florida80
10-06-2020, 20:32
Là sắc tộc đa số, giữ vị trí trung tâm của cộng dồng dân cư Việt Nam nên từ cuối thế kỷ XIX, nguồn gốc, văn hóa, lịch sử người Kinh được các học giả nổi tiếng phương Tây bỏ nhiều công sức t́m hiểu. Sau khi giành được độc lập, các học giả người Việt trên cơ bản tiếp tục đường hướng nghiên cứu này. Hơn thế kỷ khảo cứu của nhiều lớp nhà Việt học đem lại kết quả nhất định, tạo nên cái nh́n như hôm nay. Tuy nhiên, với những khám phá mới về nguồn gốc dân tộc Việt, nhiều vấn đề về người Kinh cần được xem xét lại. Bài viết này tŕnh bày một lư giải mới về nguồn gốc người Kinh.
Xem thêm bài viết: Người Kinh (Việt) tại Trung Quốc
Truy t́m gốc tích người Kinh
I. Về giả thuyết Tiền Việt-Mường
Cho đến nay phần lớn các học giả đồng thuận cho rằng: Người Việt và người Mường xưa vốn cùng chung một cội nguồn, nhưng đă tách thành hai dân tộc trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, giả thiết khoảng thế kỷ thứ XI trở về sau.
Ư tưởng này được nhà ngữ học người Pháp H. Maspéro [1] đề xuất đầu tiên. Tiếp đó là V. Goloubew [2]. Sau năm 1954, các học giả Việt Nam kế tục quan điểm của trường phái Viễn Đông Bác cổ với Nguyễn Thế Phương [3], Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương [4] rồi Nguyễn Tài Cẩn [5]. Dựa trên ngôn ngữ học so sánh, giới ngữ học cho rằng: thoạt kỳ thủy, từ ngôn ngữ Tiền Việt-Mường chia thành nhánh Chứt-Pọong và nhánh Việt-Mường chung. Sau đó Việt-Mường chung tách ra Việt và Mường.
Cũng thời gian này, giới nhân học vào cuộc. Trong Nhân chủng học Đông Nam Á,[6] từ tư liệu “H́nh thái nhân chủng một số nhóm nam giới Việt, Mường, Chứt” và “Tần xuất nhóm máu ABO ở người Việt và người Mường,” Nguyễn Đ́nh Khoa nhận định: “Ngôn ngữ Việt – Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loaị h́nh nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á.” (t.128) Đồng thời tác giả cũng lưu ư rằng, “Ở Việt Nam (có thể đại bộ phận bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á), thành phần Nam Á xuất hiện muộn hơn (thời đại đồ Đồng), thành phần Anhđônêdiên th́ h́nh thành sớm (thời đá mới). Như vậy phải đặt câu hỏi: Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người indonesian nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường h́nh thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc?(t.128)
Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương viết: “Tiếng Việt và tiếng Mường có nguồn gốc Nam Á, nhưng do sự tiếp xúc lâu dài với các ngôn ngữ Tày cổ nên nhóm Việt-Mường đă tách khỏi khối Tiền Việt-Mường.” Về mốc thời gian, hai tác giả cho rằng: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đă xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đă tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường chung.” Do khám phá việc xuất hiện loại h́nh Nam Á ở Việt Nam và bán đảo Đông Dương vào thời đại đồ đồng từ quá tŕnh chuyển hóa của người Indonesian nguyên thủy nên Nguyễn Đ́nh Khoa cho là có sự liên quan giữa quá tŕnh chuyển biến Indonesian thành Nam Á và giả thuyết về h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường.
Nguyễn Đ́nh Khoa lưu ư tới vai tṛ của những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer. Họ được nhất trí xếp vào ḍng ngôn ngữ Nam Á, là một trong những thành phần bản địa lâu đời nhất ở bán đảo Đông Dương, là con cháu của người Indonesian nguyên thủy. Do vậy, tiếng nói và tổ tiên họ phải là một dạng Nam Á cổ, trong đó theo Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương, có yếu tố Tiền Việt-Mường. Tiếp xúc với ngôn ngữ Tày cổ th́ tách ra ngôn ngữ Việt-Mường chung. Giai đoạn này có thể tương ứng với quá tŕnh chuyển biến nhân chủng từ Indonesian thành Nam Á.
