PinaColada
03-11-2021, 00:57
Nhà phá mă số 1 nước Mỹ lại xuất thân là cô gái thôn quê. Vào tháng 1/2021, “The Codebreaker” được công chiếu trên “American Experience”. Đay là bộ phim kể về những đóng góp của Elizebeth Friedman - nhà phá mă đầu tiên và số 1 của Mỹ, người đă tạo ra các chương tŕnh giải mă của Mỹ trong Thế chiến I. Nhờ đó đă phá mă được bọn tội phạm, buôn lậu và góp công để phá mă Enigma trong Thế chiến II.
Cô gái thôn quê
Bộ phim tài liệu “The Codebreaker” (tạm dịch là “Nhà phá mă”) được ra mắt trên hầu hết các kênh PBS ngày 11/1/20211, có thể phát trực tuyến qua ứng dụng và trang web PBS, lấy cảm hứng từ cuốn “The Woman Who Smashed Codes: A True Story of Love, Spies, and the Unlikely Heroine Who Outwitted America's Enemies” (tạm dịch là “Người phụ nữ phá mă: Câu chuyện có thật về t́nh yêu, điệp viên và nữ anh hùng thầm lặng đă chiến thắng kẻ thù của nước Mỹ”) của Jason Fagone.
Sử dụng các hồ sơ chính phủ chưa được giải mật cho đến nhiều thập kỷ sau khi nhân vật chính qua đời để ca ngợi sự đóng góp của một người xứng đáng được công nhận là tiên phong của t́nh báo quân đội Mỹ, “The Codebreaker” được viết và đạo diễn bởi Chana Gazit - người đă thực hiện bộ phim tài liệu “Surviving the Dust Bowl” năm 1998 - là một trong những tập phim thành công nhất từng được “American Experience” thực hiện.
Elizebeth Smith Friedman sinh ngày 26/8/1892 tại Huntington (Indiana) là con út trong số 9 đứa trẻ c̣n sống và lớn lên trong một trang trại. Trong những năm 1911-1913, Elizebeth theo học Đại học Wooster (Ohio), nhưng cô đă bỏ học khi mẹ cô bị bệnh, chuyển đến trường Cao đẳng Hillsdale (Michigan) và năm 1915 - tốt nghiệp chuyên ngành văn học Anh. Yêu thích ngôn ngữ, cô đă học tiếng Latinh, Hy Lạp và Đức… Năm 1915, Elizebeth trở thành hiệu trưởng của một trường trung học công lập ở Wabash (Indiana), tuy nhiên, năm 1916, cô bỏ việc và chuyển về sống cùng cha mẹ.
Định mệnh nghề nghiệp
Việc Elizebeth và người chồng trẻ William Friedman đóng một vai tṛ to lớn trong chiến tranh là một câu chuyện thú vị. Cả hai đều được nhà triệu phú công nghiệp dệt may, sở hữu Pḥng thí nghiệm Riverbank và quan tâm đến Shakespeare là Đại tá George Fabyan tuyển dụng, để giúp ông chứng minh giả thuyết của ḿnh rằng, nhà quư tộc người Anh Francis Bacon là tác giả thực của vở kịch “Shakespeare” nổi tiếng.
Một giả thuyết phổ biến vào đầu thế kỷ 20 cho rằng, Bacon đă nhúng một đoạn mă phức tạp vào văn bản của các vở kịch, và Fabyan đă thành lập Pḥng thí nghiệm Riverbank, Geneva (Illinois), vào năm 1916, để nghiên cứu chứng minh lư thuyết của ḿnh. Đây là một trong những cơ sở đầu tiên ở Mỹ được thành lập để nghiên cứu mật mă và nhà triệu phú đă chiêu mộ Elizebeth trẻ trung làm việc. Cô gặp và kết hôn với William Friedman vào tháng 5/1917, khi cùng làm việc tại điền trang.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753722&stc=1&d=1615424040
Elizebeth Smith sinh ra và lớn lên trong một điền trang; Nguồn: wikipedia.org
Khi vào cuộc, hai nhà nghiên cứu trẻ nhận ra giả thiết Bacon hoàn toàn không được chứng minh bằng bằng chứng và t́m cách rời đi khi Fabyan t́nh nguyện để nhân viên của ḿnh phục vụ việc phá mă trong Thế chiến I. Cho đến khi MI8 - Cục Cơ yếu của Quân đội - được thành lập dưới thời Herbert Yardley trong Thế chiến I, Riverbank là cơ sở duy nhất ở Mỹ có khả năng xử lư các tin nhắn có mật mă.
