florida80
06-24-2020, 19:38
GS.TS. Nguyễn Thanh Liêm nguyên là Hiệu trưởng Petrus Kư – Sài G̣n, Chánh Thanh Tra trưởng ban soạn đề thi của Bộ Giáo Dục trong những năm 1965-1967, Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Ḥa trước năm 1975. Dưới đây là trích lược một phần tài liệu của ông về giáo dục miền Nam trước năm 1975.
https://i.imgur.com/Wg20CL1.jpg
Trước khi bị Pháp đô hộ, nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục cũ của Nho gia, gọi nôm na là “cái học của nhà Nho” như nhiều người thường nói. Nền giáo dục cũ này chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Hoa, từ chương tŕnh, sách vở, lối học đến cách thức thi cử. Tổ chức giáo dục xưa được Đào Duy Anh ghi lại như sau trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương:
“Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học tṛ khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian th́ xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học th́ có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm ngh́n học tṛ.”
Trường học th́ phần lớn là nhà riêng của ông thầy, hoặc ở chùa hay ở đ́nh, miểu trong làng. Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà Nho hơn là của quốc gia, không thuộc một cơ quan công quyền với sự tài trợ và kiểm soát đôn đốc của chính phủ. Không có một hệ thống tổ chức qui mô của một nền giáo dục quốc gia gồm đủ cơ sở và nhân viên giảng huấn và điều hành từ trung ương đến địa phương, từ cấp thấp (như tiểu học) lên cấp cao (như đại học).
Cảnh thầy đồ dạy học của Việt Nam xưa (Ảnh: wiki)
Chương tŕnh học th́ gồm có mấy quyển Tam Tự Kinh, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi, Dương Tiết và Minh Tâm Bửu Giám ở cấp vở ḷng, xong rồi lên trên th́ học Bắc sử (tức sử Tàu) và Tứ Thư Ngũ Kinh. Tất cả những sách này là sách gối đầu giường của Nho gia, chú trọng hầu hết vào triết lư, luân lư, đạo đức chứ không có một ư niệm khoa học kỹ thuật nào chen vào.
Phương pháp giảng dạy th́ phần lớn như Đào Duy Anh tả: “thầy th́ cứ nhắm mắt mà giảng chữ nào nghĩa nấy chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống Nho.” Phương pháp học hỏi th́ hoàn toàn dựa vào sự học thuộc ḷng thu gọn vào trong công thức “sôi kinh nấu sử” tức là học tới học lui măi cho đến khi nào thuộc nằm ḷng Tứ Thư Ngũ Kinh và Bắc sử. Người đi học thực tập nhiều nhất là viết chữ cho thật đẹp như “phụng múa rồng bay”, làm thơ, làm phú, kinh nghĩa, văn sách, chế chiếu, biểu, câu đối, cho thật nhanh, thật khéo và thật chỉnh, dùng được càng nhiều điển tích càng hay để có thể đậu được các kỳ thi do triều đ́nh tổ chức. (Có ba kỳ thi: thi Hương tổ chức ở một số địa phương để lấy Tú Tài; thi Hội và thi Đ́nh tổ chúc ở trung ương để lấy Cử Nhân và Tiến Sĩ).
Tất cả các kỳ thi đều là thi tuyển và chỉ nhắm vào một kỹ năng của thí sinh là làm văn làm thơ dưới nhiều dạng như thơ đường luật, kinh nghĩa, văn sách, v.v.. Thường th́ ba năm mới có một khoa thi, và đi thi là cả một vấn đề khổ nhọc cho sĩ tử v́ trường thi ở xa, đường giao thông khó khăn, phương tiện giao thông c̣n rất thiếu kém. Thi đậu được th́ có thể ra làm quan, không th́ lui về làm thầy đồ thầy khóa, “tiến vi quan, thối vi sư” vậy.
[…]
Giới sĩ phu là giới sát cạnh nhà vua, giúp vua trị nước, thuộc hàng ngũ lănh đạo quốc gia, là bậc thầy trong xă hội, đóng vai dẫn đầu, điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong mọi sinh hoạt bảo vệ và phát triển đất nước. Nước giàu dân mạnh hay suy nhược đói nghèo, trách nhiệm ở giới lănh đạo, ở Kẻ Sĩ, nhà Nho. Lớp trí thức Nho sĩ cũng như cái học cũ của Nho gia ngự trị trong xă hội Việt Nam từ thời Lư Trần cho đến khi có sự xâm chiếm và đô hộ của người Pháp hồi cuối thế kỷ XIX trong Nam và đầu thế kỷ XX ở miền Bắc và Miền Trung. Riêng trong Nam th́ v́ Nam Kỳ Lục Tỉnh chỉ mới được thành h́nh trọn vẹn từ giữa thế kỷ XVIII cho nên sự giáo dục ở đây chưa được tổ chức rộng răi, chưa có cội rễ ăn sâu vào ḷng đất như ở chốn ngàn năm văn vật của Thăng Long – Hà Nội.
