florida80
12-17-2020, 23:33
Nón lá La Bông, chiếu Cẩm Nê và đan đát Yến Nê là ba làng nghề truyền thống trên địa bàn xă Ḥa Tiến, huyện Ḥa Vang, giờ đang lay lắt bên bờ vực quên lăng. Nếu nghề dệt chiếu c̣n cầm cự với non mươi hộ th́ nghề chằm nón gần như bị lăng quên ngay trên vùng đất khai sinh ra nó - thôn La Bông.
Đến nay vẫn chưa thấy một tài liệu nào cho biết chính xác nghề chằm nón lá La Bông có nguồn gốc từ đâu và được du nhập vào làng lúc nào. Ngay cả đề án “Phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống thành phố Đà Nẵng” do Sở Công nghiệp (nay là Sở Công thương) Đà Nẵng biên soạn năm 2006 cũng chỉ cập nhật một vài thông tin thời hiện tại.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Phương, Trường Đại học (ĐH) Sư phạm - ĐH Huế, khi làm luận án tiến sĩ với đề tài “Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng (1802-1945)” đă thực hiện chuyến điền dă về La Bông, được nghe các bậc cao niên nơi này khẳng định người có công đem nghề chằm nón về làng là ông Nguyễn Tích (c̣n gọi là Trùm Tích), hậu duệ đời thứ 14 của họ Nguyễn làng La Bông. Không rơ ông Tích sinh năm nào, nhưng so ngang đời thứ 14 có ông Nguyễn Đ́nh Ty (sinh năm 1881), nguyên là quan thất phẩm dưới triều Nhà Nguyễn, có lẽ hai ông cũng có độ tuổi hơn kém nhau không nhiều.
Các cụ cao niên làng La Bông kể rằng, ngày đó ông Nguyễn Tích sau lần đi làm ăn xa đă mang về làng một chiếc nón lạ giống như mũ mà người Pháp thường đội nhưng lại có vành. Dựa vào cấu trúc của chiếc mũ lạ này, ông cùng vợ và con mày ṃ bắt chước làm theo, sau bày lại cho bà con trong làng. Như vậy là vào thời điểm truyền nghề này th́ con ông đă lớn và đủ khả năng theo học. Từ đó, tác giả Nguyễn Minh Phương khẳng định (trong tài liệu đă dẫn) thời điểm ra đời của nghề chằm nón La Bông vào khoảng những năm đầu thế kỷ XX.
Ban đầu chỉ vài gia đ́nh học nghề và làm nghề, sau lan dần ra cả làng. Nghề chằm nón ngày càng phát triển, nhu cầu về nguồn nguyên liệu, đặc biệt là lá nón, ngày càng cao nên một số gia đ́nh như các ông Hương Lịch, Hương Thuận, Xă Bính… vừa làm nghề chằm nón vừa đứng ra cung cấp nguyên liệu cho các gia đ́nh khác.
Nón La Bông bấy giờ chủ yếu là nón thô hay c̣n gọi là nón thường, đây là loại nón được sử dụng thường ngày. Ngoài ra c̣n có nón diễn, khác nón thô ở chỗ có 5 - 6 h́nh con bướm có cánh làm bằng giấy kim bảng gắn xung quanh, nằm ở giữa vành thứ năm và thứ sáu kể từ chân lên đỉnh. Phía trong đỉnh nón lại có gắn hoa thị bằng giấy kim bảng ở giữa, xung quanh có h́nh răng cưa. Người đầu tiên tạo ra nón này là ông Nguyễn Nghiêm (1912-1969), một trong những người chằm nón nổi tiếng ở La Bông.
Nón diễn tồn tại trong những năm đầu thập niên 30, đến những năm đầu thập niên 60 th́ không c̣n nữa.
