Log in

View Full Version : Sài Gòn tui có thật nhiều “xóm”


florida80
06-27-2020, 18:32
Xóm là một danh từ thuần Việt. Chữ “Xóm tui” nghe thật thân thương gần gũi, một danh xưng xuất phát tự đáy lòng của Dân Nam Kỳ lục tỉnh. Ngày xưa, chòm xóm là một tập hợp những “người bỏ xứ” vô Nam khai phá lập nghiệp trên miền đất mới, họ ở kế bên nhau, nương tựa giúp đỡ nhau lúc ốm đau, tối lửa tắt đèn. Xóm là những mái nhà quây quần sống gần nhau có chung cái giếng, cây cầu. Họ chia sẻ buồn vui khi nhà hàng xóm hữu sự. Xóm là một cộng đồng không thể thiếu trong văn hóa đời sống Việt!

Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên
Hương lúa ngọt tình quê thêm trìu mến.

Sài Gòn Gia Định có khoảng 60 xóm, Riêng Gò Vấp đã có hơn 10 cái.
Xóm Thuốc ngày nay còn cái nhà thờ giáo xứ Xóm Thuốc đuợc thành lập năm 1954 trên đường Quang Trung. Nhà thờ của Dân Bắc Kỳ 54 mới đây. Xóm Thuốc là nơi trồng cây thuốc lá, để mấy ông già quấn vô giấy quyến hút kêu là thuốc rê Gò Vấp:

https://i.imgur.com/qagpxWH.jpg


Thuốc Gò Vấp ngon lắm anh ơi
Giấy quyến rộng khổ, anh bỏ tôi sao đành?

Sau này Xóm Thuốc gia công trồng thuốc lá cho hãng Bastos, Mélia của Pháp. Ngày nay do đô thị hóa, Xóm Thuốc ko còn trồng thuốc lá nữa.

Xóm Mới nổi tiếng nhứt ở Gò Vấp, tỉnh Gia Định vì là nơi của Dân di cư chỗ ở “mới” thành lập vào năm 1954.

Xóm Gà ở góc Nguyễn Văn Đậu Lê Quang Định, hẻm chùa Dược Sư. Xóm này nuôi gà đá cho trường gà của Tả quân Lê văn Duyệt trên lộ làng 15.

Xóm Thơm là nơi trồng trái thơm, có cái ga xe lửa cùng tên (ga Gò Vấp) trên đường Lê Lai.

Xóm Lư là xóm làm lư đồng ở làng An Hội ở khúc Quang Trung, Phan Huy Ích.

Mé quận 4, thủ đô “giang hồ” có cái xóm nổi tiếng dữ lắm, đó là Xóm Chiếu. Xứ này của thôn Khánh Hội và Bình Ý nằm gần mé kinh Bến Nghé và sông Sài Gòn. Đất cù lao, nước lên xuống toàn bưng sình, mọc đầy cây bàng và cỏ lác. Làng nghề Xóm Chiếu và chợ Xóm Chiếu ra đời ở đây.

Mé Q.5 có Xóm Cải từ Nguyễn Trãi tới Mạc Thiên Tích. Xóm Cải của đất Chợ Lớn xưa, là nơi đất gò, nơi cư ngụ của những người chuyên nghề trồng rau cải để bán.

Xế cầu Chà Và có Xóm Chỉ ở đường Tản Đà, dân vùng này chuyên làm nghề kéo chỉ. Có cái cầu sắt nhìn ốm nhách khẳng khiu tên cầu Xóm Chỉ .

Xóm Vôi đất Chợ Lớn là nơi dân chuyên chở đá vôi từ vùng Hà Tiên lên để… ăn trầu và sơn tường.

Xóm Củi xưa kia là vùng đất hoang, sình lầy, là bến lên củi và vựa chứa củi từ ghe thuyền miền Tây lên. Xóm Củi xưa là đất trũng, nước lên xuống hầu như không có người ở.