Có thể nhận ra rằng, sự đồng thuận này không dễ dàng mà là việc nhượng bộ của những quan niệm rất khác nhau thậm chí trái ngược:
Trong tài liệu đă dẫn, Maspéro coi tiếng Việt là một nhóm trong ḍng Hán-Tạng v́ về cú pháp và thanh điệu tiếng Việt gần với tiếng Thái. Nhưng trước đó người ta đă phát hiện trong tiếng Thái có yếu tố ngôn ngữ Môn-Khmer và cả ngôn ngữ Mă Lai. Năm 1924, Przyluxki viết: “…tuy trong tiếng Thái có nhiều từ Hán nhưng nó lại có nhiều yếu tố chung với các ngôn ngữ Môn-Khmer…Có thể trong tương lai, cứ liệu thực tế buộc chúng ta phải đặt tiếng Thái vào ngữ hệ Nam Á.” [7]
https://i.imgur.com/n18Z7eX.jpg
Như vậy là, tiếng Việt được sắp xếp trong một biên độ rất rộng, từ Hán Tạng tới Môn-Khmer rồi Nam Á. Điều này chứng tỏ, có ǵ đó chung cho các ngôn ngữ của cộng đồng dân cư Việt Nam nên việc chia tách chúng một cách rành rẽ là điều khiên cưỡng. Từ những trích dẫn trên, có thể đưa tới nhận xét rằng, dù ra đời hơn trăm năm trước và không ngừng được củng cố th́ ư tưởng người Mường chuyển hóa thành người Việt cũng chưa thực sự thuyết phục. Những thắc mắc nảy sinh:
1. Nhận định: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đă xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đă tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường chung,” phải chăng là hữu lư? Bởi lẽ, 4000 năm cách nay, đồng bằng sông Hồng c̣n chưa được tạo lập, nên sự tiếp xúc của ngôn ngữ Tiền Việt-Mường với nhóm Tày cổ chỉ diễn ra tại miền núi, trung du Bắc Bộ và vùng đất cao của châu thổ sông Hồng. Do vậy, người nói ngôn ngữ Việt phải xuất hiện tại khu vực này trước chứ không phải ở đồng bằng sông Hồng! Trong khi trên thực tế, người Việt là chủ thể của đồng bằng?
2. Thực tế lịch sử cho thấy, những nhóm gọi là Tày cổ hiện nay cũng chỉ từ Trung Quốc di cư về vào thời Nguyên. 4000 năm trước, thứ ngôn ngữ Tày cổ đó chưa xuất hiện. V́ vậy không thể có chuyện nó “tiếp xúc với Tiền Việt Mường để sinh ra người Việt.”
3. Nếu: “ngôn ngữ Việt – Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loại h́nh nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á,” có nghĩa là, từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam chỉ một chủng duy nhất Mongoloid phương Nam và ngôn ngữ Nam Á th́ v́ lẽ ǵ chỉ có người Mường chuyển thành người Việt?
4. Được tách ra từ Tiền Việt-Mường v́ sao mà số lượng người Việt cực lớn, c̣n số lượng người Mường quá nhỏ, chỉ hơn 600.000 người?
5. Câu hỏi quan trọng: “Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người Anhđônêdiên nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường h́nh thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc”,vẫn chưa có lời đáp!
Đánh giá một cách công bằng, có thể cho rằng, là nhà ngữ học uyên bác, khi phát hiện sự tương đồng khá cao về tiếng nói giữa người Mường và người Việt đồng thời cũng nhận ra những yếu tố của ngôn ngữ Tày trong tiếng Việt, H. Maspéro đă đề xuất ư tưởng trên. Sau này, cảm nhận sự “hợp lư” của nó, các tác giả khác đă tiếp thu và phát triển, góp phần đưa tới một cách nh́n nhận về con người và tiếng nói Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên ngôn ngữ cũng như tư liệu metric (số đo) sọ, không phải là chứng cứ đáng tin cậy giúp phân định chủng người. Như nhà nhân học lớn nước Mỹ Jared Diamond khẳng định: “Những ǵ thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Sang thế kỷ này, để giải quyết bài toán nguồn gốc người Việt, cần một công tŕnh độ sộ vẽ bản đồ gen người Việt. Trong khi chờ đợi kết luận cuối cùng từ công tŕnh như vậy, tôi xin đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc người Kinh.
