florida80
08-20-2020, 19:49
Huế! một địa danh vừa ngắn gọn, vừa thân thương.
Nói đến Huế, người ta sẽ liên tưởng đến một thành phố xa xôi với những ngày hè nắng chang chang thiêu đốt thịt da; những ngày đông mưa dầm dề, trắng trời thối đất; mưa ră rời, dai dẳng với cái lạnh cắt da.Huế với điệu ḥ câu hát năo nùng, buồn rười rượi, những khúc Nam Ai, Nam B́nh, Hành Vân, Lưu Thủy, Tương Tư.. bềnh bồng trên sông nước khi chiều xuống, lúc đêm về.Huế với ḍng Hương Giang ‘ngọc tan thành nước’; với đỉnh Ngự ngỡ ngàng mây trắng thông reo; với lăng tẩm đến đài âm thầm cổ kính, với hoàng cung ‘năm thức mây phong nếp áo chầu’; với áo tía lọng vàng; với lầu son, gác phượng…Huế với những món ăn thanh đạm, đậm đà mang nặng t́nh quê hương bát ngát…Huế thật quyến rũ, thật đặc biệt, và rất chi là Huế.Nhưng nổi bật và đặc thù hơn hết trong những thứ rất Huế, đó là: tiếng nói Huế.Tiếng nói Huế làm nhiều chàng trai tương tư,“ngớ ngẩn một trời thơ bay” và suốt đời chỉ mong đợi một phút giây nghe em nói:
Nghe em nói tự bao giờ,
Bao giờ chừ vẫn ngẩn ngơ lạ kỳ
Em ơi, giọng Huế có chi
Mà trong hoa nắng thầm th́ cơn mưa
Nghe hoài nghe măi chưa bưa,
Anh thương, thương quá tiếng xưa vọng về
…
Nhiều khi như lạ như quen
Giữa mênh mông đọng giọt em ngọt ngào
…
Xanh trong như tiếng chim chuyền
Nh́n em mái tóc che nghiêng mắt cười
Suốt đời giây phút này thôi
Lắng nghe em nói, một trời thơ bay
(Một Trời Thơ Bay, Lê Nhược Thủy)
Tiếng Huế nói ra rất lạ tai với những từ: chi, mô, răng, rứa, tê, chừ, ni, nớ, hỉ, hả…và giọng nói Huế cũng rất khó nghe, dễ gây bối rối ở những người bạn đồng hương Việt Nam từ các tỉnh thành khác. Có thể v́ vậy mà chàng Lê Nhược Thủy này sinh ra ngớ ngẩn rồi tương tư cô nàng? Hay v́ cô em quá đẹp đă hớp hồn chàng? Nhưng có lẽ Lê Nhược Thủy phải là một chàng trai Huế ‘chính hiệu con nai’ mới hiểu được nàng nói, rồi cảm thông, rồi say men t́nh…Nhà văn Thanh Nam, người bạn đời của nhà văn Túy Hồng đă nhận xét và phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:‘Người Huế nói chuyện với nhau bằng ‘ngoại ngữ Huế’. Người Nam, người Bắc chỉ đứng ở ngoài mà nghe, không làm sao chen vào được một câu’ (Túy Hồng: Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương, 1990) Mới nghe qua tưởng như chuyện khôi hài đùa cợt; nhưng qua kinh nghiệm thực tế, qua giao tiếp, ư kiến trên không phải là không có lư. Chúng ta thử đọc qua bài:
Rứa Răng
(Ghi chú)
Đời là rứa hay là răng rứa hí
(Đời là thế, hay là sao thế nhỉ)
Rứa răng đời không một chút vui tươi.
(Thế sao đời không một chút vui tươi)
Thấy răng răng nên đôi lúc mỉm cười.
(Thấy sao sao nên đôi lúc mỉm cười)
V́ rứa rứa nên dường như muốn khóc
(V́ thế đấy nên dường như muốn khóc)
Câm lặng rồi, rứa răng cứ mời mọc.