Mé quận 3 có cái cầu Kiệu được Trương Vĩnh Ký ghi cầu Xóm Kiệu, xưa chuyên trồng củ kiệu.

Xóm Lách là con hẻm nối Yên Đỗ với Công Lý ra kinh Nhiêu Lộc xưa trồng xà lách bán cho Tây.

Xóm Cối Xay ở chợ Cây Da Thằng Mọi khúc dinh Gia Long. Trong bài Gia Định phú có câu: “Xóm Cối Xay làm tở mở, chồng sửa họng vợ đục tai.”

Xóm Vườn Mít ở đường Công Lý khúc Tòa án.

Xóm Bột từ bệnh viện Chợ Quán tới bệnh viện Nguyễn Trãi chuyên sản xuất các loại bột, trong bài Phú Gia Định có câu: “Ngoài Xóm Bột phơi phong trắng dã, nhiều bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai”.

Đối diện với Bến Ngự (Cột cờ Thủ ngữ) phía Thủ Thiêm, gọi là xóm Thủy tặc hoặc xóm Tàu Ô. Có nhiều tay trộm chuyên leo lên tàu nước ngoài khoắng đồ như Tàu Ô.

Xóm than Thủ thiêm là kho than của Pháp xây đựng chất đốt cho Tàu Xe thời đó.



Xóm Bình Khang là tên hoa mỹ dành cho nhà chứa, nơi các kỹ nữ ở . 平康 Bình Khang thực ra là tên một làng ở ngoại ô thành Trường An đời Đường, nơi cư ngụ của các các kỹ nữ. Ở Sài Gòn vào năm 1953 – 1954, xóm Bình Khang Cây Điệp nằm trên đường Vĩnh Viễn-Petrus Ký.

Trong thư tịch cổ ở Chợ Lớn xưa có Xóm Huê Nương (Xóm Lồng Đèn) ở khu vực KS Đồng Khánh, không phải Xóm Lồng Đèn ở xóm đạo Phú Bình quận 11.

Có nhiều cái xóm đã biến mất tiêu trong thực tế, nay chỉ còn trên thư tịch.

Ai biết lịch sử Xóm nào ở Sài Gòn nữa… Xin chỉ giáo, cám ơn!

Theo Facebook Dansaigonxua

Lnd
06-28-2020, 12:43
Xóm "Nhà Lá" ở đâu cũng có ở VN, càng lúc càng nhiều sau 1975 ;)

