Log in

View Full Version : NHỮNG ĐIỀU C̉N HIỂU SAI VỀ ĐỊNH CƠI ĐẤT PHƯƠNG NAM


luyenchuong3000
08-09-2020, 18:54
Thành phần cư dân nào khẩn hoang lập ấp đất phương Nam (tức "Nam Kỳ", theo cách gọi thời vua Minh Mạng sau này)?
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1633153&d=1596999245
Trước hết, xin có mấy ḍng chú thích. Về mặt địa lư, nước Việt có ba miền: miền Nam, miền Trung, miền Bắc; c̣n về mặt phân chia địa giới chánh trị th́ có hai miền: miền NAM, miền BẮC (đây dùng chữ in hoa, cho dễ phân biệt so với miền theo địa lư ghi chữ in thường).
Tỉ như NAM - BẮC giai đoạn 1954-1975; và giai đoạn xưa kia là NAM (Nam hà, phía Nam sông Gianh trở vô, tức Đàng Trong) - BẮC (Bắc hà, phía Bắc sông Gianh trở ra, tức Đàng Ngoài) kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi lận.
A) Nhắc lại việc phân tranh Đàng Trong với Đàng Ngoài: khi nổ ra cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai Đàng vào năm 1625 (cả thảy có bảy cuộc đại chiến), kể từ lúc đó hai Đàng đoạn giao, chấm dứt thông thương đi lại.
Tỉ như những ai sinh ra đời ở ngoài BẮC trong năm 1625 và được cha mẹ kịp đưa vô trong NAM (trước thời điểm hai Đàng "đóng cửa", chấm dứt qua lại). Vậy, tính cho tới năm 1658 (chính thức mở đất, với qui mô lớn, tiến vào Thủy Chân Lạp), thế hệ đó được ngoài 30 tuổi, đang sức trai tráng. C̣n cha mẹ của họ th́ cũng đă lớn tuổi.
Thành thử trong giai đoạn đầu tiến vào Thủy Chân Lạp, ngoài những người sinh ra tại Đàng Trong (miền NAM), c̣n có giới trai tráng ngoài 30 tuổi (và một phần thuộc thế hệ lớn tuổi hơn) sinh ra ngoài BẮC.
NHƯNG, quí bạn chú ư: trong suốt cả trăm năm sau đó định cơi ở vùng Thủy Chân Lạp (1658-1757), nghĩa là dài lắm, lâu lắm.
Thành thử các thế hệ kế tiếp (ra đời sau năm 1625) đi khai phá Thủy Chân Lạp là đều được SINH RA & LỚN LÊN tại Đàng Trong (miền NAM) hết thảy!
Việc mở cơi miền Nam (Thủy Chân Lạp) SUỐT MỘT TRĂM NĂM, do vậy, cần được phân tích một cách khoa học là:
* Chỉ trong giai đoạn khẩn hoang ban đầu thôi, mới có cư dân sinh ra tại miền BẮC (nhưng kịp đi vô miền NAM trước năm 1625);
* Tuyệt đại đa số các thế hệ định cơi nơi Thủy Chân Lạp sau đó, là những cư dân được SINH RA & LỚN LÊN trong miền NAM.
(bao gồm những thế hệ sinh ra tại một số tỉnh miền Trung thuộc Đàng Trong, cùng với những thế hệ cư dân sinh ra trên miền đất mới ở phương Nam).
B) Quí bạn thường nghe nói "mở cơi là do di dân từ BẮC vào", hăy ngẫm cho kỹ, là hết sức phiến diện, hời hợt.
Nhắc lại: đây đang nói về mở cơi Thủy Chân Lạp từ 1658 (chớ không nói mở cơi ở miền Trung trước đó).
Trong suốt trăm năm định cơi, kể từ năm 1658 đến năm 1757, đâu có ai sinh ra ở miền BẮC (Đàng Ngoài) mà "vượt biên" vô NAM (Đàng Trong) được nữa!