(Câm lặng rồi, thế sao cứ mời mọc)
Có nói nhiều răng rứa cũng như ri
(Có nói nhiều, sao thế cũng thế thôi)
Mà răng răng, rứa rứa có ích chi
(Mà sao sao, thế thế có ích chi)
Rứa răng, răng rứa hỡi người đà chán lắm
(Thế sao, sao thế… )
Có nhiều lúc hỏi răng mà như rứa
(Có nhiều lúc hỏi sao mà như thế)
Đành trả lời như rứa chứ mần răng
(Đành trả lời như thế, chứ làm sao)
Nếu không phải là dân Huế th́ khó ḷng hiểu nổi bài thơ, hoặc câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ người Huế:
Ghét tui không?
Ghét mà cho ri!
Cho chi mô?
Ầu, răng rứa?
Có chi mô nà.
Ấy, làm răng chừ?
Không răng mô!
Răng răng?
Răng th́ rứa.
Đối với những người khác xứ, câu đối đáp trên có vẻ bâng quơ, bí ẩn, không đâu vào đâu cả. Nhưng với dân Huế, họ có thể hiểu ngay là câu chuyện gay cấn giữa hai người trẻ tuổi với nhau, hứa hẹn nhiều sôi nổi.
Người Huế khi nói chuyện với nhau dùng rất ít chữ, câu nói ngắn, gọn mà hàm súc ư. Với họ, việc diễn tả ư tưởng của ḿnh bằng một vài chữ sơ sài là một chuyện quá dễ dàng, như chuyện cơm bữa. Người Huế nói ít mà hiểu nhiều. Người Huế dùng những từ đặc biệt rất Huế, của riêng Huế để nói chuyện với nhau. Những từ này kết hợp, móc nối khác nhau để trở nên dồi dào phong phú đủ để họ trao đổi các ư nghĩ riêng tư.
Hai câu thơ:
Nghiêng nghiêng hoài chiếc nón
Hỏi măi cứ làm thinh
Cho thấy rơ một nét đặc điểm của cô gái Huế.
Túy Hồng, nhà văn nữ của Huế cũng đă nhận xét:
‘Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà chỉ có thể là giọng nói trong pḥng khách.. .’
Ở đây dằng dặc những ngày mưa
Bông sứ trầm tư lặng cổng chùa
Có một ḍng sông trôi chẳng nỡ
Có người con gái: ‘Dạ, xin thưa.. .’
(Nét Huế – Xuân Hoàng)
Giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu, có thể xem như một ‘ngoại ngữ’’ (Vơ Hương An, Tiếng Sông Hương, 1994, trang 86)
Theo giáo sư Lê Văn Lân trong bài ‘Tiếng Huế Trong Nhóm Thổ Âm Miền Bắc Trung Việt’ (Nhớ Huế, số 9) th́ tiếng Huế chỉ là một trong nhiều thổ âm đặc biệt của ta. Theo ông, có thể thổ ngơi thường quyết định sự khác biệt về thể chất, tính khí của các dân tộc. Chẳng hạn Lê Quư Đôn trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’ đă trích dẫn một đoạn văn trong sách Hoài Nam Tử của Lưu An đời Hán: ‘Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái; khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc. Khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người c̣ng, khí đá sinh nhiều người khỏe…’ và đặc biệt sách trên ghi: ‘Ở nơi nước trong th́ tiếng nhỏ, ở nơi nước đục th́ tiếng thô.’
https://i.imgur.com/kqo2p6r.png
Thật ra ảnh hưởng của môi trường sinh thái trên các cá thể. Ngày nay khoa học cũng đă khám phá ra nhiều dữ kiện khả dĩ giải thích một phần nào, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đúng hẳn. C̣n tiếng nói th́ người ḿnh vẫn cho là do nước uống mà ra.
Trong cuốn Đại Nam Nhất Thống Chí, khi nói về tỉnh Nam Định, vùng giáp biển Mộ Trạch, có đoạn: ‘Mộ Trạch có tập tục quê mùa, giọng nói ngọng nghịu. Người ta gọi là tiếng nói đường biển… Ở đây ít có kẻ sĩ danh tiếng và thành đạt. Ấy là do phong thổ mà nên vậy.’