Gibbs
03-20-2024, 07:01
Còn ai nhớ tới Chợ Quán của đất Sài Gòn?
Nguyễn Gia Việt
Nếu kêu nhắc tới những khu, những xóm đặc biệt, có dấu ấn kiểu Sài Gòn Gia Định thì chúng ta phải nhớ về Chợ Quán
Chợ Quán là vùng đất học vì nơi đây có tư gia của học giả Trương Vĩnh Ký, ông dạy học ở đậy những năm sau chót, sau có nhà mồ của ông
Học giả Petrus Ký có công với chữ Quốc Ngữ, cũng nên nhắc về Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Tràn Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh…
Ngôi nhà cổ và khu mộ của Petrus Ký nằm ở đất làng Chợ Quán ngay góc Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, chính xác tại số 520
Đi uống café ở quán Katrina xế đó phải qua khu mộ gửi xe, chúng ta bước vô khu lăng mộ của Trương Vĩnh Ký tự thấy lòng con cháu Nam Kỳ có gì đó rất kỳ lạ, lịch sử Nam Kỳ nằm lẳng lặng qua bao đổi thay của dòng đời và lịch sử, của tình người và chánh trị
1. Chợ Quán ơi!
Ngày nay cái tên Chợ Quán đã bị lịch sử sau 1975 đè biến gần như mất tiêu, mà khi nói tới Chợ Quán các bạn trẻ sẽ khựng lại mà đôi khi không biết
Chợ Quán là tên một vùng nỏi tiếng của Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định xưa, nó từng một thời lừng lẫy dấu tích của những người lưu dân khai hoang định hình nên đất Sài Gòn
Vùng Chợ Quán khá rộng ở Chợ Lớn xưa
Có cái chợ tên là Chợ Quán tức là chợ Tân Kiểng lập năm 1748 trên đất xóm Lò Rèn Thợ Vắp làng Tân Kiểng, đáng lẽ gọi là Tân Cảnh nhưng “né” ông hoàng tử Nguyễn Phước Cảnh nên đọc trại thành Tân Kiểng. Chợ này nay là ở khúc Trần Hưng Đạo và Huỳnh Mẫn Đạt, chợ khá lớn
"Kẻ vào Chợ Quán, ra Bến Nghé
Người xuống Nhà Bè, lên Đồng Nai"
Sử Miền Nam chép rằng khoảng năm 1770, tại khu chợ Tân Kiểng có con cọp hung dữ thường vào làng bắt heo, bắt dê và bắt người. Một hôm gần Tết, cọp lại về. Hai sư có võ là Hồng Ân và Trí Năng đánh cọp. Tuy giết được cọp nhưng sư Hồng Ân bị thương nặng và qua đời
Thống kê cho thấy lòng vòng Sài Gòn Gia Định thôi mờ có tới 54 cái Xóm chánh thức, thí dụ : Xóm Quán, Xóm Than, Xóm Thuốc, Xóm Trại, Xóm Bột, Xóm Bưng, Xóm Cải, Xóm Chiếu, Xóm Chùa, Xóm Cối, Xóm Củi, Xóm Dầu, Xóm Đình, Xóm Lụa…
Xóm Quán là Chợ Quán
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị giải thích xóm là một chỏm nhà ở, tương đương với một thôn
Nhưng xóm không phải là một đơn vị hành chánh của chánh quyền, nó chỉ có tính chất gia tộc, hàng xóm gần nhau thôi
Xóm thoạt tiên nghĩ ngay tới những cái nhà gần nhau ở một vùng quê, không phải thị thiềng. Nhưng Sài Gòn xưa vẫn có xóm
Từ cái xóm ta đọc được thuật ngữ ”xóm giềng”, chòm xóm và hàng xóm ám chỉ người chung xóm với nhau
Chòm xóm là từ rặc văn hóa Nam. Người Lục Tỉnh kêu “chòm” tức là “chùm”, chòm xóm là những người ở chung xóm, trong những cái nhà quây quần kế bên nhau
Từ cái xóm tới cái làng, nó lên hành chánh và lớn rộng hơn
Vùng Chợ Quán thuộc 3 làng Tân Kiểng, Nhơn Giang (Nhơn Ngãi), Bình Yên
