troopy
12-19-2020, 06:27
Ở quê ḿnh, “gái miền Tây” từng là một cụm từ ám ảnh. Ḿnh lớn lên với những câu chuyện nghe như huyền thoại về những cô dâu miền Tây.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1709511&stc=1&d=1608359250
- Vợ thằng Tư gái miền Tây, cưới bữa trước bữa sau nó ôm vàng đi hết!
- Vợ thằng Tèo có biết làm chi mô, suốt ngày chỉ có đi chợ, tiêu hoang như quỷ!
- Bà Tám dzô phước thiệt, rước phải cái con dâu miền Tây, không biết tính toán chi hết, ra ruộng đứng xớ rớ xớ rớ. Ngó chắc không được mấy bữa!
Ở miền Trung nghèo xác xơ, mấy cô gái miền Tây tṛn trịa, trắng trơn nh́n không ăn rơ. Mấy cổ hay cười, nói giọng lạ hoắc, lại chẳng hiểu tiếng người quê. Các cô trung niên ở đó hay có kiểu xua tay mỗi lần cần thêm một người phụ nữ phụ tiệc tùng làng xóm: “thôi, con nớ miền Tây không biết chi mô!”
Mà hồi đó ở miền Trung, mấy cô dâu miền Tây cũng không quá… phổ biến. Hiếm hoi lắm, có anh trai làng nào đó đi làm Sài G̣n thiệt lâu mới dắt về một cô dâu miền Tây. Đó là mấy ảnh yêu dữ lắm th́ mới xăm ḿnh dẫn về. Chứ chưa cần biết nghề nghiệp, tính t́nh, chỉ cần nghe cái xuất xứ “miền Tây” là mấy bà mẹ quê đă rùng ḿnh, ớn lạnh. Mẹ già miền Trung sợ đàn bà “không biết tính toán” một, th́ sợ mấy đứa con dâu hồn nhiên mà ngọt ngào, mê hoặc chồng đến mười.
Ḿnh lớn lên, vào Sài G̣n, không c̣n biết đâu là người miền nào nữa. Bạn bè muôn phương. Nhưng quả thực, ḿnh thường cảm t́nh nhiều hơn với người miền Tây. Đến lúc nghiên cứu về văn hóa, ḿnh mê miệt đồng bằng sông nước đó đứ đừ. Hễ nghe ai nói đến từ xứ đó, ḿnh đă âm thầm ái mộ. Thỉnh thoảng đối chiếu cảm giác bây giờ với những “hiểu biết” xưa kia về người miền Tây, ḿnh chỉ buồn cười.
Cho đến một buổi chiều, ḿnh được phân công đi công tác gấp đến Gia Lai. Ở đó có một người đàn bà bị ung thư, chịu bạo hành gia đ́nh. Ṭa soạn làm công lệnh và mua sẵn vé máy bay. Ḿnh nhận điện thoại xong gói ghém đồ đạc và lên đường ngay, dù suốt buổi chiều đó ḿnh không thể liên lạc được với chị để hẹn gặp.
Thời may, máy bay vừa hạ cánh, ḿnh thử gọi lại th́ được kết nối với chị. Chị hẹn gặp ḿnh ở quán cà phê lớn nhất Pleiku. Chiều muộn mờ mịt.
Cuộc tṛ chuyện đi qua từng giai đoạn trong cuộc đời chị. Chị kể nhiều về bi kịch hôn nhân, về biến cố bệnh tật - sau chuyến đó ḿnh đă viết một bài báo về câu chuyện này. Nhưng câu chuyện làm ḿnh ám ảnh, và vẫn ám ảnh cho đến tận bây giờ là những tâm sự buồn của chị - một phụ nữ miền Tây rặt lên vùng cao nguyên này làm dâu.