II. Nguồn gốc người Kinh theo cách nh́n mới.
Trước hết cần xác định lại một số thuật ngữ. Các tài liệu hành chính hiện nay viết rằng, Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Đây là cách dùng từ không chuẩn do không phân biệt hai khái niệmtộc người hay sắc tộc (race) và dân tộc (nation). Dân tộc là cộng đồng người cùng một chủng tộc trong một quốc gia. Trong một quốc gia có một hay nhiều dân tộc với ư nghĩa chủng người.Tộc người là những sắc dân trong một chủng người. Sau năm 1954, ảnh hưởng của tài liệu dân cư học Trung Quốc cho rằng ở “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em”, các nhà làm chính sách của Việt Nam cũng ghi trong hiến pháp: Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Tuy nhiên sau đó, phát hiện sai lầm, người Trung Quốc đă sửa: Trung Quốc có 56 tộc người thuộc năm dân tộc là Hán, Hồi, Mông, Măn, Tạng. Trong khi đó, do chưa có sự phân định rơ ràng, Việt Nam vẫn giữ 54 dân tộc trong các văn bản hành chính.
Các tài liệu nhân chủng học cho thấy, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam gồm duy nhất chủng người Mongoloid phương Nam. Đến nay nước Việt Nam bao gồm một dân tộc duy nhất là dân tộc Việt. Kinh, Mường, Mán, Tày, Thổ, H’Mông, Dao, Khmer, Chăm, Bana, Êdê, Giarai… là những tộc người hay sắc tộc trong dân tộc Việt. V́ vậy, thuật ngữ NGƯỜI VIỆT dùng chỉ chung mọi tộc người bản địa Việt Nam. Người Kinh là một tộc người hay sắc tộc trong 54 sắc tộc Việt. Việc gọi người Kinh là người Việt là sai lầm, là sự tiếm xưng, đưa tới nhận thức lệch lạc: chỉ người Kinh mới là người Việt, c̣n các sắc tộc khác không phải là người Việt. Trước đây, do cách nh́n kỳ thị của chính quyền quân chủ, các sắc dân Việt này bị gọi miệt thị là man, mọi!
V́ vậy, từ đây, tôi dùng thuật ngữ người Kinh thay cho người Việt trong thảo luận.
Người Kinh là một tộc người (race) trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Do vậy, muốn t́m nguồn gốc người Kinh cần phải biết quá tŕnh h́nh thành dân tộc Việt Nam. Tri thức của thế kỷ mới cho thấy, 70000 năm trước, hai đại chủng người Khôn ngoan Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại đây họ ḥa huyết sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian. Trong đó người Indonesian (Lạc Việt) giữ vai tṛ lănh đạo về xă hội và ngôn ngữ. Ngôn ngữ Lạc Việt là tiếng nói chủ thể của cộng đồng. Khoảng 40000 năm trước, người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa và xây dựng nơi đây nền nông nghiệp phát triển. Khoảng 7000 năm trước, tại trung lưu Hoàng Hà, người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Khoảng 5000 năm trước, người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà mà trung tâm là đồng bằng Trong Nguồn. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục do Hiên Viên lănh đạo tấn công vào Trác Lộc, xâm chiếm đất của người Việt phía Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Do cuộc xâm lăng này, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam, mang nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư Đông Nam Á trong đó có bán đảo Đông Dương được chuyển hóa thành người Mongoloid phương Nam. Chủng Lạc Việt Indonesian chuyển thành dạng Mongoloid phương Nam điển h́nh. Chủng Melanesian chuyển thành loại h́nh Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng Lạc Việt là ngôn ngữ chung. Như vậy, câu hỏi 5 ở trên được giải đáp: người Nam Á ra đời sau nhưng ngôn ngữ Nam Á (Lạc Việt) xuất hiện đồng thời với hai chủng người Indonesian và Melanesian trên đất Việt Nam.[8]
Xem thêm bài viết: Người Kinh (Việt) tại Trung Quốc
Truy t́m gốc tích người Kinh
I. Về giả thuyết Tiền Việt-Mường
Cho đến nay phần lớn các học giả đồng thuận cho rằng: Người Việt và người Mường xưa vốn cùng chung một cội nguồn, nhưng đă tách thành hai dân tộc trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, giả thiết khoảng thế kỷ thứ XI trở về sau.