Làng Tân Kiểng có danh “Xóm lò rèn thợ vắp”, làng Bình Yên sanh kế bằng nghề đổi chác với ghe thuyền từ Huế, Trung Kỳ vô Nam. Trong làng Bình Yên có cái giếng nước kê đá hộc lớn, ông Trương Vĩnh Ký thuở sanh tiền thường khen giếng này nước ngọt nấu trà thơm ngon không nước giếng nào bì
Chơ Quán là nơi tọa lạc của nhà thờ Chợ Quán, đây là họ đạo Công Giáo kiểu Miền Nam lâu đời nhứt nhì của Sài Gòn. Giáo xứ có từ năm 1723 và nhà thờ xây lớn xây từ năm 1896
Nhắc tới Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán chúng ta nhớ tới bà Nam Phương Hoàng Hậu vì bà có người cô thứ bảy là sơ Maria Nguyễn Thị Gương làm Mẹ Bề trên Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán từ 1934 tới 1940. Cô Bảy qua đời vào ngày 28/9/1944
Nhà đèn Chợ Quán tức nhà máy nhiệt điện Chợ Quán cũng có từ 1896
Nhà thương Chợ Quán (Nay là bịnh viện Nhiệt Đới) cũng là nhà thương lâu nhứt Sài Gòn và Nam Kỳ lục tỉnh, có từ năm 1862
Dân Nam Kỳ dễ thương lắm! Bịnh viện kêu là nhà thương vì trong đó có nhiều bà phước chăm sóc người bị bịnh như mẹ, như chị , kêu nhà thương Chợ Quán vì nó nằm ở vùng Chợ Quán
Nhà đèn Chợ Quán là nơi phát ra điện cho đèn điện nó sáng nên kêu là nhà đèn
2. Chợ Quán là đất bên vợ của học giả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898)
Petrus Ký lấy vợ năm 1861, bà vợ tên là Vương Thị Thọ là con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang. Cuộc hôn nhơn này do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang (Chợ Quán) làm mai mối
Học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837 –1898) là nhà văn hóa Miền Nam lẫy lừng, ông tổ của truyền bá chữ Quốc Ngữ
Ta biết ông khi mới sanh có tên là Jean-Baptiste Pétrus Trương Chánh Ký, là con lãnh binh Dominico Trương Chánh Thi và bà Maria Nguyễn Thị Châu
Đạo Gia Tô là một tôn giáo lớn, có trật tự, có hệ thống, chánh kiến, giáo lý tồn tại hơn hai ngàn năm
Khi Gia Tô vào Việt Nam đụng độ với Nho giáo cũng là một đạo lý có hệ thống và truyền thống từ nhiều ngàn năm. Mà Nho giáo là đạo cai trị chánh trị ở VN nữa
Cái đụng độ theo tui cốt lõi là vấn đề thờ ông bà tổ tiên và chánh trị cầm quyền
Kitô giáo xưa thờ Chúa Ba Ngôi mà thôi, trong khi Nho giáo yêu cầu phải thờ tổ tiên. Thành ra có bức đạo, và tới công đồng Vatican thứ II (1962-1965) thì Tòa Thánh La Mã mới hiểu ra vấn đề và cho kính thờ tổ tiên
Cái nữa là 3 ngôi của Nho giáo “Quân-Sư-Phụ” cùng Thiên Chúa Ba Ngôi của Ki Tô cũng hoàn toàn khác nhau .Vai trò của Hoàng Đế bị lu mờ
Mà coi kỹ thì bản thân Trương Vĩnh Ký hồi xưa cũng Nho giáo
"Ở đời trung đạo chớ thiên
Vui theo Nho đạo là bên chánh đồ"
(Trương Vĩnh Ký -Sơ học vấn tân Quốc Ngữ diễn ca 1884)
Thử đọc lại một đoạn văn của ông Trương Vĩnh Ký cắt nghĩa Tam Cương ( Và ngũ thường) trong Thông Loại Khóa Trình, số 2 như sau:
