florida80
05-25-2021, 19:08
QUÊ HƯƠNG
Cao Huy Thuần
Huế 1988
Thưa bà, bà tỏ ư muốn tôi viết tựa cho tập thơ mà bà đă làm trong dịp về thăm quê hương mùa hè năm ngoái. Tôi th́ chỉ có tấm ḷng đọc thơ, ḷng tôi đọc thơ của bà. Tôi nghĩ: thơ không đ̣i bài tựa, thơ chỉ đ̣i thơ. Thơ chỉ đ̣i t́nh. Cho nên tôi viết thư t́nh.
Mà thật vậy, mới đặt bút, t́nh đă nghẹn ngào nơi cổ khi tôi vấp ngay hai chữ "về thăm" của bà. Về thăm quê hương..., quê hương là nơi chỉ để về thăm? Là nơi mà trong đơn xin nhập cảnh phải ghi rơ "về thăm"? Thăm là không ở? Là về để mà đi? Tôi về hay tôi đi? Mênh mông chỉ có mây trắng trả lời. Mênh mông, chỉ có tôi trả lời cho mây trắng.
Bà trao tập thơ cho tôi khi máy bay vừa rời Sài G̣n. Tôi đọc, rồi tôi gấp lại. Mây trắng trong thơ của bà nhẹ nhàng quá, và ḷng tôi th́ vần vũ, quặn đau. Quê hương 1988: thương th́ rất thương, mà giận, rất giận. Có ai về với nước trong năm đầu của thử thách mà không vừa giận vừa thương: giận cái cũ c̣n bám, thương cái mới long đong. Quê hương đâu phải chỉ là ḍng sông, thành quách, tô phở buổi sáng, cây lúa đơm bông? Quê hương c̣n là ḍng sông Hương đầy rác ven cầu Đông Ba vừa sập, thành quách xiêu vẹo kêu cứu với thời gian, tô phở hăng mùi mồ hôi một tuần lao động, bông lúa xót thương người Thanh Hóa ṃn tay mài lịch sử vẫn chưa t́m được bát cơm no. Nhưng quê hương đâu phải chỉ thế: ḍng sông sẽ thơm, thành quách phải đẹp, tô phở sẽ ấm ḷng mỗi sáng, bông lúa nở hoa trên bát cơm đầy. Bởi v́ quê hương đâu phải chỉ là hoài niệm; quê hương là bây giờ, quê hương là ngày mai, là 1945, là 1954, là 1975, là 1988, là tóc chớm bạc trên đầu tôi, là tóc xanh huyền trên đầu con tôi.
Tôi không t́m ra quê hương như vậy trong mây trắng của tập thơ. Quê hương của tôi có nước mắt rất nóng, có tiếng nấc nơi cổ, có chiếc xiềng vô h́nh buộc đôi chân ngàn dặm, có tiếng gió Sơn La, Lao Bảo rít trong lương tâm Hà Nội. Nhưng quê hương của tôi cũng có triệu triệu trái tim mang triệu triệu sức sống thắp sáng mặt trời hy vọng. Quê hương của tôi có bàn tay của anh, có bàn tay của chị trong bàn tay của tôi. Quê hương của tập thơ, trái lại, thanh b́nh, êm ả như đôi mày thiếu nữ, thoáng gợn đó đây chút bâng khuâng , hoài cảm của bến nước nhớ con đ̣. Quê hương của tập thơ tṛn trĩnh như một vầng trăng đầy, tṛn với bốn phía chân mây, tṛn như một nụ cười độ lượng. Quê hương của tập thơ dửng dưng với thời gian, thờ ơ với tuế nguyệt, lạnh lùng với đổi thay, bất di bất dịch như đỉnh núi, bao giờ cũng như bao giờ, trăm năm trước với trăm năm sau muôn đời không khác. Trăm năm trước, quê hương vẫn gầy già như dáng núi; trăm năm sau, trăng vẫn gầy non trên bến Nguyệt Biều.
Ô hay, Huế của ngày trở về sao cũng vẫn là Huế của thuở ra đi, sao cũng vẫn thành biếc, rêu hoang, thông buồn Thái Miếu, lá úa hoàng cung? Ô hay, khách hỏi thăm nắng sớm mưa chiều th́ nắng vẫn là nắng nọ, mưa vẫn là mưa này, hoa sứ đưa hương như vẫn đưa hương từ muôn thế kỷ. Nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, quê hương của bà buồn phơn phớt, và vui d́u dịu, buồn sâu nhất cũng không nặng hơn khói và vui rộn nhất cũng không sáng hơn trăng. Quê hương của bà không có lịch sử. Tuổi của nó bằng tuổi của người làm thơ. Nó hiện ra đấy, nhưng nó không thật. Bởi v́ nó chỉ có thật trong ḷng người làm thơ. Nó chỉ có thật trong hoài niệm. Cảnh ở ngoài chỉ là bóng, cảnh bên trong mới là h́nh.