Ư tưởng này được nhà ngữ học người Pháp H. Maspéro [1] đề xuất đầu tiên. Tiếp đó là V. Goloubew [2]. Sau năm 1954, các học giả Việt Nam kế tục quan điểm của trường phái Viễn Đông Bác cổ với Nguyễn Thế Phương [3], Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương [4] rồi Nguyễn Tài Cẩn [5]. Dựa trên ngôn ngữ học so sánh, giới ngữ học cho rằng: thoạt kỳ thủy, từ ngôn ngữ Tiền Việt-Mường chia thành nhánh Chứt-Pọong và nhánh Việt-Mường chung. Sau đó Việt-Mường chung tách ra Việt và Mường.
Cũng thời gian này, giới nhân học vào cuộc. Trong Nhân chủng học Đông Nam Á,[6] từ tư liệu “H́nh thái nhân chủng một số nhóm nam giới Việt, Mường, Chứt” và “Tần xuất nhóm máu ABO ở người Việt và người Mường,” Nguyễn Đ́nh Khoa nhận định: “Ngôn ngữ Việt – Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loaị h́nh nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á.” (t.128) Đồng thời tác giả cũng lưu ư rằng, “Ở Việt Nam (có thể đại bộ phận bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á), thành phần Nam Á xuất hiện muộn hơn (thời đại đồ Đồng), thành phần Anhđônêdiên th́ h́nh thành sớm (thời đá mới). Như vậy phải đặt câu hỏi: Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người indonesian nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường h́nh thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc?(t.128)
Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương viết: “Tiếng Việt và tiếng Mường có nguồn gốc Nam Á, nhưng do sự tiếp xúc lâu dài với các ngôn ngữ Tày cổ nên nhóm Việt-Mường đă tách khỏi khối Tiền Việt-Mường.” Về mốc thời gian, hai tác giả cho rằng: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đă xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đă tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường chung.” Do khám phá việc xuất hiện loại h́nh Nam Á ở Việt Nam và bán đảo Đông Dương vào thời đại đồ đồng từ quá tŕnh chuyển hóa của người Indonesian nguyên thủy nên Nguyễn Đ́nh Khoa cho là có sự liên quan giữa quá tŕnh chuyển biến Indonesian thành Nam Á và giả thuyết về h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường.
Nguyễn Đ́nh Khoa lưu ư tới vai tṛ của những tộc người ngôn ngữ Môn-Khmer. Họ được nhất trí xếp vào ḍng ngôn ngữ Nam Á, là một trong những thành phần bản địa lâu đời nhất ở bán đảo Đông Dương, là con cháu của người Indonesian nguyên thủy. Do vậy, tiếng nói và tổ tiên họ phải là một dạng Nam Á cổ, trong đó theo Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương, có yếu tố Tiền Việt-Mường. Tiếp xúc với ngôn ngữ Tày cổ th́ tách ra ngôn ngữ Việt-Mường chung. Giai đoạn này có thể tương ứng với quá tŕnh chuyển biến nhân chủng từ Indonesian thành Nam Á.