So với nghề nông, nghề nón cũng chỉ là nghề phụ cho dù đến đầu thế kỷ XX, hơn 80% số hộ trong làng tham gia nghề thủ công này. Trong số đó, một số hộ đă tách ra khỏi nghề nông, chuyển hẳn sang chằm nón. Một số hộ chuyên đi mua nguyên liệu về bán, một số khác chuyên đi thu gom nón để mang đi bán cho các mối lái ở chợ. Những người đàn ông trong làng như Trùm Tŕnh, Hương Lịch, Xă Bính, Hương Thuận… đă đi bộ, gánh nón La Bông đi bán khắp nơi từ Ḥa Vang ra vùng trung tâm Đà Nẵng, các chợ có sức mua nhiều là Túy Loan, Miếu Bông, Lệ Trạch, Tùng Sơn, An Ngăi, Ḥa Mỹ…
Nh́n chung, nón La Bông ít được xuất đi xa, bởi lẽ giá của nón c̣n thấp, xuất đi xa sẽ không có lợi nhuận. Vả lại, các tỉnh, thành lân cận đều có nghề chằm nón rất phát triển. Ở Huế vốn nổi tiếng với chiếc nón bài thơ; ở Quảng Nam có đến ba làng nghề chằm nón: Giảng Ḥa (xă Đại Thắng, huyện Đại Lộc), Xuyên Đông (xă Duy An, huyện Duy Xuyên), Diên Lộc (xă Quế Minh, huyện Quế Sơn). Tuy nhiên, nghề chằm nón ở các làng này không nổi tiếng và không phát triển bằng làng La Bông. Nón ở Giảng Ḥa là nón bù hụp khác với nón lá thường, nón bù hụp không dùng để đội mà được xuất vào Nam để... đậy mủ cao su.
Những năm đầu thế kỷ XX là thời kỳ thịnh đạt nhất của nghề chằm nón La Bông. Dân làng lập nên một hội làng nghề với khoảng 20 hội viên, toàn nam giới. Ban ngày các hội viên chằm nón lo cuộc sống riêng cho gia đ́nh, ban đêm tập trung lại chằm nón bán lấy tiền chung lại lập thành quỹ, cuối năm trích quỹ tổ chức bữa tiệc liên hoan.
Theo nhận định của tác giả tài liệu đă dẫn, kể từ khi nghề chằm nón xuất hiện, bộ mặt kinh tế làng La Bông có nhiều thay đổi. Nghề thủ công này đă giúp các gia đ́nh bớt khó nhọc. Những hộ ít ruộng đất, hay những người không đủ sức dầm sương dăi nắng bám trụ nghề nông, th́ chằm nón là nghề cứu cánh của họ.
Tuy nhiên, thời hoàng kim của nón lá La Bông kéo dài chưa bao lâu th́ chiến tranh đă đưa làng nghề nhanh chóng vào buổi thoái trào. Sau khi ḥa b́nh được lập lại, măi đến cuối những năm 80 thế kỷ XX, những người làm nghề chằm nón nơi đây mới rục rịch sản xuất trở lại. Từ đầu làng đến cuối xóm lại nhộn nhịp cảnh phơi lá nón, xe cước, chằm nón... Nón lá không chỉ trở thành bạn đồng hành của nông dân “trên đồng cạn dưới đồng sâu” mà c̣n được du khách gần xa đặt hàng theo từng hoa văn, mẫu mă riêng.
Thế rồi, cuộc sống thời hiện đại đă làm thay đổi cách phục trang của con người, chiếc nón lá La Bông lần nữa lại trở thành chuyện của ngày hôm qua, dân làng lại quay về nghề nông như trước. Người viết từng được ông Đinh Hồng Quế, cán bộ phụ trách mảng xây dựng đời sống văn hóa xă Ḥa Tiến đưa về thăm La Bông. Bà Nguyễn Thị Trỉ ở tổ 2, một trong những “bàn tay vàng” chằm nón ở La Bông giờ đă ngoài bát tuần, tỏ ư buồn ḷng: “Chừ cũng c̣n mấy người biết nghề, nhưng không ai làm hết, làm rồi bán cho ai?!”.
https://i.imgur.com/29lFcYZ.jpg
Bà Nguyễn Thị Trỉ (phải) là một trong những “bàn tay vàng” nghề chằm nón ở La Bông. Ảnh: V.T.L
Nghề không ai làm, nhưng câu ca làng nghề xưa th́ ai cũng nhớ: “Cái khuôn lừng chừng không sâu không cạn/ Cái nón h́nh dạng nửa Quảng nửa Kinh/ Trên thao dưới đoác tận t́nh/ Trên đầu cài bông hoa lư, dưới cắt bộ h́nh răng cưa/ Nức bông dâu mũi nhặt mũi sưa/ Chạy đàng con tít chân vào chân ra”.