Đại tá Fabyan đă cung cấp các dịch vụ của pḥng thí nghiệm cho chính phủ. Trong Thế chiến I, một số cơ quan của Chính phủ Mỹ đă yêu cầu Pḥng thí nghiệm Riverbank giúp đỡ hoặc cử nhân viên đào tạo nhân sự. Cặp đôi đă làm việc cùng nhau trong bốn năm, cho đến khi cái gọi là “Pḥng đen” của Herbert Yardley được thành lập vào năm 1919; năm 1921, vợ chồng Friedman rời Riverbank để làm việc cho Bộ Chiến tranh ở Washington.
Thành công
Elizebeth là người khai phá mă chính cho quân đội Mỹ và đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật đă được sử dụng rất thành công. Khi thiết bị vô tuyến trở nên ít cồng kềnh, ít bị phát hiện và tinh vi hơn, để tránh thuế và các khoản phí khác, những kẻ buôn lậu đă tuồn rượu, ma tuư, nước hoa, đồ trang sức và thậm chí cả đậu pinto vào Mỹ. Để che giấu hành tung, thông tin liên lạc về những hoạt động tội phạm này đă được những kẻ buôn lậu mă hóa và chuyển cho nhau.
Là một trong những chuyên gia phân tích mật mă hàng đầu, Elizebeth cùng lực lượng t́nh báo của cảnh sát biển chống buôn lậu quốc tế, giải mă các tin nhắn tội phạm, bao gồm các mật mă được viết bằng tiếng Quan Thoại, và thường trực tiếp làm chứng trong các phiên ṭa để giúp kết tội những kẻ lừa đảo. Từ năm 1927 đến năm 1939, đơn vị này có tầm quan trọng đặc biệt khi buôn lậu là vấn đề rất “nóng” ở Mỹ, và do đó, được điều về Lực lượng Pḥng thủ Bờ biển.
Trong Thế chiến II, Elizebeth làm việc cho Hải quân nhưng không được phép lănh đạo đơn vị phá mă. Là phụ nữ, Elizebeth phải báo cáo với một nam sĩ quan cấp dưới v́ khi đó, phụ nữ không được phép có vị trí quyền lực đó. Sinh thời, Elizebeth giải mă hàng chục ngh́n tin nhắn, khám phá được 24 hệ thống mă hóa khác nhau được những kẻ buôn lậu sử dụng. Năm 1931, bà là một trong những người thuyết phục Quốc hội Mỹ về sự cần thiết phải tạo ra một bộ phận phân tích mật mă gồm bảy người, có văn pḥng làm việc riêng.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753723&stc=1&d=1615424040
Elizebeth Friedman được coi là nhà phá mă đầu tiên và số 1 của Mỹ; Nguồn: military.com
Elizebeth đóng vai tṛ quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp giữa chính phủ Canada và Mỹ về quyền sở hữu của con tàu I'm Alone. Canada đă đệ đơn kiện đ̣i phía Mỹ bồi thường 350.000 USD, nhưng thông tin t́nh báo thu thập được từ 23 thông điệp do Elizebeth giải mă đă chỉ ra quyền sở hữu thực tế thuộc về Mỹ, giống như Mỹ khẳng định ban đầu; do đó, hầu hết các yêu sách của Canada đă bị bác bỏ.
