vuitoichat
12-10-2020, 14:26
Một cuộc bầu cử mà người ta chờ đợi và theo dơi trong suốt bốn năm qua với một tinh thần vừa chờ đợi vừa e sợ. V́ vậy “Something is rotten in the state of Denmark,” Shakespeare – Hamlet. Đó có vẻ như là cảm giác căn bản mà người dân Châu Âu theo dơi báo chí Châu Âu tường thuật về cuộc bầu cử tổng thống vừa qua tại Mỹ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1704901&stc=1&d=1607610311
Kết quả cuộc bầu cử tuy rằng làm cho người ta thở phào nhẹ nhơm, nhưng dù sao cũng là một thất vọng lớn: ông Trump đă nhận được c̣n nhiều phiếu bầu hơn là năm 2016. (H́nh: Samuel Corum/Getty Images)
Nói một cách khác, làm sao mà ông Donald Trump không bị thiệt hại một cách đáng kể bởi v́ tất cả những lời nói dối, vi phạm đạo đức, khuyến khích hầu như công khai tinh thần kỳ thị chủng tộc cũng như quản lư tồi tệ việc chống căn dịch bệnh COVID-19 đă khiến cho trên một phần tư triệu người Mỹ bỏ ḿnh.
Kết quả cuộc bầu cử tuy rằng làm cho người ta thở phào nhẹ nhơm, nhưng dù sao cũng là một thất vọng lớn, nhất là đối với những người có một ư thức tốt đẹp về nước Mỹ. Nhiều người Dân Chủ hy vọng có một chiến thắng áp đảo cho ông Joe Biden và một thất bại thê thảm cho đảng Cộng Ḥa và tổng thống của họ. Họ hy vọng có một kết quả rơ ràng như vậy mới cho thấy chiến thắng của ông Trump năm 2016 là một ngoại lệ lịch sử và tẩy sạch vết nhơ Trump ra khỏi các cuốn sách lịch sử Mỹ về sau. Nhưng thay vào đó, ông Trump đă nhận được c̣n nhiều phiếu bầu hơn là năm 2016.
Nước Mỹ biết là ḿnh bị bệnh. Cả hai phe Dân Chủ và Cộng Ḥa đều đồng ư, chỉ khác nhau là mỗi phe đổ cho phe bên kia là đă phản bội lư tưởng Mỹ mà thôi. Người ta hồ nghi về sự chính đáng (legitimacy) của cuộc bầu cử và niềm tin vào những định chế chính trị đă sụp đổ.
Một phần quan trọng các phương tiện truyền thông đă từ bỏ hay mất đi vai tṛ như là những người nhân chứng khách quan. Các toán dân quân vũ trang đi tuần các đường phố; và hầu như bất kỳ một ư kiến nào đưa ra mà không bị tràn ngập những lời phê b́nh đầy hận thù trên các phương tiện truyền thông xă hội.
Và trùm lên tất cả là một ông tổng thống không chịu chấp nhận thất cử, t́m đủ cách để lật lại kết quả và một bệnh dịch lan tràn mà chỉ có thể kiềm chế được bằng một sự đoàn kết xă hội. Tất cả những vấn đề đó sẽ vẫn c̣n với nước Mỹ ngay cả sau khi ông Donald Trump ra đi.
B́nh luận gia David Brooks, một nhà b́nh luận bảo thủ của nhật báo New York Times, trong một bài viết cho tạp chí The Atlantic đặt câu hỏi rằng liệu những triệu chứng của căn bệnh này có phải là báo hiệu sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử. Trong bài tiểu luận, ông Brooks dẫn lời ông Samuel P. Huntington, một trong những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ thứ 20, trong đó ông Huntington kết luận rằng nước Mỹ cứ khoảng 60 năm lại trải qua một t́nh trạng “động kinh đạo đức” (moral convulsions). Theo ông Huntington, những triệu chứng bao gồm, một sự mất niềm tin vào các định chế, phẫn nộ đạo đức phổ biến, một sự bất tín nhiệm và khinh thị tầng lớp “elite” lănh đạo, một thế hệ trẻ mới lớn với các phương tiện truyền thông mới chi phối cuộc tranh luận và những nhóm ở biên duyên nổi lên giành lấy quyền kiểm soát.