Tính ra th́ Nho học chỉ có được chừng một thế kỷ ngự trị ở Phương Nam. Măi đến năm 1826 Miền Nam mới có vị Tiến Sĩ đầu tiên theo lối học xưa là cụ Phan Thanh Giản. Nhưng nền học vấn cổ truyền của Nho gia này ở Miền Nam chỉ mới có chừng trăm năm th́ bị sụp đổ hẳn bởi sự thất bại, suy vong của triều Nguyễn trước sức mạnh quân sự và nền văn minh khoa học kỹ thuật Âu Tây. Khi nền cai trị của chính quyền đô hộ Pháp được thiết lập xong th́ cái học nhà Nho cũng bị xóa bỏ để nhường chỗ cho cái học mới hay Tây Học.
[…]
Cái học mới này (tân học) diễn ra ở Miền Nam trước nhất vào cuối thế kỷ XIX sau khi người Pháp đặt xong nền đô hộ ở đây. Nền giáo dục mới này lấy giáo dục Pháp làm khuôn mẫu, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Trường học gồm có các trường công do chính phủ xây cất, đài thọ chi phí và kiểm soát, và một số trường tư của Thiên Chúa giáo hoặc của tư nhân.
Hệ thống giáo dục mới này được thiết lập nhằm hai mục tiêu:
(1) mục tiêu thực tiễn là đào tạo một số người biết tiếng Pháp, chữ Quốc Ngữ, và có chút kiến thức về văn minh Tây phương để làm công chức ở ngạch trật thấp phục vụ cho chính phủ thuộc địa, và
(2) mục tiêu lư tưởng là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.
Một số nhà trí thức Pháp tự cho họ cái sứ mạng cao cả là đem văn minh khoa học Âu Tây phổ biến khắp nơi. Đó là sứ mạng văn minh hóa (“mission civilisatrice”) tức là đi khai hóa các nước chậm tiến, kém văn minh, kém mở mang.
Người đầu tiên thực hiện chính sách đồng hóa văn hóa (cultural assimilation) đó ở Miền Nam là Thống Đốc Le Myre de Vilers. Ông là người dân sự đầu tiên được cử sang làm Thống Đốc Nam Kỳ từ năm 1879 đến 1892. Các ông thống đốc trước ông đều là những người bên quân đội, nhất là bên hải quân. Để thực hiện sứ mạng văn minh hóa dân bản xứ, ông cho mở rất nhiều trường ở mỗi làng và mỗi tổng cho cấp sơ và tiểu học. Tuy nhiên v́ thiếu hụt ngân sách và không đủ giáo chức cho nên nhiều trường chỉ được mở ra rồi liền sau đó lại đóng cửa thôi.
https://i.imgur.com/Wg20CL1.jpg
Trước khi bị Pháp đô hộ, nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục cũ của Nho gia, gọi nôm na là “cái học của nhà Nho” như nhiều người thường nói. Nền giáo dục cũ này chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Hoa, từ chương tŕnh, sách vở, lối học đến cách thức thi cử. Tổ chức giáo dục xưa được Đào Duy Anh ghi lại như sau trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương:
“Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học tṛ khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian th́ xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học th́ có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm ngh́n học tṛ.”
Trường học th́ phần lớn là nhà riêng của ông thầy, hoặc ở chùa hay ở đ́nh, miểu trong làng. Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà Nho hơn là của quốc gia, không thuộc một cơ quan công quyền với sự tài trợ và kiểm soát đôn đốc của chính phủ. Không có một hệ thống tổ chức qui mô của một nền giáo dục quốc gia gồm đủ cơ sở và nhân viên giảng huấn và điều hành từ trung ương đến địa phương, từ cấp thấp (như tiểu học) lên cấp cao (như đại học).
Cảnh thầy đồ dạy học của Việt Nam xưa (Ảnh: wiki)
Chương tŕnh học th́ gồm có mấy quyển Tam Tự Kinh, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi, Dương Tiết và Minh Tâm Bửu Giám ở cấp vở ḷng, xong rồi lên trên th́ học Bắc sử (tức sử Tàu) và Tứ Thư Ngũ Kinh. Tất cả những sách này là sách gối đầu giường của Nho gia, chú trọng hầu hết vào triết lư, luân lư, đạo đức chứ không có một ư niệm khoa học kỹ thuật nào chen vào.
Phương pháp giảng dạy th́ phần lớn như Đào Duy Anh tả: “thầy th́ cứ nhắm mắt mà giảng chữ nào nghĩa nấy chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống Nho.” Phương pháp học hỏi th́ hoàn toàn dựa vào sự học thuộc ḷng thu gọn vào trong công thức “sôi kinh nấu sử” tức là học tới học lui măi cho đến khi nào thuộc nằm ḷng Tứ Thư Ngũ Kinh và Bắc sử. Người đi học thực tập nhiều nhất là viết chữ cho thật đẹp như “phụng múa rồng bay”, làm thơ, làm phú, kinh nghĩa, văn sách, chế chiếu, biểu, câu đối, cho thật nhanh, thật khéo và thật chỉnh, dùng được càng nhiều điển tích càng hay để có thể đậu được các kỳ thi do triều đ́nh tổ chức. (Có ba kỳ thi: thi Hương tổ chức ở một số địa phương để lấy Tú Tài; thi Hội và thi Đ́nh tổ chúc ở trung ương để lấy Cử Nhân và Tiến Sĩ).