VĂN THÀNH LÊ
Đến nay vẫn chưa thấy một tài liệu nào cho biết chính xác nghề chằm nón lá La Bông có nguồn gốc từ đâu và được du nhập vào làng lúc nào. Ngay cả đề án “Phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống thành phố Đà Nẵng” do Sở Công nghiệp (nay là Sở Công thương) Đà Nẵng biên soạn năm 2006 cũng chỉ cập nhật một vài thông tin thời hiện tại.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Phương, Trường Đại học (ĐH) Sư phạm - ĐH Huế, khi làm luận án tiến sĩ với đề tài “Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng (1802-1945)” đă thực hiện chuyến điền dă về La Bông, được nghe các bậc cao niên nơi này khẳng định người có công đem nghề chằm nón về làng là ông Nguyễn Tích (c̣n gọi là Trùm Tích), hậu duệ đời thứ 14 của họ Nguyễn làng La Bông. Không rơ ông Tích sinh năm nào, nhưng so ngang đời thứ 14 có ông Nguyễn Đ́nh Ty (sinh năm 1881), nguyên là quan thất phẩm dưới triều Nhà Nguyễn, có lẽ hai ông cũng có độ tuổi hơn kém nhau không nhiều.
Các cụ cao niên làng La Bông kể rằng, ngày đó ông Nguyễn Tích sau lần đi làm ăn xa đă mang về làng một chiếc nón lạ giống như mũ mà người Pháp thường đội nhưng lại có vành. Dựa vào cấu trúc của chiếc mũ lạ này, ông cùng vợ và con mày ṃ bắt chước làm theo, sau bày lại cho bà con trong làng. Như vậy là vào thời điểm truyền nghề này th́ con ông đă lớn và đủ khả năng theo học. Từ đó, tác giả Nguyễn Minh Phương khẳng định (trong tài liệu đă dẫn) thời điểm ra đời của nghề chằm nón La Bông vào khoảng những năm đầu thế kỷ XX.
Ban đầu chỉ vài gia đ́nh học nghề và làm nghề, sau lan dần ra cả làng. Nghề chằm nón ngày càng phát triển, nhu cầu về nguồn nguyên liệu, đặc biệt là lá nón, ngày càng cao nên một số gia đ́nh như các ông Hương Lịch, Hương Thuận, Xă Bính… vừa làm nghề chằm nón vừa đứng ra cung cấp nguyên liệu cho các gia đ́nh khác.
Nón La Bông bấy giờ chủ yếu là nón thô hay c̣n gọi là nón thường, đây là loại nón được sử dụng thường ngày. Ngoài ra c̣n có nón diễn, khác nón thô ở chỗ có 5 - 6 h́nh con bướm có cánh làm bằng giấy kim bảng gắn xung quanh, nằm ở giữa vành thứ năm và thứ sáu kể từ chân lên đỉnh. Phía trong đỉnh nón lại có gắn hoa thị bằng giấy kim bảng ở giữa, xung quanh có h́nh răng cưa. Người đầu tiên tạo ra nón này là ông Nguyễn Nghiêm (1912-1969), một trong những người chằm nón nổi tiếng ở La Bông.
Nón diễn tồn tại trong những năm đầu thập niên 30, đến những năm đầu thập niên 60 th́ không c̣n nữa.
