florida80
05-27-2020, 20:20
Sài Gòn là điểm đến chính yếu của các luồng di dân từ nông thôn lên thành thị trong suốt giai đoạn chuyển tiếp của xứ Nam Kỳ từ 1858 đến 1955 (năm Sài Gòn trở thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng hòa).
Trịnh Văn Thảo (Université Aix – Marseille, France)
https://i.imgur.com/fbMwzn5.png
Trong suốt thời kỳ thuộc địa, Sài Gòn là nơi thu hút các luồng di dân với những hệ quả trái ngược nhau: là nơi tuyệt đỉnh của sự thành công trong xã hội và trong nghề nghiệp hoặc ngược lại là đáy xã hội của sự thất bại, nghèo khổ và bấp bênh. Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thông qua sự lựa chọn nơi ở của người dân hai yếu tố đối lập trên thể hiện rất rõ: một bên là ở tại khu trung tâm với các đại lộ thoáng đãng, có người châu Âu và một số người bản địa giàu có cư ngụ, gần các trung tâm hành chính; còn bên kia là các khu vùng ven nghèo ví dụ khu Bàn Cờ, Khánh Hội, Cầu Kiệu, Xóm Chiếu, Ụ Tàu… nơi những người nghèo nhất trong xã hội quy tụ về; giữa hai thái cực đó là các khu vùng ven mới hình thành và là nơi sinh sống của những người thuộc tầng lớp trung lưu như khu Đa Kao, Phú Nhuận, Tân Ðịnh, Thị Nghè, Gò Vấp…
—Chợ Bến Thành xưa.
Chính Sài Gòn là nơi xuất hiện và phát triển mạnh những nghề gắn với sự hiện đại: những người áo cổ cồn trắng (tùy phái, kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, luật sư…) làm việc cho các cơ quan hành chính địa phương, trường học, bệnh viện và tòa án; những người áo cổ cồn xanh làm việc cho hãng đóng tàu Ba Son, các cửa hàng bán hàng, các ga-ra xe hơi; người khố rách áo ôm sống bằng nghề mua bán lặt vặt, ăn cắp vặt, mại dâm và các hoạt động phạm pháp khác. Ngoài ra còn phải đề cập đến cộng đồng người Hoa với tính năng động trong thương mại ở khu vực thành phố Chợ Lớn, kề cận Sài Gòn.
Không gian – thời gian trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, được thể hiện rõ trong tác phẩm đầu tiên (bằng tiếng việt) của nhà dân tộc học phương Nam, Vương Hồng Sển, “Sài Gòn năm xưa”. Thông qua các tác phẩm văn học và tác phẩm địa chí lịch sử của “hai chứng nhân gạo cội”, ta có thể tái khám phá thành phố rất sôi động và thân thương này.
Không gian địa lý và xã hội của Hồ Biểu Chánh
Mặc dù Hồ Biểu Chánh rất hiếm khi mô tả dông dài về các địa điểm (ông thích tập trung nhiều hơn vào tình tiết, tâm lý nhân vật và bối cảnh xã hội), nhưng tiểu thuyết của ông thường bắt đầu bằng vài dòng xác định bối cảnh địa lý và không gian, trừ một số địa điểm quen thuộc như quê hương của ông (Gò Công), khu nghỉ mát (Bến Súc ở Bình Dương), Đà Lạt. Ông có kiến thức rất sâu về những địa phương mình công tác và về Sài Gòn, nơi ông từng là nghị viên của Hội đồng thành phố. Có ba khu vực sẽ được đề cập đến trong tham luận này: phía Bắc của Sài Gòn (cho đến Cao nguyên miền Trung), đồng bằng sông Cửu Long (giữa Tiền Giang và Hậu Giang) và vùng đô thị Sài Gòn.