Công trạng khẩn hoang lập ấp ở miền Nam (vùng Thủy Chân Lạp) - công trạng chủ yếu, chiếm tuyệt đại đa số - là thuộc về các thế hệ cư dân sinh ra tại Đàng Trong (miền NAM)!
[Cư dân ngoài BẮC, măi cho đến khi đất nước hợp nhứt vào năm 1802 th́ mới có sự thông thương trở lại, để có thể di chuyển với qui mô lớn vào trong NAM]
C) Sẵn đây nói qua về "Ngũ Quảng":
Vào thế kỷ 17, "Ngũ Quảng" gồm Quảng B́nh, Quảng Trị, Quảng Đức (vùng Thừa Thiên-Huế), Quảng Nam, Quảng Ngăi.
(đừng nhầm lẫn với "tỉnh Quảng Đức" nằm trên cao nguyên, dưới thời Việt Nam cộng ḥa vào thế kỷ 20 về sau, tỉnh Quảng Đức chính là tỉnh Đắc Nông hiện nay)
C̣n Quảng B́nh? Về địa lư, Quảng B́nh thuộc về miền Trung; nhưng về địa giới chánh trị thời phân tranh th́ hầu hết tỉnh Quảng B́nh là thuộc miền NAM (Đàng Trong) trong suốt hơn một thế kỷ rưỡi!
(Thời gian Quảng B́nh thuộc miền NAM, như vậy, lâu gấp 7-8 lần so với giai đoạn ngắn 1954-1975 măi về sau này khi Quảng B́nh thuộc miền BẮC)
Cần nhấn mạnh dữ kiện trên, bởi v́ hiện nay bị ... "lệch sử" khi phán rằng Nguyễn Hữu Cảnh - theo lệnh Chúa Nguyễn vào an định vùng Đồng Nai, Gia Định, lập Dinh Trấn Biên (năm 1698) - là người miền BẮC (?) v́ ông sinh ra và lớn lên tại Quảng B́nh.
Cái này kêu bằng là "râu ông cắm cằm bà", đi lấy cách gọi của thế kỷ 20 đem áp ngược lên thế kỷ 17 đó đa!
Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650, nghĩa là sau khi hai Đàng đă chấm dứt qua lại được một phần tư thế kỷ rồi.
Sinh quán Quảng B́nh của ông, hẳn nhiên là miền Trung (về địa lư), nằm hoàn toàn về phía Nam sông Gianh. Tức đây thuộc về miền NAM (Đàng Trong).
Ông là tướng của triều đ́nh Phú Xuân (không phải triều đ́nh Thăng Long), ở trong NAM (không phải ngoài BẮC), thành thử ông được Chúa Nguyễn sai phái cất quân vào vùng Thủy Chân Lạp là v́ vậy.
D) CÔNG SỨC CỦA NGƯỜI HOA TRONG VIỆC ĐỊNH CƠI
Lưu dân người Việt xuôi từ miền Trung bắt đầu vào vùng Thủy Chân Lạp để khai khẩn Đồng Nai, Gia Định... Trong khi đó, từ cực Nam (Hà Tiên, Cà Mau) lại có một cuộc định cơi đi trở ngược lên. Do Chúa Nguyễn thực hiện? Không. Mà do công trạng của Mạc Cửu, cùng với con ông là Mạc Thiên Tích.
Mạc Cửu là người Quảng Đông, đưa gia quyến và tùy tùng vào tận đến kinh đô Oudong, và được vua Chân Lạp giao cho vùng Hà Tiên (gọi theo tên hiện nay cho dễ h́nh dung) để lập nghiệp. Mạc Cửu giỏi giang trong việc kinh tế, ông đă biến Hà Tiên trở thành một thương cảng nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á đầu thế kỷ 18.
Đến lượt Mạc Thiên Tích mở mang thêm Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cần Thơ...