So với nghề nông, nghề nón cũng chỉ là nghề phụ cho dù đến đầu thế kỷ XX, hơn 80% số hộ trong làng tham gia nghề thủ công này. Trong số đó, một số hộ đă tách ra khỏi nghề nông, chuyển hẳn sang chằm nón. Một số hộ chuyên đi mua nguyên liệu về bán, một số khác chuyên đi thu gom nón để mang đi bán cho các mối lái ở chợ. Những người đàn ông trong làng như Trùm Tŕnh, Hương Lịch, Xă Bính, Hương Thuận… đă đi bộ, gánh nón La Bông đi bán khắp nơi từ Ḥa Vang ra vùng trung tâm Đà Nẵng, các chợ có sức mua nhiều là Túy Loan, Miếu Bông, Lệ Trạch, Tùng Sơn, An Ngăi, Ḥa Mỹ…
Nh́n chung, nón La Bông ít được xuất đi xa, bởi lẽ giá của nón c̣n thấp, xuất đi xa sẽ không có lợi nhuận. Vả lại, các tỉnh, thành lân cận đều có nghề chằm nón rất phát triển. Ở Huế vốn nổi tiếng với chiếc nón bài thơ; ở Quảng Nam có đến ba làng nghề chằm nón: Giảng Ḥa (xă Đại Thắng, huyện Đại Lộc), Xuyên Đông (xă Duy An, huyện Duy Xuyên), Diên Lộc (xă Quế Minh, huyện Quế Sơn). Tuy nhiên, nghề chằm nón ở các làng này không nổi tiếng và không phát triển bằng làng La Bông. Nón ở Giảng Ḥa là nón bù hụp khác với nón lá thường, nón bù hụp không dùng để đội mà được xuất vào Nam để... đậy mủ cao su.
Những năm đầu thế kỷ XX là thời kỳ thịnh đạt nhất của nghề chằm nón La Bông. Dân làng lập nên một hội làng nghề với khoảng 20 hội viên, toàn nam giới. Ban ngày các hội viên chằm nón lo cuộc sống riêng cho gia đ́nh, ban đêm tập trung lại chằm nón bán lấy tiền chung lại lập thành quỹ, cuối năm trích quỹ tổ chức bữa tiệc liên hoan.
Theo nhận định của tác giả tài liệu đă dẫn, kể từ khi nghề chằm nón xuất hiện, bộ mặt kinh tế làng La Bông có nhiều thay đổi. Nghề thủ công này đă giúp các gia đ́nh bớt khó nhọc. Những hộ ít ruộng đất, hay những người không đủ sức dầm sương dăi nắng bám trụ nghề nông, th́ chằm nón là nghề cứu cánh của họ.
Tuy nhiên, thời hoàng kim của nón lá La Bông kéo dài chưa bao lâu th́ chiến tranh đă đưa làng nghề nhanh chóng vào buổi thoái trào. Sau khi ḥa b́nh được lập lại, măi đến cuối những năm 80 thế kỷ XX, những người làm nghề chằm nón nơi đây mới rục rịch sản xuất trở lại. Từ đầu làng đến cuối xóm lại nhộn nhịp cảnh phơi lá nón, xe cước, chằm nón... Nón lá không chỉ trở thành bạn đồng hành của nông dân “trên đồng cạn dưới đồng sâu” mà c̣n được du khách gần xa đặt hàng theo từng hoa văn, mẫu mă riêng.
Thế rồi, cuộc sống thời hiện đại đă làm thay đổi cách phục trang của con người, chiếc nón lá La Bông lần nữa lại trở thành chuyện của ngày hôm qua, dân làng lại quay về nghề nông như trước. Người viết từng được ông Đinh Hồng Quế, cán bộ phụ trách mảng xây dựng đời sống văn hóa xă Ḥa Tiến đưa về thăm La Bông. Bà Nguyễn Thị Trỉ ở tổ 2, một trong những “bàn tay vàng” chằm nón ở La Bông giờ đă ngoài bát tuần, tỏ ư buồn ḷng: “Chừ cũng c̣n mấy người biết nghề, nhưng không ai làm hết, làm rồi bán cho ai?!”.
https://i.imgur.com/29lFcYZ.jpg
Bà Nguyễn Thị Trỉ (phải) là một trong những “bàn tay vàng” nghề chằm nón ở La Bông. Ảnh: V.T.L
Nghề không ai làm, nhưng câu ca làng nghề xưa th́ ai cũng nhớ: “Cái khuôn lừng chừng không sâu không cạn/ Cái nón h́nh dạng nửa Quảng nửa Kinh/ Trên thao dưới đoác tận t́nh/ Trên đầu cài bông hoa lư, dưới cắt bộ h́nh răng cưa/ Nức bông dâu mũi nhặt mũi sưa/ Chạy đàng con tít chân vào chân ra”.
VĂN THÀNH LÊ