Ông Huntington viết những lời này vào cuối thế kỷ trước, nhưng đọc nghe như mô tả t́nh trạng nước Mỹ hiện nay. Nhưng cái ǵ kích động t́nh trạng suy thoái này? Ông Brooks quy trách nhiệm cho t́nh trạng mất niềm tin nói chung vào xă hội (social trust) mà theo ông Brooks “là một thước đo phẩm chất đạo đức của một xă hội – liệu dân chúng và những định chế của họ có xứng đáng, liệu họ có giữ lời hứa và đóng góp vào cho lợi ích chung. Khi những con tin của một tôn giáo mất niềm tin vào vị chủ tể của họ th́ tôn giáo đó sụp đổ. Khi người dân của một xă hội mất niềm tin vào nhau và vào những định chế chung th́ xă hội đó sụp đổ.”
Nhưng cái ǵ kích động cuộc khủng hoảng niềm tin này? V́ sao xă hội chính trị và văn hóa Mỹ đi vào một con đường lệch lạc đến nỗi cuối cùng nó dẫn đến Trump, 20,000 lời nói dối và đánh bắn nhau ngoài đường phố?
Lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, John F.Kennedy làm tổng thống, cả nước Mỹ tràn trề hy vọng. Cuộc cách mạng giải phóng cá nhân lúc đó bắt đầu và nó dẫn đến một loạt những thay đổi đưa đến một nước Mỹ công b́nh hơn, b́nh đẳng hơn. Nó cũng là giai đoạn trưởng thành của thế hệ “baby boomer.”
Lần thứ hai tôi tới nước Mỹ, Bill Clinton, một thành viên của thế hệ “baby boomer” làm tổng thống, đại biểu tiêu biểu nhất của thế hệ này – đàn ông da trắng bị ảnh hưởng chính trị và văn hóa của phong trào giải phóng thời Kennedy-Johnson. Thăng tiến xă hội là một hiện thực đối với họ. Mọi chuyện có vẻ đều trong tầm tay; sự phồn thịnh được coi như là một chuyện dĩ nhiên cũng như niềm tin rằng con cái họ sẽ có một cuộc sống c̣n tốt hơn là họ.
Sự lạc quan hầu như vô cùng của họ nh́n lại thấy có vẻ như là ngây thơ. Khẩu hiệu tranh cử của ông Clinton năm 1992 “It’s the economy, stupid,” có nghĩa là nếu nền kinh tế cứ tiếp tục tăng trưởng, mọi chuyện sẽ tiếp tục trở nên tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
Donald Trump cũng là một người thuộc thế hệ “baby boomer.” Và tuy rằng không giống Bill Clinton, Trump cũng bị bầu không khí của những năm 1960 uốn nắn. Nó không phải chỉ có tự do kinh tế mà cả đạo đức xă hội. Nó dựa trên một niềm tin rằng nếu để mọi người tự do t́m sự thỏa măn cá nhân cho ḿnh th́ kết quả sẽ là một xă hội hạnh phúc.
Nhưng thực tế không bao giờ giống như ước vọng. Và giải phóng cũng có những hậu quả xấu của nó. Dấu hiệu đầu tiên về một sự băng hoại trong xă hội Mỹ đến vào năm 2002 khi kênh TV HBO phát h́nh một bộ phim tập phóng sự về thành phố Baltimore tên là “The Wire,” trong đó cho thấy làm sao một thành phố như là Baltimore có thể rơi xuống t́nh trạng một “failed state” với ma túy hoành hành công khai, với những đường phố đầy những căn nhà đóng cửa kín và bị những băng đảng tội phạm kiểm soát; với bến cảng vắng tàu và công nhân phần lớn thất nghiệp. Ngay cả đến cảnh sát cũng chán nản và các chính trị gia th́ hủ hóa. Nói chung, tất cả những ǵ ông Brooks viết về niềm tin đều đă bị tát cạn. Theo ông David Simon, người thực hiện chương tŕnh này th́ “Người ta không tin rằng có thể làm được một cái ǵ cho khác được.”
“The Wire” rọi sáng vấn đề hiện hữu của một nhóm “lumpenproletariat” da đen tại các thành phố mà đă trở thành bị bỏ rơi và cô lập. Nhưng tại các vùng quê và các tiểu bang phi kỹ nghệ hóa, các tiểu bang như Ohio và West Virginia, một giai cấp “lumpenproletariat” da trắng khác cũng xuất hiện. Tuy rằng đầu tiên không có mấy ai để ư nhưng họ cũng cảm thấy bị cô lập và bỏ rơi không kém ǵ các người da đen tại các trung tâm thành thị lớn.
Năm 2012, ba năm trước khi ông Trump chính thức nhảy và chính trị, nhà chính trị học Charles Murray là người đầu tiên viết về giai cấp da trắng mới này. Điều đáng chú ư là đặc trưng của họ không phải chỉ thuần túy kinh tế mà có liên quan đến tâm lư, đạo đức và thói quen.
