Log in

View Full Version : Nguồn Gốc Tên Gọi Các Địa Danh Ở Sài G̣n


florida80
10-06-2020, 20:30
y là album giải thích những tên gọi Sài G̣n từ xưa. Các địa danh khá phổ biến như: Bến Nghé, Cầu Bông, Thị Nghè… nhưng ít ai hiểu được hết ư nghĩa tên gọi của chúng.


Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài G̣n đă quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe th́ giống tên Việt Nam nhưng khi viết th́ lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có ǵ đặc biệt? Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài G̣n và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài G̣n – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đă phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài G̣n từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.
Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài G̣n đă quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe th́ giống tên Việt Nam nhưng khi viết th́ lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có ǵ đặc biệt?
Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài G̣n và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài G̣n – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đă phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài G̣n từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.


Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày. Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.
Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày.
Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.


Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân B́nh), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lư Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ. Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách "Người Quảng Nam", Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê "cóc" sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan - phu nhân vua Bảo Đại. Khoảng năm 1940 người Sài G̣n gọi "ngă tư ông Bảy Hiền" dần dần từ "ông" mất chỉ c̣n "ngă tư Bảy Hiền". Sau này, nguyên khu vực quanh ngă tư được gọi thành "Bảy Hiền". Trước năm 1954, khu vực này vẫn c̣n là vùng ngoại ô của Sài G̣n, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đ́nh sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa. Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Ṭng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng - chợ Bà Hoa.
Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân B́nh), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lư Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ.
Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách “Người Quảng Nam”, Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê “cóc” sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan – phu nhân vua Bảo Đại.
Khoảng năm 1940 người Sài G̣n gọi “ngă tư ông Bảy Hiền” dần dần từ “ông” mất chỉ c̣n “ngă tư Bảy Hiền”. Sau này, nguyên khu vực quanh ngă tư được gọi thành “Bảy Hiền”.
Trước năm 1954, khu vực này vẫn c̣n là vùng ngoại ô của Sài G̣n, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đ́nh sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa.
Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Ṭng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng – chợ Bà Hoa.


Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay). Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đ́nh dư địa chí” (1900) th́ tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự. C̣n theo học giả Trương Vĩnh Kư, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ư rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, ḅ ra tắm” v́ có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).
Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay).
Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đ́nh dư địa chí” (1900) th́ tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
C̣n theo học giả Trương Vĩnh Kư, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ư rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, ḅ ra tắm” v́ có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).


Là nút giao thông lớn ở cửa ngơ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài G̣n. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận B́nh Thạnh), c̣n có chợ Hàng Xanh, ngă tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, theo t́m hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài G̣n - Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh "là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ". Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.
Là nút giao thông lớn ở cửa ngơ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài G̣n. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận B́nh Thạnh), c̣n có chợ Hàng Xanh, ngă tư Hàng Xanh.
Tuy nhiên, theo t́m hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài G̣n – Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh “là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ”. Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.


Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận G̣ Vấp) nay có tên gọi khác là Ngă Sáu G̣ Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lăo, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ. Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngă năm Hàng Điệp v́ dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài G̣n đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngă năm Chuồng Chó. Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.
Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận G̣ Vấp) nay có tên gọi khác là Ngă Sáu G̣ Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lăo, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ.
Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngă năm Hàng Điệp v́ dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài G̣n đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngă năm Chuồng Chó.
Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.


Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài G̣n đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên. Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. V́ khá phổ biến thời trước nên “thủ” đă đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài G̣n), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (B́nh Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đă giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đă được người dân gắn liền với nơi làm việc. C̣n Thủ Dầu Một th́ ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài G̣n đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên.
Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. V́ khá phổ biến thời trước nên “thủ” đă đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài G̣n), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (B́nh Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đă giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đă được người dân gắn liền với nơi làm việc. C̣n Thủ Dầu Một th́ ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.


Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngă ba Thủ Đức (ngă ba Trạm 2) đến ngă ba An Lạc, quận B́nh Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh B́nh Dương, dài 43,1 km. Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 - 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài G̣n và ngăn cách giữa Sài G̣n với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.
Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngă ba Thủ Đức (ngă ba Trạm 2) đến ngă ba An Lạc, quận B́nh Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh B́nh Dương, dài 43,1 km.
Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 – 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài G̣n và ngăn cách giữa Sài G̣n với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.


Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là G̣ Vắp v́ đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.
Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là G̣ Vắp v́ đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.

https://i.imgur.com/oCEAu0s.jpg
Theo một số tài liệu th́ địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xă của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12. “Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn... Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, v́ ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)... C̣n “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “ḍng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn c̣n con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn v́ tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài G̣n-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).
Theo một số tài liệu th́ địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xă của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12.
“Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn… Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, v́ ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)… C̣n “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “ḍng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn c̣n con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn v́ tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài G̣n-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).


Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ. Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận B́nh Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè. Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đă có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè. Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn c̣n được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.
Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ.
Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận B́nh Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè.
Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đă có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè.
Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn c̣n được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.


Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đă góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5. Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe. Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một ḥn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Độ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines). Thế mới rơ v́ sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.
Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đă góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5.
Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe.
Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một ḥn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Độ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines).
Thế mới rơ v́ sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.


Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận B́nh Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nh́n thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn. Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, v́ sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không? Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, c̣n có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính v́ tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu. Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.
Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận B́nh Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nh́n thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn.
Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, v́ sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không?
Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, c̣n có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính v́ tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu.
Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.


Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đă thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ? Theo học giả Trương Vĩnh Kư (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), th́ đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ư kiến cho rằng, nh́n kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy. Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nh́n, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài G̣n với h́nh ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt .
Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đă thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ?
Theo học giả Trương Vĩnh Kư (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), th́ đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ư kiến cho rằng, nh́n kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy.
Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nh́n, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài G̣n với h́nh ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt

QQQ_Cake
10-07-2020, 00:08
Sis Fl, cam on rat nhieu ve nghia bai rat co y nghia...

angel158870
10-07-2020, 01:58
Bài viết lập đi lập lại nhiều lần quá.
Có lẽ người viết copy and paste by mistake?