Sài Gòn và lục tỉnh: Đầu mối của các trục giao thông chính
Trước khi trở thành trung tâm của Nam Kỳ, thành phố Sài Gòn là đầu mối của các trục giao thông nối các tỉnh với nhau. Điều này được minh chứng trong đoạn trích sau đây trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh:
“Ở Sài Gòn, mình đi tàu Lục Tỉnh[1], nó chạy qua Mỹ Tho, lên Vĩnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc, rồi xuống Long Xuyên, Cần Thơ hay là mình đi xe lửa xuống Mỹ Tho rồi đi tàu nhỏ qua Cần Thơ cũng được” (Bỏ Vợ, 6 / 47)
Theo học giả Vương Hồng Sển, đó là tuyến giao thông thủy nối Sài Gòn với Phnom Penh qua các tỉnh của khu vực Tiền Giang (Mỹ Tho, Vĩnh Long, Châu Đốc…). Theo tác giả của “Sài Gòn Năm Xưa”, còn có một hãng tàu khác, hãng tàu Nam Vang, hoạt động ở khu vực các tỉnh thuộc Hậu Giang (nối Mỹ Tho với Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng…)
So sánh với số lượng xe hơi vào thập kỷ 30
Nhà văn mô tả sự phát triển dần dần của xe hơi tại khu vực Nam Kỳ, từ cuối Chiến tranh Thế Giới lần thứ nhất và sự phát triển bùng nổ của xe hơi vào những năm trước cuộc khủng hoảng năm 1930:
“Lúc ấy, trong Nam chưa có xe hơi nhiều như bây giờ, mà có cái nào thì chỉ chạy Sài Gòn-Chợ Lớn chớ dưới mấy tỉnh không có đường, nên không chạy được” (Con nhà nghèo, 28/100)[2].
Làng Bến Súc (Bình Dương, 1941)
“Bến Súc nằm dựa đường quản hạt số 14, là con đường chạy từ châu thành Thủ Dầu Một[3] lên mấy sở cao su miệt Dầu Tiếng, bởi vậy ngày như đêm xe hơi chạy ngang qua chợ nầy dập dìu. Bến Súc lại nằm trên một cái bưng lớn, ngó xuống phía mặt trời mọc, đất thấp lại được nhờ nước ngọt của ngọn sông Bến Nghé quanh co chan rưới, nên vườn tược thạnh mậu, hoa quả tươi tốt; còn dựa sau lưng, về phía mặt trời lặn, thì đất dốc cao, nên chỗ còn rừng bụi u nhàn, chỗ trồng cao su rậm rợp, chỗ làm ruộng rẫy chớn chở.
Nhờ địa thế như vậy, nên Bến Súc là một làng nhỏ nhỏ mà có cái thú lỡ chợ lỡ quê, và người sanh trưởng tại đó có cái thái độ nửa xưa nửa nay, về hình thức thì cư xử theo mới cũng như người chỗ khác, mà về tâm hồn thì chất phác theo cũ, không giống người chỗ khác. Địa thế ấy, người có chí ẩn dật hễ thấy thì yêu liền tâm hồn ấy, người còn trong luân lý hễ biết thì mến lắm” (Ái Tình Miếu, 1/84).
Đường xe hơi từ Sài Gòn đến Cần Thơ (1936):
“Nhà nước mới mở cái lộ quản-hạt cho xe hơi chạy từ Sài Gòn xuống Cần Thơ. Nhân dân ở dọc theo lộ nầy, thuở nay cứ xẩn bẩn trong chốn thôn quê lo lập vườn làm ruộng, phần nhiều chưa thấy những văn minh nơi thị thành, bởi vậy hễ nghe tiếng xe hơi chạy ồ ồ trên lộ, thì công cấy công mạ đương loi nhoi dưới ruộng đều xỏng lưng xây mặt mà ngó, còn trong xóm trong làng thì con nít người lớn đều bỏ nhà chạy ra sân đứng mà coi.” (Nợ Đời, 1/72)
Sự thâm nhập của xe hơi và việc những người thuộc tầng lớp trung lưu sở hữu xe hơi không chỉ phản ánh sự hiện diện của chế độ thuộc địa – người cai trị, những người làm nghề tự do, thương nhân – mà còn làm xuất hiện những nghề liên quan đến công nghiệp cơ khí và giao thông vận tải: thợ cơ khí (Bỏ Vợ, Chị Đào, Chị Lý…), nhân viên gara, người học việc, nhân viên trạm xăng…, đặc biệt là tài xế! Đến đây chúng ta nhớ đến người tài xế bị sỉ nhục và gây ra cái chết của ông Đốc phủ sứ trong truyện “Tiền bạc, bạc tiền”. Ngoài xe hơi, các phương tiện giao thông hiện đại khác như tàu hỏa, tàu thủy cũng góp phần làm thay đổi cảnh quan đô thị trong nền văn minh mới.