Một tài liệu viết về thổ âm xứ Huế lại cho rằng ḍng sông Hương có ảnh hưởng đến giọng nói Huế. Và bởi v́ ḍng sông Hương chảy qua ḷng thành phố Huế, nên người Huế rất sâu sắc, thâm trầm:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào ḷng nên Huế rất sâu
(Tạm Biệt Huế, Thu Bồn)
Nói đến Huế, người ta sẽ liên tưởng đến một thành phố xa xôi với những ngày hè nắng chang chang thiêu đốt thịt da; những ngày đông mưa dầm dề, trắng trời thối đất; mưa ră rời, dai dẳng với cái lạnh cắt da.Huế với điệu ḥ câu hát năo nùng, buồn rười rượi, những khúc Nam Ai, Nam B́nh, Hành Vân, Lưu Thủy, Tương Tư.. bềnh bồng trên sông nước khi chiều xuống, lúc đêm về.Huế với ḍng Hương Giang ‘ngọc tan thành nước’; với đỉnh Ngự ngỡ ngàng mây trắng thông reo; với lăng tẩm đến đài âm thầm cổ kính, với hoàng cung ‘năm thức mây phong nếp áo chầu’; với áo tía lọng vàng; với lầu son, gác phượng…Huế với những món ăn thanh đạm, đậm đà mang nặng t́nh quê hương bát ngát…Huế thật quyến rũ, thật đặc biệt, và rất chi là Huế.Nhưng nổi bật và đặc thù hơn hết trong những thứ rất Huế, đó là: tiếng nói Huế.Tiếng nói Huế làm nhiều chàng trai tương tư,“ngớ ngẩn một trời thơ bay” và suốt đời chỉ mong đợi một phút giây nghe em nói:
Nghe em nói tự bao giờ,
Bao giờ chừ vẫn ngẩn ngơ lạ kỳ
Em ơi, giọng Huế có chi
Mà trong hoa nắng thầm th́ cơn mưa
Nghe hoài nghe măi chưa bưa,
Anh thương, thương quá tiếng xưa vọng về
…
Nhiều khi như lạ như quen
Giữa mênh mông đọng giọt em ngọt ngào
…
Xanh trong như tiếng chim chuyền
Nh́n em mái tóc che nghiêng mắt cười
Suốt đời giây phút này thôi
Lắng nghe em nói, một trời thơ bay
(Một Trời Thơ Bay, Lê Nhược Thủy)
Tiếng Huế nói ra rất lạ tai với những từ: chi, mô, răng, rứa, tê, chừ, ni, nớ, hỉ, hả…và giọng nói Huế cũng rất khó nghe, dễ gây bối rối ở những người bạn đồng hương Việt Nam từ các tỉnh thành khác. Có thể v́ vậy mà chàng Lê Nhược Thủy này sinh ra ngớ ngẩn rồi tương tư cô nàng? Hay v́ cô em quá đẹp đă hớp hồn chàng? Nhưng có lẽ Lê Nhược Thủy phải là một chàng trai Huế ‘chính hiệu con nai’ mới hiểu được nàng nói, rồi cảm thông, rồi say men t́nh…Nhà văn Thanh Nam, người bạn đời của nhà văn Túy Hồng đă nhận xét và phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:‘Người Huế nói chuyện với nhau bằng ‘ngoại ngữ Huế’. Người Nam, người Bắc chỉ đứng ở ngoài mà nghe, không làm sao chen vào được một câu’ (Túy Hồng: Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương, 1990) Mới nghe qua tưởng như chuyện khôi hài đùa cợt; nhưng qua kinh nghiệm thực tế, qua giao tiếp, ư kiến trên không phải là không có lư. Chúng ta thử đọc qua bài:
Rứa Răng
(Ghi chú)
Đời là rứa hay là răng rứa hí
(Đời là thế, hay là sao thế nhỉ)
Rứa răng đời không một chút vui tươi.
(Thế sao đời không một chút vui tươi)
Thấy răng răng nên đôi lúc mỉm cười.
(Thấy sao sao nên đôi lúc mỉm cười)
V́ rứa rứa nên dường như muốn khóc
(V́ thế đấy nên dường như muốn khóc)
Câm lặng rồi, rứa răng cứ mời mọc.