Chồng chị là trí thức, chị là người buôn bán ở chợ Vĩnh Long, họ gặp nhau khi anh theo học một khóa học ở quê chị, sinh hai con, rồi mới lại về nhà anh ở Gia Lai. Ở đó, chị vẫn tiếp tục buôn bán, chồng chị đi dạy. Hạnh phúc ngày một tụt dốc, anh lạnh nhạt, rồi bạo hành triền miên. Từ ngày mắc ung thư, chị hay đi những chuyến xe đêm xuống SG điều trị rồi lại bắt xe đêm về Gia Lai, lo chuyện cơm nước. Đời chị buồn như một con dốc buổi xế tà. Nhưng tất cả những biến cố đó nghe vẫn không buồn bằng việc “chị không hạp ở đây, ba má ảnh không thương chị, nói chị xài hao, không biết tính toán, không biết làm đàn bà”.
Nhà chồng chị quê gốc Quảng Nam, lên Gia Lai đi kinh tế mới. Vùng đó, theo chị th́ “mưa quài mưa quỷ”. Từ ngày đầu tiên anh dắt chị về, nói chị người Vĩnh Long, ba má anh đă ngó lơ, mấy người chị chồng bĩu môi, lắc đầu. Từ bấy đến nay, dù đă sinh hai mặt con, đồng cam cộng khổ - chị vẫn chưa bao giờ được xem là một thành viên trong gia đ́nh.
Chuyện làm dâu của chị buồn như một thiếu phụ trong gia đ́nh phong kiến sa sút. Nhưng bên ngoài, chị cũng không có ai để bầu bạn. Chị đi chợ mua 2 lạng tôm nấu canh, người hàng xóm đứng bên cạnh nói “mua chi hung, bằng người ta ăn ba ngày”. Chị kho một nồi thịt kho tàu, họ nói nhà có 4 người mà ăn bằng cả xóm. Chị bán hàng cả ngày, phải kéo cái bếp ra phía trước vừa coi hàng vừa nội trợ, người ta nói chị… ham ăn, suốt ngày lo chuyện ăn uống. Chị thấy ngột ngạt, nghĩ đủ cách để làm vui ḷng hàng xóm. Chị nấu nồi chè bà ba, làm sâm bổ lượng cho chồng con bốn phần, c̣n đem mấy phần chia đều cho hàng xóm. Qua hôm sau, một trong số họ sang bỏ nhỏ: “người ta nói bà ăn sang, nấu một món chè mà bỏ đủ thứ hạt củ…”.
Chị kể một dây, giọng hiền khô mà nặng trịch, rồi nói: “chị nhớ Sài G̣n lắm! Đó, ở đây cứ mưa zầy nè, quanh năm”. Chị nói, giơ tay hứng nước mưa làm bằng chứng. Trời đă bắt đầu mưa giăng giăng. Chỗ hai chị em ngồi được nhân viên quán kéo bạt che kín. Lúc đó, ḿnh chợt nhận ra lư do chị nhanh chóng đồng ư gặp ḿnh là v́ ḿnh đến từ Sài G̣n. Người đàn bà cả đời gắn với miền Tây - Sài G̣n, cả đời được sông nước ưu đăi và xem bữa ăn thịnh soạn như một sứ mệnh của một người đàn bà. Người đàn bà miền Tây lớn lên trong cái rộng răi, khoáng đạt, hồn nhiên và t́nh cảm. Đàn bà miền Tây xa lạ với những phép tính chi li, chỉ biết tính làm sao để chồng con có một bữa ăn đúng nghĩa, để có cái sớt sang nhà họ hàng, lối xóm. Phải vui trước, t́nh cảm trước, rồi mới toan chuyện để dành.
Vậy mà chị lạc về đây, sống trong cái khúc khuỷu của miền cao và cái chật chội của đôi mắt người đời. Ở đây, người ta lớn lên trong khô cằn, khó nhọc, lại theo kinh tế mới về miền ngược, tha hương lập nghiệp, khốn khó trăm bề. Ở đây, ăn bữa nay phải nghĩ bữa mai. Người ta xa lạ với những mâm cơm ê hề. Người ta khó hiểu với những bộ dạng tinh tươm, trắng trơn, với nét cười hồn nhiên, giọng nói ngọt ngay, nhẹ hều của đàn bà xứ khác. Người ta bực bội với người đàn bà không nhọc nhằn tiền nong. Đàn bà không chi li, không dằn giữ của riêng - là một cái tội. Cái cằn cỗi, khốc liệt, cái bất trắc đến bàng hoàng của dải đất miền Trung không dung chứa nổi một sự rộng răi ngần ấy.