Bấy giờ quân Xiêm La (Thái Lan) thường xuyên từ vịnh Thái Lan đổ bộ vào cướp phá. Cha con Mạc Cửu cầu viện vua Chân Lạp nhưng Chân Lạp đă suy yếu. Họ bèn xin nội thuộc, dâng những vùng đất mà họ khai khẩn đem sáp nhập vào Đàng Trong của Chúa Nguyễn (đổi lại, chúa Nguyễn cam kết bảo vệ họ Mạc trước những đợt tấn công của Xiêm La).
Quí bạn thử h́nh dung: giả sử cha con họ Mạc hồi đó chấp nhận dâng những vùng đất (nêu trên) & xin nội thuộc triều đ́nh Xiêm La? Mũi Cà Mau, rồi "thập cảnh Hà Tiên" biến thành đất Thái hết trơn. Và rồi... bây giờ chúng ta đi tới Cần Thơ, có nước phải làm chiếu khán (visa) nhập cảnh Thái Lan đó đa.
Vậy nên, mới thấy hết công trạng của Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích trong việc mở rộng lănh thổ cho nước Việt.
Thiệt t́nh, người Tàu mà như họ Mạc th́ đáng mến, đáng trọng gấp ngàn lần so với những kẻ mang xác Việt nhưng vong bản, phản quốc.

)
-------------------------------------------------------------------------
H́nh ảnh: Tượng Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai.
Tượng Mạc Cửu ở Hà Tiên.

luyenchuong3000
08-09-2020, 18:57
NHỮNG ĐIỀU C̉N HIỂU SAI VỀ ĐỊNH CƠI ĐẤT PHƯƠNG NAM
Cho tới giờ này vẫn c̣n không ít người hiểu trớt hướt về công cuộc định cơi đất phương Nam ("Nam Bộ" theo cách gọi dưới thời VNDCCH, rồi thời CHXHCN VN). Thành thử xin ghi chú mấy điểm, mong quí bạn từ đó mà t́m hiểu cho tỏ tường hơn nếu thực ḷng yêu quí miền đất phương Nam.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1633158&d=1596999426
A/ MỘT THẾ KỶ ĐỊNH CƠI BẰNG "PHƯƠNG THỨC H̉A B̀NH":
* Kể từ năm 1658 cho đến năm 1757 (hoàn tất cuộc mở cơi đất phương Nam),
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1633155&d=1596999426
cuộc định cơi này về cơ bản là "phương thức ḥa b́nh". Được hiểu là: các Chúa Nguyễn không đưa quân đội cưỡng chiếm (khác với quá tŕnh xâm chiếm, sáp nhập Chiêm Thành) / KHÔNG xảy ra CHIẾN TRANH NGAY TẠI VÙNG THỦY CHÂN LẠP (sau này, thời Nhà Nguyễn gọi "Nam Kỳ", c̣n bây giờ gọi "Nam Bộ").
Mà do một số đời vua bên Vương quốc Chân Lạp ("Chenla", kinh đô tại Oudong - cách Phnom Penh thủ đô hiện nay bên Cambodia khoảng hơn 30km về phía Tây Bắc) lần lượt CẮT ĐẤT / DÂNG ĐẤT.
* Lư do cắt đất, dâng đất? Do các đời Chúa Nguyễn thực hiện nhiều kế sách: "ngoại giao hôn nhân" (gả con gái cho vua Chân Lạp) / giúp đỡ vua Chân Lạp chống lại quân Xiêm (Thái Lan) / hậu thuẫn phe phái trong cuộc đấu đá giành ngôi vua bên Chân Lạp. Kết quả là một số đời vua Chân Lạp đă cắt đất kết thân / cắt đất đáp tạ/ cắt đất cầu ḥa.
* Hết thảy những lần cắt đất, dâng đất đều thuộc Thủy Chân Lạp v́ cả vùng này đất thấp, canh tác không thuận lợi so với Lục Chân Lạp (là lănh thổ chánh yếu của Vương quốc Chân Lạp), dân số Khmer cũng tương đối ít, thành thử "đất rộng người thưa" mà các vua Chân Lạp không thể khai thác hết.