(Câm lặng rồi, thế sao cứ mời mọc)
Có nói nhiều răng rứa cũng như ri
(Có nói nhiều, sao thế cũng thế thôi)
Mà răng răng, rứa rứa có ích chi
(Mà sao sao, thế thế có ích chi)
Rứa răng, răng rứa hỡi người đà chán lắm
(Thế sao, sao thế… )
Có nhiều lúc hỏi răng mà như rứa
(Có nhiều lúc hỏi sao mà như thế)
Đành trả lời như rứa chứ mần răng
(Đành trả lời như thế, chứ làm sao)
Nếu không phải là dân Huế th́ khó ḷng hiểu nổi bài thơ, hoặc câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ người Huế:
Ghét tui không?
Ghét mà cho ri!
Cho chi mô?
Ầu, răng rứa?
Có chi mô nà.
Ấy, làm răng chừ?
Không răng mô!
Răng răng?
Răng th́ rứa.
Đối với những người khác xứ, câu đối đáp trên có vẻ bâng quơ, bí ẩn, không đâu vào đâu cả. Nhưng với dân Huế, họ có thể hiểu ngay là câu chuyện gay cấn giữa hai người trẻ tuổi với nhau, hứa hẹn nhiều sôi nổi.
Người Huế khi nói chuyện với nhau dùng rất ít chữ, câu nói ngắn, gọn mà hàm súc ư. Với họ, việc diễn tả ư tưởng của ḿnh bằng một vài chữ sơ sài là một chuyện quá dễ dàng, như chuyện cơm bữa. Người Huế nói ít mà hiểu nhiều. Người Huế dùng những từ đặc biệt rất Huế, của riêng Huế để nói chuyện với nhau. Những từ này kết hợp, móc nối khác nhau để trở nên dồi dào phong phú đủ để họ trao đổi các ư nghĩ riêng tư.
Hai câu thơ:
Nghiêng nghiêng hoài chiếc nón
Hỏi măi cứ làm thinh
Cho thấy rơ một nét đặc điểm của cô gái Huế.
Túy Hồng, nhà văn nữ của Huế cũng đă nhận xét:
‘Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà chỉ có thể là giọng nói trong pḥng khách.. .’
Ở đây dằng dặc những ngày mưa
Bông sứ trầm tư lặng cổng chùa
Có một ḍng sông trôi chẳng nỡ
Có người con gái: ‘Dạ, xin thưa.. .’
(Nét Huế – Xuân Hoàng)
Giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu, có thể xem như một ‘ngoại ngữ’’ (Vơ Hương An, Tiếng Sông Hương, 1994, trang 86)
Theo giáo sư Lê Văn Lân trong bài ‘Tiếng Huế Trong Nhóm Thổ Âm Miền Bắc Trung Việt’ (Nhớ Huế, số 9) th́ tiếng Huế chỉ là một trong nhiều thổ âm đặc biệt của ta. Theo ông, có thể thổ ngơi thường quyết định sự khác biệt về thể chất, tính khí của các dân tộc. Chẳng hạn Lê Quư Đôn trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’ đă trích dẫn một đoạn văn trong sách Hoài Nam Tử của Lưu An đời Hán: ‘Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái; khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc. Khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người c̣ng, khí đá sinh nhiều người khỏe…’ và đặc biệt sách trên ghi: ‘Ở nơi nước trong th́ tiếng nhỏ, ở nơi nước đục th́ tiếng thô.’
https://i.imgur.com/kqo2p6r.png
Thật ra ảnh hưởng của môi trường sinh thái trên các cá thể. Ngày nay khoa học cũng đă khám phá ra nhiều dữ kiện khả dĩ giải thích một phần nào, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đúng hẳn. C̣n tiếng nói th́ người ḿnh vẫn cho là do nước uống mà ra.
Trong cuốn Đại Nam Nhất Thống Chí, khi nói về tỉnh Nam Định, vùng giáp biển Mộ Trạch, có đoạn: ‘Mộ Trạch có tập tục quê mùa, giọng nói ngọng nghịu. Người ta gọi là tiếng nói đường biển… Ở đây ít có kẻ sĩ danh tiếng và thành đạt. Ấy là do phong thổ mà nên vậy.’
Một tài liệu viết về thổ âm xứ Huế lại cho rằng ḍng sông Hương có ảnh hưởng đến giọng nói Huế. Và bởi v́ ḍng sông Hương chảy qua ḷng thành phố Huế, nên người Huế rất sâu sắc, thâm trầm:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào ḷng nên Huế rất sâu
(Tạm Biệt Huế, Thu Bồn)