Ngồi đối diện chị, ḿnh bị hút vào cái xót xa khi nghĩ người đàn bà suốt hơn một thập niên chỉ biết buồn, thất vọng, rồi cô độc và nghĩ “ở đây người ta kỳ lắm em” - chứ không mảy may biết đến bản chất của bi kịch đời ḿnh. Chị không giống những cô dâu miền Tây trong “truyền thuyết” xóm ḿnh. Các cô đó có thể nhận ra ngay sự khác biệt đến khốc liệt, đă phản vệ với sự khác biệt đó bằng cách “bỏ đi biệt ngay sau ngày cưới”. C̣n chị th́ không. Chị chỉ thấy ngột ngạt, thấy “kỳ”, thấy đời sống u buồn, lưu lạc, và cồn cào nhớ Vĩnh Long, Sài G̣n…
Chị, đă không đủ tinh nhạy để làm ḿnh khác đi, làm ḿnh giống với xung quanh, với chị bạn hàng, cô hàng xóm, để được đồng cảm, yêu thương. Chị “miền Tây” đến tận cùng, để dù hoang mang và bất lực, vẫn chỉ biết là ḿnh: rộng răi, hồn nhiên, và chỉ toan tính những chuyện-rộng-răi.
Sáng nay nói chuyện miền Tây, ḿnh chợt nhớ chị. Nhớ chén chè bà ba bẽ bàng, nhớ cả những cuộc đào tẩu của những cô dâu miền Tây khỏi cái cằn cỗi mọi bề của quê ḿnh.
Thương những người đàn bà miền Tây oan khiên một. Thương những người đàn bà khổ sở, khe khắt và có phần cay nghiệt ở quê ḿnh đó, đến mười.
VietBF sưu tầm
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1709511&stc=1&d=1608359250
- Vợ thằng Tư gái miền Tây, cưới bữa trước bữa sau nó ôm vàng đi hết!
- Vợ thằng Tèo có biết làm chi mô, suốt ngày chỉ có đi chợ, tiêu hoang như quỷ!
- Bà Tám dzô phước thiệt, rước phải cái con dâu miền Tây, không biết tính toán chi hết, ra ruộng đứng xớ rớ xớ rớ. Ngó chắc không được mấy bữa!
Ở miền Trung nghèo xác xơ, mấy cô gái miền Tây tṛn trịa, trắng trơn nh́n không ăn rơ. Mấy cổ hay cười, nói giọng lạ hoắc, lại chẳng hiểu tiếng người quê. Các cô trung niên ở đó hay có kiểu xua tay mỗi lần cần thêm một người phụ nữ phụ tiệc tùng làng xóm: “thôi, con nớ miền Tây không biết chi mô!”
Mà hồi đó ở miền Trung, mấy cô dâu miền Tây cũng không quá… phổ biến. Hiếm hoi lắm, có anh trai làng nào đó đi làm Sài G̣n thiệt lâu mới dắt về một cô dâu miền Tây. Đó là mấy ảnh yêu dữ lắm th́ mới xăm ḿnh dẫn về. Chứ chưa cần biết nghề nghiệp, tính t́nh, chỉ cần nghe cái xuất xứ “miền Tây” là mấy bà mẹ quê đă rùng ḿnh, ớn lạnh. Mẹ già miền Trung sợ đàn bà “không biết tính toán” một, th́ sợ mấy đứa con dâu hồn nhiên mà ngọt ngào, mê hoặc chồng đến mười.