Tất cả các kỳ thi đều là thi tuyển và chỉ nhắm vào một kỹ năng của thí sinh là làm văn làm thơ dưới nhiều dạng như thơ đường luật, kinh nghĩa, văn sách, v.v.. Thường th́ ba năm mới có một khoa thi, và đi thi là cả một vấn đề khổ nhọc cho sĩ tử v́ trường thi ở xa, đường giao thông khó khăn, phương tiện giao thông c̣n rất thiếu kém. Thi đậu được th́ có thể ra làm quan, không th́ lui về làm thầy đồ thầy khóa, “tiến vi quan, thối vi sư” vậy.
[…]
Giới sĩ phu là giới sát cạnh nhà vua, giúp vua trị nước, thuộc hàng ngũ lănh đạo quốc gia, là bậc thầy trong xă hội, đóng vai dẫn đầu, điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong mọi sinh hoạt bảo vệ và phát triển đất nước. Nước giàu dân mạnh hay suy nhược đói nghèo, trách nhiệm ở giới lănh đạo, ở Kẻ Sĩ, nhà Nho. Lớp trí thức Nho sĩ cũng như cái học cũ của Nho gia ngự trị trong xă hội Việt Nam từ thời Lư Trần cho đến khi có sự xâm chiếm và đô hộ của người Pháp hồi cuối thế kỷ XIX trong Nam và đầu thế kỷ XX ở miền Bắc và Miền Trung. Riêng trong Nam th́ v́ Nam Kỳ Lục Tỉnh chỉ mới được thành h́nh trọn vẹn từ giữa thế kỷ XVIII cho nên sự giáo dục ở đây chưa được tổ chức rộng răi, chưa có cội rễ ăn sâu vào ḷng đất như ở chốn ngàn năm văn vật của Thăng Long – Hà Nội.
Tính ra th́ Nho học chỉ có được chừng một thế kỷ ngự trị ở Phương Nam. Măi đến năm 1826 Miền Nam mới có vị Tiến Sĩ đầu tiên theo lối học xưa là cụ Phan Thanh Giản. Nhưng nền học vấn cổ truyền của Nho gia này ở Miền Nam chỉ mới có chừng trăm năm th́ bị sụp đổ hẳn bởi sự thất bại, suy vong của triều Nguyễn trước sức mạnh quân sự và nền văn minh khoa học kỹ thuật Âu Tây. Khi nền cai trị của chính quyền đô hộ Pháp được thiết lập xong th́ cái học nhà Nho cũng bị xóa bỏ để nhường chỗ cho cái học mới hay Tây Học.
[…]
Cái học mới này (tân học) diễn ra ở Miền Nam trước nhất vào cuối thế kỷ XIX sau khi người Pháp đặt xong nền đô hộ ở đây. Nền giáo dục mới này lấy giáo dục Pháp làm khuôn mẫu, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Trường học gồm có các trường công do chính phủ xây cất, đài thọ chi phí và kiểm soát, và một số trường tư của Thiên Chúa giáo hoặc của tư nhân.
Hệ thống giáo dục mới này được thiết lập nhằm hai mục tiêu:
(1) mục tiêu thực tiễn là đào tạo một số người biết tiếng Pháp, chữ Quốc Ngữ, và có chút kiến thức về văn minh Tây phương để làm công chức ở ngạch trật thấp phục vụ cho chính phủ thuộc địa, và
(2) mục tiêu lư tưởng là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.
Một số nhà trí thức Pháp tự cho họ cái sứ mạng cao cả là đem văn minh khoa học Âu Tây phổ biến khắp nơi. Đó là sứ mạng văn minh hóa (“mission civilisatrice”) tức là đi khai hóa các nước chậm tiến, kém văn minh, kém mở mang.
Người đầu tiên thực hiện chính sách đồng hóa văn hóa (cultural assimilation) đó ở Miền Nam là Thống Đốc Le Myre de Vilers. Ông là người dân sự đầu tiên được cử sang làm Thống Đốc Nam Kỳ từ năm 1879 đến 1892. Các ông thống đốc trước ông đều là những người bên quân đội, nhất là bên hải quân. Để thực hiện sứ mạng văn minh hóa dân bản xứ, ông cho mở rất nhiều trường ở mỗi làng và mỗi tổng cho cấp sơ và tiểu học. Tuy nhiên v́ thiếu hụt ngân sách và không đủ giáo chức cho nên nhiều trường chỉ được mở ra rồi liền sau đó lại đóng cửa thôi.