Trong cuốn sách “Coming Apart,” ông Murray mô tả một địa danh giả tưởng Fishtown, một thành phố hậu công nghiệp, nơi mà đạo đức đi xuống và thất nghiệp đi lên. Fishtown được ông Murrya dựng lên từ các con số thống kê và các cuộc thăm ḍ để vẽ ra một bức tranh đầy ấn tượng. Càng ngày người dân tại Fishtown đều cảm thấy họ không có khả năng làm việc trong lúc chỉ có từ một phần tư đến một phần ba trẻ em sống trong một gia đ́nh có cả cha lẫn mẹ. Người ta cũng không c̣n đi lễ nhà thờ, nơi mà trước vẫn đóng một vai tṛ ổn định cho cộng đồng.
Fishtown là một nơi giả tưởng, nhưng có hàng ngàn những Fishtown tương tự tại West Virginai, Ohio, Kentucky và nhiều tiểu bang khác. Những thị trấn này bị từ từ tiêu hủy kể từ những năm 2000 bởi v́ “opioids,” những thuốc giảm đau có tính cách làm người ta nghiện ngập như heroin. Có những pḥng mạch bác sĩ tại các thị trấn nhỏ mà mô h́nh làm ăn căn bản là bán đơn thuốc mua Oxycontin, loại opioid thông dụng nhất với giá $250 một đơn cho hàng triệu dân nghiện da trắng mới.
Trong lúc “crack” và “heroin” vẫn là ma túy chính cho dân da đen tại các thành thị th́ “Oxy” đă trở thành ma túy cho dân da trắng tại các vùng khác. Và với thời gian dần dà giữa những người này và những người khác càng ngày càng khác biệt. Và họ tin rằng cả thế giới đều chống lại họ; và rằng có những ai đó đang t́m cách đánh lừa họ. Về căn bản nó là cái t́nh cảm mà tổng thống của họ khuyến khích. Ông Trump vẫn nhấn mạnh là người ta cướp đi sự thắng cử của ông.
Hơn một tháng sau cuộc bầu cử ông Trump vẫn c̣n chưa chấp nhận là ḿnh thua và tiếp tục t́m cách đảo ngược kết quả. Một phần lớn đảng Cộng Ḥa, một định chế trên 150 tuổi và là một trong những cột trụ của xă hội Mỹ ủng hộ ông trong cố gắng xói ṃn chế độ dân chủ. Và trên 71 triệu người Mỹ bỏ phiếu cho Trump. Đa số họ c̣n tin vào những lời nói dối của Trump về gian lận bầu cử.
Whither America? [qd]
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1704901&stc=1&d=1607610311
Kết quả cuộc bầu cử tuy rằng làm cho người ta thở phào nhẹ nhơm, nhưng dù sao cũng là một thất vọng lớn: ông Trump đă nhận được c̣n nhiều phiếu bầu hơn là năm 2016. (H́nh: Samuel Corum/Getty Images)
Nói một cách khác, làm sao mà ông Donald Trump không bị thiệt hại một cách đáng kể bởi v́ tất cả những lời nói dối, vi phạm đạo đức, khuyến khích hầu như công khai tinh thần kỳ thị chủng tộc cũng như quản lư tồi tệ việc chống căn dịch bệnh COVID-19 đă khiến cho trên một phần tư triệu người Mỹ bỏ ḿnh.
Kết quả cuộc bầu cử tuy rằng làm cho người ta thở phào nhẹ nhơm, nhưng dù sao cũng là một thất vọng lớn, nhất là đối với những người có một ư thức tốt đẹp về nước Mỹ. Nhiều người Dân Chủ hy vọng có một chiến thắng áp đảo cho ông Joe Biden và một thất bại thê thảm cho đảng Cộng Ḥa và tổng thống của họ. Họ hy vọng có một kết quả rơ ràng như vậy mới cho thấy chiến thắng của ông Trump năm 2016 là một ngoại lệ lịch sử và tẩy sạch vết nhơ Trump ra khỏi các cuốn sách lịch sử Mỹ về sau. Nhưng thay vào đó, ông Trump đă nhận được c̣n nhiều phiếu bầu hơn là năm 2016.
Nước Mỹ biết là ḿnh bị bệnh. Cả hai phe Dân Chủ và Cộng Ḥa đều đồng ư, chỉ khác nhau là mỗi phe đổ cho phe bên kia là đă phản bội lư tưởng Mỹ mà thôi. Người ta hồ nghi về sự chính đáng (legitimacy) của cuộc bầu cử và niềm tin vào những định chế chính trị đă sụp đổ.