Năm 1937, chính phủ Canada cũng đă t́m kiếm sự giúp đỡ của Elizebeth khi một vụ buôn bán thuốc phiện đă phát triển thành một vụ án điểm. Elizebeth đă làm chứng trong phiên ṭa xét xử Gordon Lim và một số người Trung Quốc khác, giải mật mă phức tạp mặc dù bà không thông thạo tiếng Trung, trong khi ngôn ngữ vốn là ch́a khóa, làm cơ sở để kết án các bị cáo.
Elizebeth đă để lại dấu ấn về số phận của Velvalee Dickinson - cô gái kết hôn với người đứng đầu một công ty môi giới là người Mỹ gốc Nhật, hoạt động gián điệp cho Nhật Bản. Thư từ của Velvalee, chứa tài liệu được mă hóa đề cập đến sự di chuyển quan trọng của tàu hải quân ở Trân Châu Cảng, đă được Elizebeth phân tích và xử lư - cơ sở để buộc tội Dickinson.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đơn vị Cảnh sát biển của Elizebeth được chuyển giao cho Hải quân, là nguồn cung cấp thông tin t́nh báo chính của Mỹ về Chiến dịch Bolívar - vô hiệu hóa mạng lưới gián điệp bí mật của Đức ở Nam Mỹ. Trước cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, người ta lo ngại Đức có thể tấn công Mỹ qua Mỹ Latinh nhằm phân tâm và làm suy yếu sức mạnh của Mỹ trên các mặt trận châu Âu.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753724&stc=1&d=1615424040
Vợ chồng nhà phá mă số 1 Mỹ Elizebeth Smith Friedman; Nguồn: wikipedia.org
Nhóm của Elizebeth đă giải mă nhiều hệ thống mật mă được người Đức sử dụng và khám phá 3 mạng gián điệp - 1 của Thụy Sĩ và 2 của đặc vụ SS (Đức). Sau khi các mạng gián điệp bị phá vỡ, Argentina, Bolivia và Chile đoạn tuyệt với Trục phát xít và ủng hộ Đồng minh. Trong Thế chiến II, nhóm của Elizebeth đă giải mă 4.000 tin nhắn được gửi trên 48 mạch vô tuyến khác nhau. V́ công việc bí mật, khi FBI triệt hạ các mạng t́nh báo của đối phương, Elizebeth lặng lẽ cam chịu khi J. Edgar Hoover nhận hết công lao về ḿnh.
Vinh danh
Sau Thế chiến II, Elizebeth làm cố vấn cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế và tạo ra các hệ thống thông tin liên lạc bảo mật cao dựa trên các băng ghi một lần. Sau khi nghỉ hưu, Elizebeth và chồng William - những người từ lâu đam mê Shakespeare - đă hợp tác trong một ấn phẩm được xuất bản với tên gọi “The Shakespearean Ciphers Examined”, giành được giải thưởng từ Thư viện Folger Shakespeare và Nhà hát và Học viện Shakespeare của Mỹ.
Sau khi chồng bà William Friedman - một nhà mật mă được ghi nhận với nhiều đóng góp cho mật mă học - qua đời vào năm 1969, Elizebeth đă dành phần lớn thời gian của ḿnh để biên soạn thư viện và thư mục về tác phẩm của ông. “Bộ sưu tập tài liệu mật mă tư nhân phong phú nhất trên thế giới” này được lưu trữ trong Thư viện Nghiên cứu George C. Marshall ở Lexington (Virginia).
Elizebeth không bao giờ công khai vai thật trong suốt cuộc đời của ḿnh, và đă qua đời trong một viện dưỡng lăo ở New Jersey năm 1980, hưởng thọ 88 tuổi. Sau khi bà qua đời, những đóng góp của bà ngày càng được công nhận. Năm 1999, Elizebeth được gắn ảnh tại Đại sảnh Danh dự của Cục An ninh Quốc gia (NSA) Mỹ, và vào năm 2002, ṭa nhà OPS1 của NSA được đặt tên William và Elizebeth Friedman nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Cục.