"Ở dưới đời, người ta không phép sanh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị, gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước
Vì vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được
Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng-an. Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền"( Hết trích)
Petrus Ký không nhập tịch Pháp, không chịu mặc Âu phục, ông khư khư áo dài khăn đóng, không chộp lấy cơ hội làm giàu ở buổi ban đầu
"Khi Đốc phủ Trần Tử Ca gởi thơ hỏi tại sao ông không vào Pháp tịch, Petrus Ký đã trả lời:
“Tại sao tôi không vô dân Tây?
Tôi lấy sự ấy làm trái tự nhiên không ăn thua vào đâu cũng như chuyện đời xưa bên Tây nói con kên kên lượm lông công giắt vào mình rồi nhảy vào bầy công
Cách ít lâu, công khi đầu không dè, liền cắt rứt nhổ lông công đi, đánh cò bơ cò bất xơ xác đuổi đi
Túng mới lộn về bầy cũ của mình.Bọn nó biết vì kiêu ngạo muốn đánh bầy với công là giống sang, giống trọng hơn mình, nên khi nó lỏn lẻn trở về thì phân nó ra xua đuổi cắn xé xơ bơ tất bất...
Thật như vậy,không lý trời sanh tôi ra là con quạ bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò làm sao đặng?”
Petrus hay Jean Baptiste là tên thánh, không phải tên quốc tịch Tây, là vì ông có chịu nhập tịch Tây đâu, khăng khăng giữ cái Việt, cái An Nam từ trong máu ra ngoài
Nội cái tánh này thôi cũng đủ hậu thế chúng ta khâm phục ông lắm rồi
Đi năm châu bốn biển vẫn áo dài khăn đóng, mang guốc vông, giữ cái búi củ tỏi trên đầu để thờ ông bà tổ tiên
Ông thông thạo, thấm nhuần văn minh, học thuật Âu Tây nhưng vẫn giữ phong cach của một nhà nho An Nam
Petrus Ký là người Công Giáo Nam Kỳ, thành thử ra giọng văn ông rặc Nam. Ông là nhà văn đầu tiên phô bày cái đặc trưng Nam Kỳ này
Ông nhận mình là con quạ đen An Nam gốc. Cả đời Petrus Ký chỉ dạy học và viết sách
"Thấy sao kể vậy từ đi mới về
Tiếng quê kệch dầu chê cũng chịu
Lời thật thà miễn hiểu thời thôi
Trải xem những chuyện qua rồi
Thì hay họa phước do nơi lòng người"
Những năm cuối đời Petrus Ký lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông lấy việc dạy học cho đám con nít trong vùng làm vui dù sống trong cảnh tằn tiện
Petrus Ký qua đời ngày 1/9/1898 thọ 62 tuổi, an táng ngay trên khu đất tộc góc ngã tư đường Trần Hưng Đạo – Trần Bình Trọng
"Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời
Học thức gửi tên con sách nát
Công danh rốt cuộc cái quan tài
Dạo hòn lũ kiến men chân bước
Bò xối, con sùng chắc lưỡi hoài
Cuốn sổ bình sanh công với tội
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.”
Trước 1975 không phải tự nhiên mà người Quốc Gia đặt tên cho đại lộ Petrus Ky ở ngã 7, là vì nó dẫn về vùng Chợ Quán của học giả Petrus Ký
Sau 1975 thấy Petrus Ký bị “giai cấp” quần tơi tả, Học giả Vương Hồng Sển nhận xét về người có công với chữ Quốc Ngữ như sau:
“Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của là ba ông minh triết bảo thân, gần bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham đục nước béo cò như ai, thấy đó mà mừng thầm cho nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn người xứng danh học trò cửa Khổng…”.
Đất Chợ Quán còn có ông huyện hàm Dominique-Thomas Trịnh Khánh Tấn (1856- 1913) là người Công giáo đạo đức, gương mẫu
Ngày nay tại hẻm 472 đường Trần Hưng Đạo (quận 5) còn ngôi nhà mồ cổ của ông bà huyện hàm Chợ Quán Trịnh Khánh Tấn
Trên bia mộ ghi rõ:
"Dominique-Thomas Trịnh Khánh Tấn, Tri huyện. Nằm huyệt này, chờ ngày sống lại hiển vinh. Sanh năm 1856. Qua đời ngày 23 Janvier 1913. Nguyện cho người này lên chốn nghỉ ngơi"
Sanh thời ông Trịnh Khánh Tấn có soạn cuốn sách dạy thiếu nhi, nam nữ thanh niên ăn ở cho phải đạo. Đó là cuốn “Học tập qui chánh” được viết bằng thể thơ lục bát với 1.850 câu đơn giản
"Nhi Nam, nhi Nữ, đôi đàng
Thầy khuyên học Lễ, học Văn cho thành
Cứ điều lánh dữ, làm lành
Say vui đạo vị, tánh thành con thơ
Chẳng may xao lãng bơ thờ
Song le mùi đạo bây giờ còn trông
Ăn năn trở lại thì xong
Con tin cậy Chúa, con mong thiên đàng"
Ông huyện hàm lên án tục ăn trầu là dơ. Đọc câu thơ thấy chữ "xảnh xẹ" đã có cách đây hàng trăm năm rồi:
“Nết na xảnh xẹ con chừa
Trầu cau cũng phải một vừa hai khi
Ăn trầu nhển đổ dị kì
Nào cằm, nào miệng, li bì kể chi
Nhai thôi nhí nhách liền xì
Miệng mồn đóng quách coi khi đã già
Ăn trầu giỏ bậy dơ nhà
Vào trong nhà thánh cũng là không kiêng
Ăn trầu con đã tốn tiền
Lại còn dùng quá, nên ghiền ngày đêm
Ngủ ngậm trầu, không nói thêm
Thuốc ăn một cục nhét kềm trên răng
Buồn, vui, cứ xỉa lăng xăng
Kéo qua, kéo lại siêng năng ai bường
Ăn vôi dường tợ ăn đường
Trầu đầy ô quả, cau thời hiếm dư"
Tiếc rằng sau 1975 vật đổi sao dời, địa danh Chợ Quán đã bị biến mất hoàn toàn, chỉ còn trơ trọi cái nhà thờ Chợ Quán
Té ra bên Công Giáo họ giữ cái ban sơ tốt hơn những người cầm quyền nữa
Như đã nói ở trên, nhà thờ Chợ Quán là một trong những trung tâm Công giáo rặc ròng kiểu Miền Nam xưa
Trong lịch sử Nam Kỳ Lục Tỉnh phải nói là giáo dân Công Giáo không nhiều, mà Công Giáo Nam Kỳ khác Công Giáo Bắc dữ lắm
Người Công Giáo Nam Kỳ rất thế tục khi sống xen kẽ với người các tôn giáo khác rất vui vẻ hòa đồng
Nam Kỳ không có kiểu dân giáo xứ sống khép kín tập trung từng khu cách biệt như tiểu quốc như người Bắc
Người Nam Kỳ theo Tam Giáo nhiều, thành ra sự cởi mở giữa cộng đồng gắn kết sâu nặng. Người Nam rất ôn hòa,tính cách lưu dân
Hồi ký cùa Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, một quân nhân trong đạo quân viễn chinh đánh chiếm thành Gia Định năm 1859 cuốn “Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861” nhận xét tính cách dân Nam Kỳ như sau :
“Người Nam Kỳ rất ôn hòa, dễ sai bảo mặc dù sức phản kháng của họ cũng rất mạnh"