Chú ư: Một thế kỷ chính thức định cơi về phương Nam, sáp nhập vùng THỦY CHÂN LẠP vào Đàng Trong (1658-1757), đă được hoàn tất dưới thời CÁC CHÚA NGUYỄN rồi đa!
(xin phân biệt rạch ṛi, đừng ba chớp ba nháng gộp luôn thời kỳ Nhà Nguyễn măi về sau, như vua Minh Mạng hồi năm 1835 đưa quân sang phía Tây, lấn chiếm Lục Chân Lạp nhưng chỉ được sáu năm th́ rút quân trở về).
B/ GHI CHÚ VỀ QUÁ TR̀NH TIẾN VÀO THỦY CHÂN LẠP:
Việc sáp nhập lănh thổ Thủy Chân Lạp không phải theo lối cuốn chiếu đi dần xuống phía Nam, mà sáp nhập "kiểu da beo" - tỉ như Cà Mau lại sáp nhập trước Tân An, G̣ Công...
1) NĂM 1658: Thời điểm vua Chân Lạp đồng ư hợp thức hóa chủ quyền của Chúa Nguyễn tại vùng Đồng Nai.
Để hiểu tiến tŕnh này, có một dữ kiện không thể bỏ qua: trước đó, vào năm 1620 chúa Nguyễn Phước Nguyên đem gả ái nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II.
Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn, lưu dân người Việt từ một số tỉnh miền Trung (thuộc Đàng Trong) được nhà vua Chân Lạp đồng ư cho vào khai khẩn vùng Đồng Nai...
Triều đ́nh Chân Lạp liên tục rơi vào tranh chấp quyền lực. Đây chỉ nói vắn tắt.
... Năm 1640, quan phụ chính Prah Outey đưa con ḿnh là Ang Non I lên ngôi; nhưng sau đó năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II lật đổ để lên ngôi và xưng hiệu Ponhea Chan I (sử Việt chuyển ngữ, gọi là "Nặc Ông Chân").
Phe cánh Ang Non I nhờ bà Hoàng thái hậu Ngọc Vạn cầu viện chúa Nguyễn Phước Tần (chúa Hiền).
Tháng 10/1658, chúa Hiền đưa quân vào kinh đô Chân Lạp, bắt được quốc vương Ponhea Chan I (Nặc Ông Chân). Con trai của Thái hậu Ngọc Vạn với tiên đế Chey Chetta II được lên ngôi vua.
Đáp lại, vùng Đồng Nai được giao cho chúa Nguyễn cai quản.
2) NĂM 1691: Thẩm quyền cai quản vùng Prey Nokor (sau này gọi là "Sài G̣n") thuộc về chúa Nguyễn.
Trước đó, 1674 Ang Saur (Nặc Ông Thu) lên ngôi Chính vương lấy niên hiệu Chey Chetta IV, tại kinh đô Oudong. Mặt khác, Ang Non (Nặc Ông Nộn) - con trai thứ của Ngọc Vạn với tiên đế Chey Chetta II - được làm Thứ vương, thủ phủ tại Prey Nokor.
Năm 1691, vua Nặc Ông Nộn tại Prey Nokor (Sài G̣n) qua đời, và chủ quyền vùng này bấy giờ được chuyển giao cho Chúa Nguyễn (ḍng họ ngoại của vua Nặc Ông Nộn).
3) NĂM 1698:
Chúa Nguyễn Phước Châu (chúa Minh) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lược, sắp xếp lại bộ máy hành chánh, chính thức dựng nên Dinh Trấn Biên (Gia định, bao gồm Sài G̣n, và vùng Đồng Nai).
4) NĂM 1708: vùng Hà Tiên sáp nhập vào Đàng Trong.
Trong quá tŕnh sáp nhập đất phương Nam, một công trạng rất đặc biệt phải kể đến là công trạng của cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ!