Trịnh Văn Thảo (Université Aix – Marseille, France)
https://i.imgur.com/fbMwzn5.png
Trong suốt thời kỳ thuộc địa, Sài Gòn là nơi thu hút các luồng di dân với những hệ quả trái ngược nhau: là nơi tuyệt đỉnh của sự thành công trong xã hội và trong nghề nghiệp hoặc ngược lại là đáy xã hội của sự thất bại, nghèo khổ và bấp bênh. Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thông qua sự lựa chọn nơi ở của người dân hai yếu tố đối lập trên thể hiện rất rõ: một bên là ở tại khu trung tâm với các đại lộ thoáng đãng, có người châu Âu và một số người bản địa giàu có cư ngụ, gần các trung tâm hành chính; còn bên kia là các khu vùng ven nghèo ví dụ khu Bàn Cờ, Khánh Hội, Cầu Kiệu, Xóm Chiếu, Ụ Tàu… nơi những người nghèo nhất trong xã hội quy tụ về; giữa hai thái cực đó là các khu vùng ven mới hình thành và là nơi sinh sống của những người thuộc tầng lớp trung lưu như khu Đa Kao, Phú Nhuận, Tân Ðịnh, Thị Nghè, Gò Vấp…
—Chợ Bến Thành xưa.
Chính Sài Gòn là nơi xuất hiện và phát triển mạnh những nghề gắn với sự hiện đại: những người áo cổ cồn trắng (tùy phái, kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, luật sư…) làm việc cho các cơ quan hành chính địa phương, trường học, bệnh viện và tòa án; những người áo cổ cồn xanh làm việc cho hãng đóng tàu Ba Son, các cửa hàng bán hàng, các ga-ra xe hơi; người khố rách áo ôm sống bằng nghề mua bán lặt vặt, ăn cắp vặt, mại dâm và các hoạt động phạm pháp khác. Ngoài ra còn phải đề cập đến cộng đồng người Hoa với tính năng động trong thương mại ở khu vực thành phố Chợ Lớn, kề cận Sài Gòn.
Không gian – thời gian trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, được thể hiện rõ trong tác phẩm đầu tiên (bằng tiếng việt) của nhà dân tộc học phương Nam, Vương Hồng Sển, “Sài Gòn năm xưa”. Thông qua các tác phẩm văn học và tác phẩm địa chí lịch sử của “hai chứng nhân gạo cội”, ta có thể tái khám phá thành phố rất sôi động và thân thương này.
Không gian địa lý và xã hội của Hồ Biểu Chánh
Mặc dù Hồ Biểu Chánh rất hiếm khi mô tả dông dài về các địa điểm (ông thích tập trung nhiều hơn vào tình tiết, tâm lý nhân vật và bối cảnh xã hội), nhưng tiểu thuyết của ông thường bắt đầu bằng vài dòng xác định bối cảnh địa lý và không gian, trừ một số địa điểm quen thuộc như quê hương của ông (Gò Công), khu nghỉ mát (Bến Súc ở Bình Dương), Đà Lạt. Ông có kiến thức rất sâu về những địa phương mình công tác và về Sài Gòn, nơi ông từng là nghị viên của Hội đồng thành phố. Có ba khu vực sẽ được đề cập đến trong tham luận này: phía Bắc của Sài Gòn (cho đến Cao nguyên miền Trung), đồng bằng sông Cửu Long (giữa Tiền Giang và Hậu Giang) và vùng đô thị Sài Gòn.