Có thể nhận ra rằng, sự đồng thuận này không dễ dàng mà là việc nhượng bộ của những quan niệm rất khác nhau thậm chí trái ngược:
Trong tài liệu đă dẫn, Maspéro coi tiếng Việt là một nhóm trong ḍng Hán-Tạng v́ về cú pháp và thanh điệu tiếng Việt gần với tiếng Thái. Nhưng trước đó người ta đă phát hiện trong tiếng Thái có yếu tố ngôn ngữ Môn-Khmer và cả ngôn ngữ Mă Lai. Năm 1924, Przyluxki viết: “…tuy trong tiếng Thái có nhiều từ Hán nhưng nó lại có nhiều yếu tố chung với các ngôn ngữ Môn-Khmer…Có thể trong tương lai, cứ liệu thực tế buộc chúng ta phải đặt tiếng Thái vào ngữ hệ Nam Á.” [7]
https://i.imgur.com/n18Z7eX.jpg
Như vậy là, tiếng Việt được sắp xếp trong một biên độ rất rộng, từ Hán Tạng tới Môn-Khmer rồi Nam Á. Điều này chứng tỏ, có ǵ đó chung cho các ngôn ngữ của cộng đồng dân cư Việt Nam nên việc chia tách chúng một cách rành rẽ là điều khiên cưỡng. Từ những trích dẫn trên, có thể đưa tới nhận xét rằng, dù ra đời hơn trăm năm trước và không ngừng được củng cố th́ ư tưởng người Mường chuyển hóa thành người Việt cũng chưa thực sự thuyết phục. Những thắc mắc nảy sinh:
1. Nhận định: “Ngôn ngữ Tiền Việt-Mường đă xuất hiện ở vùng lưu vực sông Hồng cách đây khoảng 4000 năm. Tại đây, ngôn ngữ này đă tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ nhóm Tày cổ để h́nh thành ngôn ngữ Việt-Mường chung,” phải chăng là hữu lư? Bởi lẽ, 4000 năm cách nay, đồng bằng sông Hồng c̣n chưa được tạo lập, nên sự tiếp xúc của ngôn ngữ Tiền Việt-Mường với nhóm Tày cổ chỉ diễn ra tại miền núi, trung du Bắc Bộ và vùng đất cao của châu thổ sông Hồng. Do vậy, người nói ngôn ngữ Việt phải xuất hiện tại khu vực này trước chứ không phải ở đồng bằng sông Hồng! Trong khi trên thực tế, người Việt là chủ thể của đồng bằng?
2. Thực tế lịch sử cho thấy, những nhóm gọi là Tày cổ hiện nay cũng chỉ từ Trung Quốc di cư về vào thời Nguyên. 4000 năm trước, thứ ngôn ngữ Tày cổ đó chưa xuất hiện. V́ vậy không thể có chuyện nó “tiếp xúc với Tiền Việt Mường để sinh ra người Việt.”
3. Nếu: “ngôn ngữ Việt – Mường hiện nay và trước đây là ngôn ngữ chung của những tộc người thuộc cả hai nhóm loại h́nh nhân chủng Anhđônêdiên và Nam Á,” có nghĩa là, từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam chỉ một chủng duy nhất Mongoloid phương Nam và ngôn ngữ Nam Á th́ v́ lẽ ǵ chỉ có người Mường chuyển thành người Việt?
4. Được tách ra từ Tiền Việt-Mường v́ sao mà số lượng người Việt cực lớn, c̣n số lượng người Mường quá nhỏ, chỉ hơn 600.000 người?
5. Câu hỏi quan trọng: “Ngôn ngữ Việt – Mường cũng có một cội nguồn cổ xưa như những người Anhđônêdiên nguyên thủy nhất hay ngôn ngữ Việt – Mường h́nh thành muộn hơn trên cơ sở tiếp xúc và giao lưu giữa các cộng đồng người có thể khác nhau về tiếng nói, về nguồn gốc”,vẫn chưa có lời đáp!
Đánh giá một cách công bằng, có thể cho rằng, là nhà ngữ học uyên bác, khi phát hiện sự tương đồng khá cao về tiếng nói giữa người Mường và người Việt đồng thời cũng nhận ra những yếu tố của ngôn ngữ Tày trong tiếng Việt, H. Maspéro đă đề xuất ư tưởng trên. Sau này, cảm nhận sự “hợp lư” của nó, các tác giả khác đă tiếp thu và phát triển, góp phần đưa tới một cách nh́n nhận về con người và tiếng nói Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên ngôn ngữ cũng như tư liệu metric (số đo) sọ, không phải là chứng cứ đáng tin cậy giúp phân định chủng người. Như nhà nhân học lớn nước Mỹ Jared Diamond khẳng định: “Những ǵ thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Sang thế kỷ này, để giải quyết bài toán nguồn gốc người Việt, cần một công tŕnh độ sộ vẽ bản đồ gen người Việt. Trong khi chờ đợi kết luận cuối cùng từ công tŕnh như vậy, tôi xin đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc người Kinh.