Một phần quan trọng các phương tiện truyền thông đă từ bỏ hay mất đi vai tṛ như là những người nhân chứng khách quan. Các toán dân quân vũ trang đi tuần các đường phố; và hầu như bất kỳ một ư kiến nào đưa ra mà không bị tràn ngập những lời phê b́nh đầy hận thù trên các phương tiện truyền thông xă hội.
Và trùm lên tất cả là một ông tổng thống không chịu chấp nhận thất cử, t́m đủ cách để lật lại kết quả và một bệnh dịch lan tràn mà chỉ có thể kiềm chế được bằng một sự đoàn kết xă hội. Tất cả những vấn đề đó sẽ vẫn c̣n với nước Mỹ ngay cả sau khi ông Donald Trump ra đi.
B́nh luận gia David Brooks, một nhà b́nh luận bảo thủ của nhật báo New York Times, trong một bài viết cho tạp chí The Atlantic đặt câu hỏi rằng liệu những triệu chứng của căn bệnh này có phải là báo hiệu sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử. Trong bài tiểu luận, ông Brooks dẫn lời ông Samuel P. Huntington, một trong những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ thứ 20, trong đó ông Huntington kết luận rằng nước Mỹ cứ khoảng 60 năm lại trải qua một t́nh trạng “động kinh đạo đức” (moral convulsions). Theo ông Huntington, những triệu chứng bao gồm, một sự mất niềm tin vào các định chế, phẫn nộ đạo đức phổ biến, một sự bất tín nhiệm và khinh thị tầng lớp “elite” lănh đạo, một thế hệ trẻ mới lớn với các phương tiện truyền thông mới chi phối cuộc tranh luận và những nhóm ở biên duyên nổi lên giành lấy quyền kiểm soát.
Ông Huntington viết những lời này vào cuối thế kỷ trước, nhưng đọc nghe như mô tả t́nh trạng nước Mỹ hiện nay. Nhưng cái ǵ kích động t́nh trạng suy thoái này? Ông Brooks quy trách nhiệm cho t́nh trạng mất niềm tin nói chung vào xă hội (social trust) mà theo ông Brooks “là một thước đo phẩm chất đạo đức của một xă hội – liệu dân chúng và những định chế của họ có xứng đáng, liệu họ có giữ lời hứa và đóng góp vào cho lợi ích chung. Khi những con tin của một tôn giáo mất niềm tin vào vị chủ tể của họ th́ tôn giáo đó sụp đổ. Khi người dân của một xă hội mất niềm tin vào nhau và vào những định chế chung th́ xă hội đó sụp đổ.”
Nhưng cái ǵ kích động cuộc khủng hoảng niềm tin này? V́ sao xă hội chính trị và văn hóa Mỹ đi vào một con đường lệch lạc đến nỗi cuối cùng nó dẫn đến Trump, 20,000 lời nói dối và đánh bắn nhau ngoài đường phố?
Lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, John F.Kennedy làm tổng thống, cả nước Mỹ tràn trề hy vọng. Cuộc cách mạng giải phóng cá nhân lúc đó bắt đầu và nó dẫn đến một loạt những thay đổi đưa đến một nước Mỹ công b́nh hơn, b́nh đẳng hơn. Nó cũng là giai đoạn trưởng thành của thế hệ “baby boomer.”
Lần thứ hai tôi tới nước Mỹ, Bill Clinton, một thành viên của thế hệ “baby boomer” làm tổng thống, đại biểu tiêu biểu nhất của thế hệ này – đàn ông da trắng bị ảnh hưởng chính trị và văn hóa của phong trào giải phóng thời Kennedy-Johnson. Thăng tiến xă hội là một hiện thực đối với họ. Mọi chuyện có vẻ đều trong tầm tay; sự phồn thịnh được coi như là một chuyện dĩ nhiên cũng như niềm tin rằng con cái họ sẽ có một cuộc sống c̣n tốt hơn là họ.
Sự lạc quan hầu như vô cùng của họ nh́n lại thấy có vẻ như là ngây thơ. Khẩu hiệu tranh cử của ông Clinton năm 1992 “It’s the economy, stupid,” có nghĩa là nếu nền kinh tế cứ tiếp tục tăng trưởng, mọi chuyện sẽ tiếp tục trở nên tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
Donald Trump cũng là một người thuộc thế hệ “baby boomer.” Và tuy rằng không giống Bill Clinton, Trump cũng bị bầu không khí của những năm 1960 uốn nắn. Nó không phải chỉ có tự do kinh tế mà cả đạo đức xă hội. Nó dựa trên một niềm tin rằng nếu để mọi người tự do t́m sự thỏa măn cá nhân cho ḿnh th́ kết quả sẽ là một xă hội hạnh phúc.