Ḿnh lớn lên, vào Sài G̣n, không c̣n biết đâu là người miền nào nữa. Bạn bè muôn phương. Nhưng quả thực, ḿnh thường cảm t́nh nhiều hơn với người miền Tây. Đến lúc nghiên cứu về văn hóa, ḿnh mê miệt đồng bằng sông nước đó đứ đừ. Hễ nghe ai nói đến từ xứ đó, ḿnh đă âm thầm ái mộ. Thỉnh thoảng đối chiếu cảm giác bây giờ với những “hiểu biết” xưa kia về người miền Tây, ḿnh chỉ buồn cười.
Cho đến một buổi chiều, ḿnh được phân công đi công tác gấp đến Gia Lai. Ở đó có một người đàn bà bị ung thư, chịu bạo hành gia đ́nh. Ṭa soạn làm công lệnh và mua sẵn vé máy bay. Ḿnh nhận điện thoại xong gói ghém đồ đạc và lên đường ngay, dù suốt buổi chiều đó ḿnh không thể liên lạc được với chị để hẹn gặp.
Thời may, máy bay vừa hạ cánh, ḿnh thử gọi lại th́ được kết nối với chị. Chị hẹn gặp ḿnh ở quán cà phê lớn nhất Pleiku. Chiều muộn mờ mịt.
Cuộc tṛ chuyện đi qua từng giai đoạn trong cuộc đời chị. Chị kể nhiều về bi kịch hôn nhân, về biến cố bệnh tật - sau chuyến đó ḿnh đă viết một bài báo về câu chuyện này. Nhưng câu chuyện làm ḿnh ám ảnh, và vẫn ám ảnh cho đến tận bây giờ là những tâm sự buồn của chị - một phụ nữ miền Tây rặt lên vùng cao nguyên này làm dâu.
Chồng chị là trí thức, chị là người buôn bán ở chợ Vĩnh Long, họ gặp nhau khi anh theo học một khóa học ở quê chị, sinh hai con, rồi mới lại về nhà anh ở Gia Lai. Ở đó, chị vẫn tiếp tục buôn bán, chồng chị đi dạy. Hạnh phúc ngày một tụt dốc, anh lạnh nhạt, rồi bạo hành triền miên. Từ ngày mắc ung thư, chị hay đi những chuyến xe đêm xuống SG điều trị rồi lại bắt xe đêm về Gia Lai, lo chuyện cơm nước. Đời chị buồn như một con dốc buổi xế tà. Nhưng tất cả những biến cố đó nghe vẫn không buồn bằng việc “chị không hạp ở đây, ba má ảnh không thương chị, nói chị xài hao, không biết tính toán, không biết làm đàn bà”.
Nhà chồng chị quê gốc Quảng Nam, lên Gia Lai đi kinh tế mới. Vùng đó, theo chị th́ “mưa quài mưa quỷ”. Từ ngày đầu tiên anh dắt chị về, nói chị người Vĩnh Long, ba má anh đă ngó lơ, mấy người chị chồng bĩu môi, lắc đầu. Từ bấy đến nay, dù đă sinh hai mặt con, đồng cam cộng khổ - chị vẫn chưa bao giờ được xem là một thành viên trong gia đ́nh.
Chuyện làm dâu của chị buồn như một thiếu phụ trong gia đ́nh phong kiến sa sút. Nhưng bên ngoài, chị cũng không có ai để bầu bạn. Chị đi chợ mua 2 lạng tôm nấu canh, người hàng xóm đứng bên cạnh nói “mua chi hung, bằng người ta ăn ba ngày”. Chị kho một nồi thịt kho tàu, họ nói nhà có 4 người mà ăn bằng cả xóm. Chị bán hàng cả ngày, phải kéo cái bếp ra phía trước vừa coi hàng vừa nội trợ, người ta nói chị… ham ăn, suốt ngày lo chuyện ăn uống. Chị thấy ngột ngạt, nghĩ đủ cách để làm vui ḷng hàng xóm. Chị nấu nồi chè bà ba, làm sâm bổ lượng cho chồng con bốn phần, c̣n đem mấy phần chia đều cho hàng xóm. Qua hôm sau, một trong số họ sang bỏ nhỏ: “người ta nói bà ăn sang, nấu một món chè mà bỏ đủ thứ hạt củ…”.