Mạc Cửu là người Tàu, quen gọi là "người Minh hương", trốn khỏi Quảng Đông (v́ trung thành với nhà Minh, không chịu khuất phục sự cai trị của nhà Măn Thanh). Mạc Cửu kéo gia quyến cùng tùy tùng, binh lính giong buồm vào tận đến Chân Lạp năm 1671, yết kiến vua Ang Saur (Nặc Ông Thu). Nhà vua giao cho Mạc Cửu cai quản vùng sau này gọi là Hà Tiên.
Mạc Cửu chấn hưng kinh tế thịnh vượng, biến Hà Tiên trở thành một thương cảng nổi tiếng vùng Đông Nam Á thời bấy giờ. Xiêm La (Thái Lan) liên tục ḍm ngó, đưa quân đến cướp bóc. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đ́nh Chân Lạp bảo vệ nhưng vương triều Chân Lạp đang suy yếu nên không thể đáp ứng được lời cầu viện từ Mạc Cửu.
Năm 1708 Mạc Cửu xin nội thuộc, sáp nhập Hà Tiên vào Đàng Trong của chúa Nguyễn. Tiện lợi cho đôi bên: Chúa Nguyễn có thêm vùng lănh thổ (kêu bằng là "từ trên trời rơi xuống"), trong khi giang sơn do Mạc Cửu gầy dựng được bảo đảm bởi sức mạnh quân sự của Chúa Nguyễn.
* Từ NĂM 1736 đến NĂM 1739: Mạc Thiên Tứ (con trai của Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (gọi theo tên hiện nay cho dễ h́nh dung), và cũng xin sáp nhập những vùng này vào lănh thổ Đàng Trong để nhận được sự bảo vệ từ quân đội của Chúa Nguyễn.
5) Cũng từ những cuộc can thiệp quân sự của Chúa Nguyễn giúp Chân Lạp chống lại quân Xiêm / hoặc tranh chấp phe phái và nhờ chúa Nguyễn giúp giành ngôi vua tại Oudong... đă lần lượt diễn ra những việc cắt đất, dâng đất:
Năm 1732, vua Satha II (Nặc Tha) dâng vùng Peam Mesar (Mỹ Tho), Longhôr (Long Hồ, tức Vĩnh Long);
Năm 1755, vua Ang Tong (Nặc Ông Nguyên) dâng vùng đất Tân An, G̣ Công (Long An, Tiền Giang ngày nay);
Năm 1757, vua Nặc Nhuận dâng 2 xứ Preah Trapeang và Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng);
Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn đă hỗ trợ Nặc Ông Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La. Vua Nặc Ông Tôn đă dâng vùng đất (nay gọi là) Châu Đốc, Sa Đéc...
Công cuộc sáp nhập toàn bộ vùng Thủy Chân Lạp hoàn tất cơ bản, trong năm 1757.
C/ HỆ QUẢ:
Để gọi cho toàn vùng Thủy Chân Lạp, vào năm 1832 vua Minh Mạng đă định danh xưng: đây là "NAM KỲ".
Vào năm 1873 triều đ́nh Cambodia ("Chenla" đă đổi thành "Cambodia") có đưa ra yêu cầu với chánh quyền thuộc địa Pháp giao vùng Nam Kỳ trở về Cambodia. Nhưng phía Pháp từ chối, v́ thực tế lịch sử cho thấy quá tŕnh sáp nhập là do chính các đời vua Chân Lạp đă đồng thuận cắt đất / dâng đất lần lượt cho triều đ́nh Phú Xuân (Đàng Trong) !
Thành thử chỉ có sự điều chỉnh biên giới: Long An vào thời Nam Kỳ lục tỉnh (thời vua Minh Mạng) là "lồi" nhưng Pháp đă khoét một phần lơm, giao cho Cambodia (trở thành tỉnh Svay Rieng theo cách gọi hiện nay);
Hà Tiên thời Nam Kỳ lục tỉnh (thời vua Minh Mạng) kéo dài qua phần đất Cambodia nhưng Pháp cắt một phần giao lại cho Cambodia (trở thành tỉnh Kampot, Kep theo cách gọi hiện nay)...