II. Nguồn gốc người Kinh theo cách nh́n mới.
Trước hết cần xác định lại một số thuật ngữ. Các tài liệu hành chính hiện nay viết rằng, Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Đây là cách dùng từ không chuẩn do không phân biệt hai khái niệmtộc người hay sắc tộc (race) và dân tộc (nation). Dân tộc là cộng đồng người cùng một chủng tộc trong một quốc gia. Trong một quốc gia có một hay nhiều dân tộc với ư nghĩa chủng người.Tộc người là những sắc dân trong một chủng người. Sau năm 1954, ảnh hưởng của tài liệu dân cư học Trung Quốc cho rằng ở “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em”, các nhà làm chính sách của Việt Nam cũng ghi trong hiến pháp: Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Tuy nhiên sau đó, phát hiện sai lầm, người Trung Quốc đă sửa: Trung Quốc có 56 tộc người thuộc năm dân tộc là Hán, Hồi, Mông, Măn, Tạng. Trong khi đó, do chưa có sự phân định rơ ràng, Việt Nam vẫn giữ 54 dân tộc trong các văn bản hành chính.
Các tài liệu nhân chủng học cho thấy, từ 2000 năm TCN, dân cư Việt Nam gồm duy nhất chủng người Mongoloid phương Nam. Đến nay nước Việt Nam bao gồm một dân tộc duy nhất là dân tộc Việt. Kinh, Mường, Mán, Tày, Thổ, H’Mông, Dao, Khmer, Chăm, Bana, Êdê, Giarai… là những tộc người hay sắc tộc trong dân tộc Việt. V́ vậy, thuật ngữ NGƯỜI VIỆT dùng chỉ chung mọi tộc người bản địa Việt Nam. Người Kinh là một tộc người hay sắc tộc trong 54 sắc tộc Việt. Việc gọi người Kinh là người Việt là sai lầm, là sự tiếm xưng, đưa tới nhận thức lệch lạc: chỉ người Kinh mới là người Việt, c̣n các sắc tộc khác không phải là người Việt. Trước đây, do cách nh́n kỳ thị của chính quyền quân chủ, các sắc dân Việt này bị gọi miệt thị là man, mọi!
V́ vậy, từ đây, tôi dùng thuật ngữ người Kinh thay cho người Việt trong thảo luận.
Người Kinh là một tộc người (race) trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Do vậy, muốn t́m nguồn gốc người Kinh cần phải biết quá tŕnh h́nh thành dân tộc Việt Nam. Tri thức của thế kỷ mới cho thấy, 70000 năm trước, hai đại chủng người Khôn ngoan Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Tại đây họ ḥa huyết sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian. Trong đó người Indonesian (Lạc Việt) giữ vai tṛ lănh đạo về xă hội và ngôn ngữ. Ngôn ngữ Lạc Việt là tiếng nói chủ thể của cộng đồng. Khoảng 40000 năm trước, người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa và xây dựng nơi đây nền nông nghiệp phát triển. Khoảng 7000 năm trước, tại trung lưu Hoàng Hà, người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Khoảng 5000 năm trước, người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà mà trung tâm là đồng bằng Trong Nguồn. Khoảng năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục do Hiên Viên lănh đạo tấn công vào Trác Lộc, xâm chiếm đất của người Việt phía Nam Hoàng Hà, lập vương triều Hoàng Đế. Do cuộc xâm lăng này, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam, mang nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền dân cư Đông Nam Á sang Mongoloid phương Nam. Khoảng 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư Đông Nam Á trong đó có bán đảo Đông Dương được chuyển hóa thành người Mongoloid phương Nam. Chủng Lạc Việt Indonesian chuyển thành dạng Mongoloid phương Nam điển h́nh. Chủng Melanesian chuyển thành loại h́nh Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng Lạc Việt là ngôn ngữ chung. Như vậy, câu hỏi 5 ở trên được giải đáp: người Nam Á ra đời sau nhưng ngôn ngữ Nam Á (Lạc Việt) xuất hiện đồng thời với hai chủng người Indonesian và Melanesian trên đất Việt Nam.[8]