Tháng 4/2019, Thượng viện Mỹ đă thông qua nghị quyết “Tôn vinh cuộc đời và di sản của Elizebeth Smith Friedman - Nhà phân tích mật mă”. Để vinh danh nhà mật mă số 1 của nước Mỹ, tháng 7/2020, Lực lượng Tuần duyên Mỹ thông báo quyết định để chiếc tàu chuyên dụng thứ 11 của họ mang tên Elizebeth Smith Friedman.
VietBF@ sưu tầm.
Cô gái thôn quê
Bộ phim tài liệu “The Codebreaker” (tạm dịch là “Nhà phá mă”) được ra mắt trên hầu hết các kênh PBS ngày 11/1/20211, có thể phát trực tuyến qua ứng dụng và trang web PBS, lấy cảm hứng từ cuốn “The Woman Who Smashed Codes: A True Story of Love, Spies, and the Unlikely Heroine Who Outwitted America's Enemies” (tạm dịch là “Người phụ nữ phá mă: Câu chuyện có thật về t́nh yêu, điệp viên và nữ anh hùng thầm lặng đă chiến thắng kẻ thù của nước Mỹ”) của Jason Fagone.
Sử dụng các hồ sơ chính phủ chưa được giải mật cho đến nhiều thập kỷ sau khi nhân vật chính qua đời để ca ngợi sự đóng góp của một người xứng đáng được công nhận là tiên phong của t́nh báo quân đội Mỹ, “The Codebreaker” được viết và đạo diễn bởi Chana Gazit - người đă thực hiện bộ phim tài liệu “Surviving the Dust Bowl” năm 1998 - là một trong những tập phim thành công nhất từng được “American Experience” thực hiện.
Elizebeth Smith Friedman sinh ngày 26/8/1892 tại Huntington (Indiana) là con út trong số 9 đứa trẻ c̣n sống và lớn lên trong một trang trại. Trong những năm 1911-1913, Elizebeth theo học Đại học Wooster (Ohio), nhưng cô đă bỏ học khi mẹ cô bị bệnh, chuyển đến trường Cao đẳng Hillsdale (Michigan) và năm 1915 - tốt nghiệp chuyên ngành văn học Anh. Yêu thích ngôn ngữ, cô đă học tiếng Latinh, Hy Lạp và Đức… Năm 1915, Elizebeth trở thành hiệu trưởng của một trường trung học công lập ở Wabash (Indiana), tuy nhiên, năm 1916, cô bỏ việc và chuyển về sống cùng cha mẹ.
Định mệnh nghề nghiệp
Việc Elizebeth và người chồng trẻ William Friedman đóng một vai tṛ to lớn trong chiến tranh là một câu chuyện thú vị. Cả hai đều được nhà triệu phú công nghiệp dệt may, sở hữu Pḥng thí nghiệm Riverbank và quan tâm đến Shakespeare là Đại tá George Fabyan tuyển dụng, để giúp ông chứng minh giả thuyết của ḿnh rằng, nhà quư tộc người Anh Francis Bacon là tác giả thực của vở kịch “Shakespeare” nổi tiếng.
Một giả thuyết phổ biến vào đầu thế kỷ 20 cho rằng, Bacon đă nhúng một đoạn mă phức tạp vào văn bản của các vở kịch, và Fabyan đă thành lập Pḥng thí nghiệm Riverbank, Geneva (Illinois), vào năm 1916, để nghiên cứu chứng minh lư thuyết của ḿnh. Đây là một trong những cơ sở đầu tiên ở Mỹ được thành lập để nghiên cứu mật mă và nhà triệu phú đă chiêu mộ Elizebeth trẻ trung làm việc. Cô gặp và kết hôn với William Friedman vào tháng 5/1917, khi cùng làm việc tại điền trang.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753722&stc=1&d=1615424040
Elizebeth Smith sinh ra và lớn lên trong một điền trang; Nguồn: wikipedia.org
Khi vào cuộc, hai nhà nghiên cứu trẻ nhận ra giả thiết Bacon hoàn toàn không được chứng minh bằng bằng chứng và t́m cách rời đi khi Fabyan t́nh nguyện để nhân viên của ḿnh phục vụ việc phá mă trong Thế chiến I. Cho đến khi MI8 - Cục Cơ yếu của Quân đội - được thành lập dưới thời Herbert Yardley trong Thế chiến I, Riverbank là cơ sở duy nhất ở Mỹ có khả năng xử lư các tin nhắn có mật mă.