Nói chung là dân Nam Kỳ hiền lành không lươn lẹo, ống chan hòa, có tính trung nghĩa, không gia phả, chẳng nhà thờ họ, trọng thị sự dân chủ tự do, không thích múa lưỡi, có cái dũng
Vì do sống bên cạnh châu thổ Cửu Long rộng lớn,đất nhiều thưa dân, sông rạch lắm cá nhiều tôm, sự đói kém không thể có , dầu cơ cực vẫn có cái ăn, không bức bối đường cùng nên tính cách dân Nam Kỳ vẫn nhẹ nhàng không quá cực đoan trong mọi mặt
Ta biết Công Giáo Nam Kỳ xưa được truyền đạo vào lâu không thua Miền Bắc. Miền Nam có nhiều họ đạo lâu đời
Hồi xưa người Ki Tô ở Nam Kỳ so với tỷ lệ dân các đạo khác không nhiều
Năm 1919, thời Pháp trị, Nam Kỳ có 21 tỉnh với 3 triệu 62 ngàn dân. Người Công Giáo trên toàn Nam Kỳ có 70 ngàn. Sài Gòn có chừng 4.000 giáo dân thôi
Công Giáo Miền Nam mềm mỏng, hoà đồng, phân biệt giới hạn lằn ranh giữa đạo và đời, còn Công Giáo Miền Bắc chậm thích ứng trong hội nhập
Nhìn lịch sử "bức đạo" thời Nguyễn thấy rõ ràng các ông quan người Nam Kỳ cũng “bức đạo” nhẹ nhàng hơn các ông quan Trung và Bắc đi vào, những vụ giết đạo khi xưa trong Nam toàn là do các quan của 2 xứ ngoài kia vô Nam làm
Người Công Giáo Miền Nam còn ai nữa? Là ông bà Huyện Sĩ, là ông bà Nguyễn Hữu Hào
Bà Nam Phương Nguyễn Hữu Thị Lan có tính cách Miền Nam rặc. Cả đời bà Nam Phương chưa gây một điều tiếng nào. Người ta có thể nói này nọ với vua Bảo Đại,nhưng với bà Nam Phương chỉ có lời khen
Phu nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu là một người đàn bà Nam Kỳ quê Mỹ Tho hề hà không có cái kênh kiệu vênh váo của một phu nhân có quyền thế
Bà Thiệu Nguyễn Thị Mai Anh là người đàn bà mặn mòi, duyên dáng kiểu khuôn phép của Công Giáo Mỹ Tho, không quá cuồng đạo, có chút kiểu Khổng Mạnh, có cái kín đáo của người Nam Kỳ xưa
Người Công Giáo Miền Nam có gì đó rất hòa mình,nghiêm trang và cởi mở
Các khu Công Giáo ở Chợ Quán, Mỹ Tho, Cái Nhum, Cái Mơn, Cù Lao Giêng trầm mặc yên ả
Người Miền Nam khá thoáng, người không có đạo Công Giáo vẫn đi nhà thờ xem lễ, chỉ là không rước lễ mà thôi
Trong dòng văn học Miền Nam có một dòng văn chương Công Giáo rất hay mà hình như trong sách giáo khoa đã bỏ qua
Người trong đạo cũng luôn lấy văn học Công Giáo kiểu Bắc ra làm chứng mà bỏ luôn kiểu Miền Nam
Xin đọc lại một bài "Biện Phượng và Biện Du Vãn" in năm 1914 tại Sài Gòn của Trịnh Khánh Minh
Bài vãn theo giọng văn Miền Nam rặc, y chang những lời thơ kiểu Đồ Chiểu
Câu chuyện xảy ra ở huyện Bình Dương, làng Nhơn Giang (Chợ Quán) tỉnh Gia Định thời vua nào không nói rõ, có lẽ là Tự Đức những năm đầu
"Có người ở huyện Bình Dương
Trịnh ông mỹ hiệu, nghiệp thường nhu gia
Quê hương gốc tích đất nhà
Tại nơi Chợ Quán, làng là Nhơn Giang
Kết cùng Huỳnh thị bạn vàng
Tu nhơn tích đức,ơn ban phước nhà
Ông bà đạo đức hiền hòa
Trổ sanh vốn đặng vậy mà bảy con
Hai trai, năm gái vuông tròn
Tử tôn miêu duệ,nay còn dấu noi
Kính tin đạo Chúa hẳn hòi
Ơn trên Chúa cả sáng soi phù trì
Kể đây hai đứng nam nhi