Nhưng thực tế không bao giờ giống như ước vọng. Và giải phóng cũng có những hậu quả xấu của nó. Dấu hiệu đầu tiên về một sự băng hoại trong xă hội Mỹ đến vào năm 2002 khi kênh TV HBO phát h́nh một bộ phim tập phóng sự về thành phố Baltimore tên là “The Wire,” trong đó cho thấy làm sao một thành phố như là Baltimore có thể rơi xuống t́nh trạng một “failed state” với ma túy hoành hành công khai, với những đường phố đầy những căn nhà đóng cửa kín và bị những băng đảng tội phạm kiểm soát; với bến cảng vắng tàu và công nhân phần lớn thất nghiệp. Ngay cả đến cảnh sát cũng chán nản và các chính trị gia th́ hủ hóa. Nói chung, tất cả những ǵ ông Brooks viết về niềm tin đều đă bị tát cạn. Theo ông David Simon, người thực hiện chương tŕnh này th́ “Người ta không tin rằng có thể làm được một cái ǵ cho khác được.”
“The Wire” rọi sáng vấn đề hiện hữu của một nhóm “lumpenproletariat” da đen tại các thành phố mà đă trở thành bị bỏ rơi và cô lập. Nhưng tại các vùng quê và các tiểu bang phi kỹ nghệ hóa, các tiểu bang như Ohio và West Virginia, một giai cấp “lumpenproletariat” da trắng khác cũng xuất hiện. Tuy rằng đầu tiên không có mấy ai để ư nhưng họ cũng cảm thấy bị cô lập và bỏ rơi không kém ǵ các người da đen tại các trung tâm thành thị lớn.
Năm 2012, ba năm trước khi ông Trump chính thức nhảy và chính trị, nhà chính trị học Charles Murray là người đầu tiên viết về giai cấp da trắng mới này. Điều đáng chú ư là đặc trưng của họ không phải chỉ thuần túy kinh tế mà có liên quan đến tâm lư, đạo đức và thói quen.
Trong cuốn sách “Coming Apart,” ông Murray mô tả một địa danh giả tưởng Fishtown, một thành phố hậu công nghiệp, nơi mà đạo đức đi xuống và thất nghiệp đi lên. Fishtown được ông Murrya dựng lên từ các con số thống kê và các cuộc thăm ḍ để vẽ ra một bức tranh đầy ấn tượng. Càng ngày người dân tại Fishtown đều cảm thấy họ không có khả năng làm việc trong lúc chỉ có từ một phần tư đến một phần ba trẻ em sống trong một gia đ́nh có cả cha lẫn mẹ. Người ta cũng không c̣n đi lễ nhà thờ, nơi mà trước vẫn đóng một vai tṛ ổn định cho cộng đồng.
Fishtown là một nơi giả tưởng, nhưng có hàng ngàn những Fishtown tương tự tại West Virginai, Ohio, Kentucky và nhiều tiểu bang khác. Những thị trấn này bị từ từ tiêu hủy kể từ những năm 2000 bởi v́ “opioids,” những thuốc giảm đau có tính cách làm người ta nghiện ngập như heroin. Có những pḥng mạch bác sĩ tại các thị trấn nhỏ mà mô h́nh làm ăn căn bản là bán đơn thuốc mua Oxycontin, loại opioid thông dụng nhất với giá $250 một đơn cho hàng triệu dân nghiện da trắng mới.
Trong lúc “crack” và “heroin” vẫn là ma túy chính cho dân da đen tại các thành thị th́ “Oxy” đă trở thành ma túy cho dân da trắng tại các vùng khác. Và với thời gian dần dà giữa những người này và những người khác càng ngày càng khác biệt. Và họ tin rằng cả thế giới đều chống lại họ; và rằng có những ai đó đang t́m cách đánh lừa họ. Về căn bản nó là cái t́nh cảm mà tổng thống của họ khuyến khích. Ông Trump vẫn nhấn mạnh là người ta cướp đi sự thắng cử của ông.
Hơn một tháng sau cuộc bầu cử ông Trump vẫn c̣n chưa chấp nhận là ḿnh thua và tiếp tục t́m cách đảo ngược kết quả. Một phần lớn đảng Cộng Ḥa, một định chế trên 150 tuổi và là một trong những cột trụ của xă hội Mỹ ủng hộ ông trong cố gắng xói ṃn chế độ dân chủ. Và trên 71 triệu người Mỹ bỏ phiếu cho Trump. Đa số họ c̣n tin vào những lời nói dối của Trump về gian lận bầu cử.
Whither America? [qd]