Đại tá Fabyan đă cung cấp các dịch vụ của pḥng thí nghiệm cho chính phủ. Trong Thế chiến I, một số cơ quan của Chính phủ Mỹ đă yêu cầu Pḥng thí nghiệm Riverbank giúp đỡ hoặc cử nhân viên đào tạo nhân sự. Cặp đôi đă làm việc cùng nhau trong bốn năm, cho đến khi cái gọi là “Pḥng đen” của Herbert Yardley được thành lập vào năm 1919; năm 1921, vợ chồng Friedman rời Riverbank để làm việc cho Bộ Chiến tranh ở Washington.
Thành công
Elizebeth là người khai phá mă chính cho quân đội Mỹ và đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật đă được sử dụng rất thành công. Khi thiết bị vô tuyến trở nên ít cồng kềnh, ít bị phát hiện và tinh vi hơn, để tránh thuế và các khoản phí khác, những kẻ buôn lậu đă tuồn rượu, ma tuư, nước hoa, đồ trang sức và thậm chí cả đậu pinto vào Mỹ. Để che giấu hành tung, thông tin liên lạc về những hoạt động tội phạm này đă được những kẻ buôn lậu mă hóa và chuyển cho nhau.
Là một trong những chuyên gia phân tích mật mă hàng đầu, Elizebeth cùng lực lượng t́nh báo của cảnh sát biển chống buôn lậu quốc tế, giải mă các tin nhắn tội phạm, bao gồm các mật mă được viết bằng tiếng Quan Thoại, và thường trực tiếp làm chứng trong các phiên ṭa để giúp kết tội những kẻ lừa đảo. Từ năm 1927 đến năm 1939, đơn vị này có tầm quan trọng đặc biệt khi buôn lậu là vấn đề rất “nóng” ở Mỹ, và do đó, được điều về Lực lượng Pḥng thủ Bờ biển.
Trong Thế chiến II, Elizebeth làm việc cho Hải quân nhưng không được phép lănh đạo đơn vị phá mă. Là phụ nữ, Elizebeth phải báo cáo với một nam sĩ quan cấp dưới v́ khi đó, phụ nữ không được phép có vị trí quyền lực đó. Sinh thời, Elizebeth giải mă hàng chục ngh́n tin nhắn, khám phá được 24 hệ thống mă hóa khác nhau được những kẻ buôn lậu sử dụng. Năm 1931, bà là một trong những người thuyết phục Quốc hội Mỹ về sự cần thiết phải tạo ra một bộ phận phân tích mật mă gồm bảy người, có văn pḥng làm việc riêng.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753723&stc=1&d=1615424040
Elizebeth Friedman được coi là nhà phá mă đầu tiên và số 1 của Mỹ; Nguồn: military.com
Elizebeth đóng vai tṛ quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp giữa chính phủ Canada và Mỹ về quyền sở hữu của con tàu I'm Alone. Canada đă đệ đơn kiện đ̣i phía Mỹ bồi thường 350.000 USD, nhưng thông tin t́nh báo thu thập được từ 23 thông điệp do Elizebeth giải mă đă chỉ ra quyền sở hữu thực tế thuộc về Mỹ, giống như Mỹ khẳng định ban đầu; do đó, hầu hết các yêu sách của Canada đă bị bác bỏ.
Năm 1937, chính phủ Canada cũng đă t́m kiếm sự giúp đỡ của Elizebeth khi một vụ buôn bán thuốc phiện đă phát triển thành một vụ án điểm. Elizebeth đă làm chứng trong phiên ṭa xét xử Gordon Lim và một số người Trung Quốc khác, giải mật mă phức tạp mặc dù bà không thông thạo tiếng Trung, trong khi ngôn ngữ vốn là ch́a khóa, làm cơ sở để kết án các bị cáo.