Anh tên Khánh Phượng, em thì Khánh Du
Mẹ cha cũng lắm công phu
Tập tành đạo đức văn Nhu liền liền"
Sự biến năm 1885 khi liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Định, dân tình xấc bấc xang bang
"Khi năm Mậu Ngũ, (1858) như thường bằng an
Kỉ Vì (1859) năm ấy vừa sang
Tháng giêng mùng tám rộn ràng binh nhung
Tư bề súng nổ đùng đùng
Ai ai nghe cũng hãi hùng tâm kinh
Sau nghe mới rõ sự tình
Lang sa Đại quấc, cử binh qua rày
Tàu đồng vào cửa nhắm ngay
Ầm ầm máy chạy khói bay tối trời
Cần Giờ đồn trại các nơi
Bắn cho một hiệp tả tơi còn gì"
Hai ông Biện Du, Biện Phượng bị hàng xóm tố giác là dân có đạo Ki Tô và có cộng tác với Pháp:
"Làm đơn lên tỉnh cáo gian
Biện Du, Biện Phượng rõ ràng đầu Tây
Bội quân phản quấc như vầy
Chúng tôi cáo bạch, ra đây tỏ tường
Hai người, hai ngựa dẫn đường
Mai Sơn đồn ấy,Tây dương phá rày"
Quan bắt hai anh em ông Biện Du,Biện Phượng và tra tấn:
"Đánh sao dường thể khai mương
Thịt văng, máu chảy giống dường bằm nem
Mỗi người mấy chục đã thèm
Đóng gông thiết diệp dẫn đem ngục hình
Khổ hình độc dữ nên kinh
Cổ mang gông lớn, xót tình thảm thay
Chơn thì trăng vấn tối ngày
Gian nan cực khổ đắng cay trăm đàng"
Hai ông than trách triều đình:
"Thành trì tan nát xạc xài
Đánh Tây thì dở, có tài đánh dân
Khảo tra chẳng biết mấy lần
Ngày qua tháng lại không cần nhọc công"
Hai anh em không nhận đầu Tây, nhưng bị ép bỏ đạo Chúa thì nhứt quyết không bỏ:
"Lo bề kết án cho xong
Tra đi hỏi lại lòng vòng mất công
Đầu Tây hướng đạo dầu không
Tội không xuất giáo,khó trông khỏi rày"
Hai anh em sẵn sàng chết vì đạo:
"Thế thường úy tử tham sanh
Chết vì đạo Chúa, thơm danh đời đời"
Hai ông bị hành quyết ở Ổ Gà Thới Nhì, bà vợ mướn xe trâu đào xác đem về Chợ Quán
Con Biện Phương là Trịnh Khánh Minh sau viết bài vãn này
Kết bài là mấy câu thơ nói lên đức tin:
"Cúi xin Đức Mẹ cầu thay
Biết đàng lánh tội hôm mai giữ gìn
Hầu sau lên chốn thiên đình
Ấy là quê thật trường sinh đời đời
Kính tôn Chúa cả ba ngôi
Hiệp vầy hai đứng tại nơi thiên đàng
Linh hồn rày đã hiển vang
Hằng ngày vui vẻ hỉ hoan chẳng cùng"
Nói thực ra, cũng có một số dân Công Giáo thời đó đầu Tây và dẫn đường vì họ để bụng chuyện bắt đạo. Tuy nhiên không phải là tất cả
“Thơ Nam Kỳ”(Ou, Lettre Cochinchinois, Traduit Par M. D. Chaigneau, Imprimerie Nationale, Paris, 1876) của người Công giáo Nam Kỳ có những câu sau:
“Nam Kỳ vừa thuở thanh nhàn
Xả dân an nghiệp mở mang gia đình
Thoả thanh nông phố thới bình
Kỷ mùi xảy thấy thình lình Tây qua
Tai nghe tiếng súng vang xa
Chạy vào Tắc nghĩa chẳng nài ngược ngang
Giặc này đạn pháo nang cừ
Quan quân thầm lắc bấy chừ khôn toan
Vừa rồi dân chúng khắp dành
Đem nhau coi giặc bộ hành dầm xuân
Liếc xem giặc lạ trưng trưng
Đoái nhìn thành thị lụy trường hột sương …”
Đọc mấy câu thơ thấy rõ dân Công Giáo Nam Kỳ thời đó coi Tây là "giặc"
Bài về Chợ Quán đã dài, xin kết thúc ở đây.