâm lăng” (xâm lăng hay đ̣i đất? V́ ḿnh chiếm đất của người ta!), vừa làm công việc dẫn thuỷ nhập điền cho dân cư cả một vùng đèo heo gió hút