Elizebeth đă để lại dấu ấn về số phận của Velvalee Dickinson - cô gái kết hôn với người đứng đầu một công ty môi giới là người Mỹ gốc Nhật, hoạt động gián điệp cho Nhật Bản. Thư từ của Velvalee, chứa tài liệu được mă hóa đề cập đến sự di chuyển quan trọng của tàu hải quân ở Trân Châu Cảng, đă được Elizebeth phân tích và xử lư - cơ sở để buộc tội Dickinson.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đơn vị Cảnh sát biển của Elizebeth được chuyển giao cho Hải quân, là nguồn cung cấp thông tin t́nh báo chính của Mỹ về Chiến dịch Bolívar - vô hiệu hóa mạng lưới gián điệp bí mật của Đức ở Nam Mỹ. Trước cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, người ta lo ngại Đức có thể tấn công Mỹ qua Mỹ Latinh nhằm phân tâm và làm suy yếu sức mạnh của Mỹ trên các mặt trận châu Âu.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1753724&stc=1&d=1615424040
Vợ chồng nhà phá mă số 1 Mỹ Elizebeth Smith Friedman; Nguồn: wikipedia.org
Nhóm của Elizebeth đă giải mă nhiều hệ thống mật mă được người Đức sử dụng và khám phá 3 mạng gián điệp - 1 của Thụy Sĩ và 2 của đặc vụ SS (Đức). Sau khi các mạng gián điệp bị phá vỡ, Argentina, Bolivia và Chile đoạn tuyệt với Trục phát xít và ủng hộ Đồng minh. Trong Thế chiến II, nhóm của Elizebeth đă giải mă 4.000 tin nhắn được gửi trên 48 mạch vô tuyến khác nhau. V́ công việc bí mật, khi FBI triệt hạ các mạng t́nh báo của đối phương, Elizebeth lặng lẽ cam chịu khi J. Edgar Hoover nhận hết công lao về ḿnh.
Vinh danh
Sau Thế chiến II, Elizebeth làm cố vấn cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế và tạo ra các hệ thống thông tin liên lạc bảo mật cao dựa trên các băng ghi một lần. Sau khi nghỉ hưu, Elizebeth và chồng William - những người từ lâu đam mê Shakespeare - đă hợp tác trong một ấn phẩm được xuất bản với tên gọi “The Shakespearean Ciphers Examined”, giành được giải thưởng từ Thư viện Folger Shakespeare và Nhà hát và Học viện Shakespeare của Mỹ.
Sau khi chồng bà William Friedman - một nhà mật mă được ghi nhận với nhiều đóng góp cho mật mă học - qua đời vào năm 1969, Elizebeth đă dành phần lớn thời gian của ḿnh để biên soạn thư viện và thư mục về tác phẩm của ông. “Bộ sưu tập tài liệu mật mă tư nhân phong phú nhất trên thế giới” này được lưu trữ trong Thư viện Nghiên cứu George C. Marshall ở Lexington (Virginia).
Elizebeth không bao giờ công khai vai thật trong suốt cuộc đời của ḿnh, và đă qua đời trong một viện dưỡng lăo ở New Jersey năm 1980, hưởng thọ 88 tuổi. Sau khi bà qua đời, những đóng góp của bà ngày càng được công nhận. Năm 1999, Elizebeth được gắn ảnh tại Đại sảnh Danh dự của Cục An ninh Quốc gia (NSA) Mỹ, và vào năm 2002, ṭa nhà OPS1 của NSA được đặt tên William và Elizebeth Friedman nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Cục.
Tháng 4/2019, Thượng viện Mỹ đă thông qua nghị quyết “Tôn vinh cuộc đời và di sản của Elizebeth Smith Friedman - Nhà phân tích mật mă”. Để vinh danh nhà mật mă số 1 của nước Mỹ, tháng 7/2020, Lực lượng Tuần duyên Mỹ thông báo quyết định để chiếc tàu chuyên dụng thứ 11 của họ mang tên Elizebeth Smith Friedman.
VietBF@ sưu tầm.