Chị kể một dây, giọng hiền khô mà nặng trịch, rồi nói: “chị nhớ Sài G̣n lắm! Đó, ở đây cứ mưa zầy nè, quanh năm”. Chị nói, giơ tay hứng nước mưa làm bằng chứng. Trời đă bắt đầu mưa giăng giăng. Chỗ hai chị em ngồi được nhân viên quán kéo bạt che kín. Lúc đó, ḿnh chợt nhận ra lư do chị nhanh chóng đồng ư gặp ḿnh là v́ ḿnh đến từ Sài G̣n. Người đàn bà cả đời gắn với miền Tây - Sài G̣n, cả đời được sông nước ưu đăi và xem bữa ăn thịnh soạn như một sứ mệnh của một người đàn bà. Người đàn bà miền Tây lớn lên trong cái rộng răi, khoáng đạt, hồn nhiên và t́nh cảm. Đàn bà miền Tây xa lạ với những phép tính chi li, chỉ biết tính làm sao để chồng con có một bữa ăn đúng nghĩa, để có cái sớt sang nhà họ hàng, lối xóm. Phải vui trước, t́nh cảm trước, rồi mới toan chuyện để dành.
Vậy mà chị lạc về đây, sống trong cái khúc khuỷu của miền cao và cái chật chội của đôi mắt người đời. Ở đây, người ta lớn lên trong khô cằn, khó nhọc, lại theo kinh tế mới về miền ngược, tha hương lập nghiệp, khốn khó trăm bề. Ở đây, ăn bữa nay phải nghĩ bữa mai. Người ta xa lạ với những mâm cơm ê hề. Người ta khó hiểu với những bộ dạng tinh tươm, trắng trơn, với nét cười hồn nhiên, giọng nói ngọt ngay, nhẹ hều của đàn bà xứ khác. Người ta bực bội với người đàn bà không nhọc nhằn tiền nong. Đàn bà không chi li, không dằn giữ của riêng - là một cái tội. Cái cằn cỗi, khốc liệt, cái bất trắc đến bàng hoàng của dải đất miền Trung không dung chứa nổi một sự rộng răi ngần ấy.
Ngồi đối diện chị, ḿnh bị hút vào cái xót xa khi nghĩ người đàn bà suốt hơn một thập niên chỉ biết buồn, thất vọng, rồi cô độc và nghĩ “ở đây người ta kỳ lắm em” - chứ không mảy may biết đến bản chất của bi kịch đời ḿnh. Chị không giống những cô dâu miền Tây trong “truyền thuyết” xóm ḿnh. Các cô đó có thể nhận ra ngay sự khác biệt đến khốc liệt, đă phản vệ với sự khác biệt đó bằng cách “bỏ đi biệt ngay sau ngày cưới”. C̣n chị th́ không. Chị chỉ thấy ngột ngạt, thấy “kỳ”, thấy đời sống u buồn, lưu lạc, và cồn cào nhớ Vĩnh Long, Sài G̣n…
Chị, đă không đủ tinh nhạy để làm ḿnh khác đi, làm ḿnh giống với xung quanh, với chị bạn hàng, cô hàng xóm, để được đồng cảm, yêu thương. Chị “miền Tây” đến tận cùng, để dù hoang mang và bất lực, vẫn chỉ biết là ḿnh: rộng răi, hồn nhiên, và chỉ toan tính những chuyện-rộng-răi.
Sáng nay nói chuyện miền Tây, ḿnh chợt nhớ chị. Nhớ chén chè bà ba bẽ bàng, nhớ cả những cuộc đào tẩu của những cô dâu miền Tây khỏi cái cằn cỗi mọi bề của quê ḿnh.
Thương những người đàn bà miền Tây oan khiên một. Thương những người đàn bà khổ sở, khe khắt và có phần cay nghiệt ở quê ḿnh đó, đến mười.
VietBF sưu tầm