Sài Gòn và lục tỉnh: Đầu mối của các trục giao thông chính
Trước khi trở thành trung tâm của Nam Kỳ, thành phố Sài Gòn là đầu mối của các trục giao thông nối các tỉnh với nhau. Điều này được minh chứng trong đoạn trích sau đây trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh:
“Ở Sài Gòn, mình đi tàu Lục Tỉnh[1], nó chạy qua Mỹ Tho, lên Vĩnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc, rồi xuống Long Xuyên, Cần Thơ hay là mình đi xe lửa xuống Mỹ Tho rồi đi tàu nhỏ qua Cần Thơ cũng được” (Bỏ Vợ, 6 / 47)
Theo học giả Vương Hồng Sển, đó là tuyến giao thông thủy nối Sài Gòn với Phnom Penh qua các tỉnh của khu vực Tiền Giang (Mỹ Tho, Vĩnh Long, Châu Đốc…). Theo tác giả của “Sài Gòn Năm Xưa”, còn có một hãng tàu khác, hãng tàu Nam Vang, hoạt động ở khu vực các tỉnh thuộc Hậu Giang (nối Mỹ Tho với Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng…)
So sánh với số lượng xe hơi vào thập kỷ 30
Nhà văn mô tả sự phát triển dần dần của xe hơi tại khu vực Nam Kỳ, từ cuối Chiến tranh Thế Giới lần thứ nhất và sự phát triển bùng nổ của xe hơi vào những năm trước cuộc khủng hoảng năm 1930:
“Lúc ấy, trong Nam chưa có xe hơi nhiều như bây giờ, mà có cái nào thì chỉ chạy Sài Gòn-Chợ Lớn chớ dưới mấy tỉnh không có đường, nên không chạy được” (Con nhà nghèo, 28/100)[2].
Làng Bến Súc (Bình Dương, 1941)
“Bến Súc nằm dựa đường quản hạt số 14, là con đường chạy từ châu thành Thủ Dầu Một[3] lên mấy sở cao su miệt Dầu Tiếng, bởi vậy ngày như đêm xe hơi chạy ngang qua chợ nầy dập dìu. Bến Súc lại nằm trên một cái bưng lớn, ngó xuống phía mặt trời mọc, đất thấp lại được nhờ nước ngọt của ngọn sông Bến Nghé quanh co chan rưới, nên vườn tược thạnh mậu, hoa quả tươi tốt; còn dựa sau lưng, về phía mặt trời lặn, thì đất dốc cao, nên chỗ còn rừng bụi u nhàn, chỗ trồng cao su rậm rợp, chỗ làm ruộng rẫy chớn chở.
Nhờ địa thế như vậy, nên Bến Súc là một làng nhỏ nhỏ mà có cái thú lỡ chợ lỡ quê, và người sanh trưởng tại đó có cái thái độ nửa xưa nửa nay, về hình thức thì cư xử theo mới cũng như người chỗ khác, mà về tâm hồn thì chất phác theo cũ, không giống người chỗ khác. Địa thế ấy, người có chí ẩn dật hễ thấy thì yêu liền tâm hồn ấy, người còn trong luân lý hễ biết thì mến lắm” (Ái Tình Miếu, 1/84).
Đường xe hơi từ Sài Gòn đến Cần Thơ (1936):
“Nhà nước mới mở cái lộ quản-hạt cho xe hơi chạy từ Sài Gòn xuống Cần Thơ. Nhân dân ở dọc theo lộ nầy, thuở nay cứ xẩn bẩn trong chốn thôn quê lo lập vườn làm ruộng, phần nhiều chưa thấy những văn minh nơi thị thành, bởi vậy hễ nghe tiếng xe hơi chạy ồ ồ trên lộ, thì công cấy công mạ đương loi nhoi dưới ruộng đều xỏng lưng xây mặt mà ngó, còn trong xóm trong làng thì con nít người lớn đều bỏ nhà chạy ra sân đứng mà coi.” (Nợ Đời, 1/72)
Sự thâm nhập của xe hơi và việc những người thuộc tầng lớp trung lưu sở hữu xe hơi không chỉ phản ánh sự hiện diện của chế độ thuộc địa – người cai trị, những người làm nghề tự do, thương nhân – mà còn làm xuất hiện những nghề liên quan đến công nghiệp cơ khí và giao thông vận tải: thợ cơ khí (Bỏ Vợ, Chị Đào, Chị Lý…), nhân viên gara, người học việc, nhân viên trạm xăng…, đặc biệt là tài xế! Đến đây chúng ta nhớ đến người tài xế bị sỉ nhục và gây ra cái chết của ông Đốc phủ sứ trong truyện “Tiền bạc, bạc tiền”. Ngoài xe hơi, các phương tiện giao thông hiện đại khác như tàu hỏa, tàu thủy cũng góp phần làm thay đổi cảnh quan đô thị trong nền văn minh mới.