Cho nên chắc không khỏi có người liên tưởng đến Bà Huyện Thanh Quan khi rung động với không khí hoài cảm trong tập thơ này. Đèo Ngang của người nữ sĩ ngày xưa có thể mang bất cứ một tên nào khác, có thể là đèo Mộ Giạ, đèo Cù Mông, đèo Hải Vân, hay là một đèo nào đó tận bên Trung Quốc, bởi v́ cái cảnh "cỏ cây chen đá lá chen hoa", cảnh mấy chú tiều lom khom dưới núi, vài mái chợ lác đác bên sông, đâu mà chẳng có, cứ ǵ phải ở đèo Ngang? Đến như "quốc quốc" với "gia gia" th́ cảnh chỉ c̣n tính cách tượng trưng, chỉ là vài h́nh ảnh chấm phá trên một bức tranh sơn thủy nào đó, để gợi lên một hoài cảm nhớ nhà nhớ nước, mà cũng chẳng cần phải biết nước nào, nhà nào, nhà với nước mông lung như ảo như thật, giống như cảnh cũng mông lung như thật như ảo. Chỉ có một thực tại duy nhất sống động trong bài thơ nổi tiếng ngày xưa là tâm hồn người ngắm cảnh, là ta. Tất cả bao la của trời, non, nước đều thu lại trong một chữ ta, ta với t́nh riêng của ta, ta lấy t́nh nh́n cảnh, lấy tâm nh́n vật, lấy buồn để nh́n chiều hôm. Một số bài thơ trong tập thơ phảng phất sương khói đèo Ngang của người xưa, chỉ có t́nh là thật, cảnh là giả, t́nh là t́nh sâu, cảnh là cảnh mượn. Thành biếc, rêu hoang, thông gầy, lá úa, tiếng chim cổ viện, cành trúc trường giang, Huế đó là Huế giả, Huế ước lệ, Huế bảy câu đưa đẩy, để tận cùng với "mảnh t́nh riêng" của câu thứ tám, t́nh thật, t́nh sâu, t́nh côi cút, t́nh lẽ mọn:
Tiếng chuông Thiên Mụ trong sương khói
Để lạnh vầng trăng giữa sóng ngàn
Và khi t́nh đó lắng xuống thật sâu, như trăng nằm sâu trong đáy nước thật im, th́ tất cả vũ trụ dường như tan biến trong hư không, cảnh nḥa trong sương khói, chỉ c̣n văng vẳng tiếng của ta ngày xưa réo gọi ta ngày nay, ta lại gặp ta, và đó là quê hương:
Sao vẫn nghe trong cô tịch
Tiếng ai hát khúc chiều tà
Như gọi người về dĩ văng
Hay là ta lại gọi ta?
Quê hương, ôi quê hương, tôi ở đây, hay tôi ở đó, tôi c̣n ở, hay tôi đi rồi, tôi c̣n thức hay tôi đă ngủ, tôi đang tỉnh hay tôi chiêm bao, đâu là cơi đi, đâu là cơi ở, đâu là nỗi mất, đâu là nỗi c̣n, đây là nắng chiều xứ bạn, hay đây là nắng sớm quê tôi? Ta và t́nh của ta: tất cả quê hương thu gọn vào trong một chữ t́nh, như tất cả mây trời phản chiếu trong giọt nước. Nước là thực, mây là bóng dáng. Ta là thực, cho nên chỉ một quê hương có thực trong tập thơ là quê hương soi bóng trong ta.
Ḷng tôi là nắng huy hoàng bướm
Cánh bướm bay vàng kỷ niệm thương
Là thế thôi, là kỷ niệm! Và trong muôn vàn kỷ niệm về quê hương, xa xôi nhất, bâng quơ nhất, nhưng có lẽ cũng sâu thẳm nhất, vang âm hơi thở của ai trong cơi mộng, hơi thở dịu dàng của những quyến luyến đầu tiên, hơi thở bồi hồi của trái tim non chưa biết trao gửi nỗi niềm thế nào ngoài thơ với mộng vu vơ. Và ví thử có ai đành đoạn ra đi không muốn mang theo một vết tích thân thuộc ǵ trong kư ức, không muốn giử cả một chút khói chiều trong hoàng hôn, không muốn nhớ cả một nụ cười thấp thoáng bên kia hàng dậu, chắc cũng khó quên được chút quyến luyến cuối cùng này: nấm mồ của "người ngủ b́nh yên giấc cỏ hoa".
Chút đó thôi, quê hương nhiều khi chỉ c̣n là chút đó thôi, nhưng đi đâu cũng không đành, ở đâu cũng không yên, nằm đâu cũng trở giấc, dù cho đă vẫy tay từ giă với cả chút xương thịt cuối cùng: "thôi nhé, người nằm với cố hương...".
Thế th́ việc ǵ tôi phải trăn trở với lịch sử phế hưng! Tôi đă chẳng từng biết quê hương là ǵ hay sao khi bất chợt đi giữa đường làng Âu châu, đánh hơi thoáng thấy mùi phân lẩn trong rơm ướt? Hoa bầu hoa bí, rơm ẩm đường làng... tôi là ǵ ngày hôm nay nếu không phải là chút hương hoa cỏn con đó? Bất hạnh thay cho ai tưởng ḿnh có thể không có quê hương. Chẳng biết họ c̣n biết ḿnh là ai nữa không.
°°°
Thưa bà, tôi gấp tập thơ, không đọc nữa, khi vừa giă từ đất nước, bởi v́ quê hương êm đềm, sương khói đó không phải là quê hương của tôi; quê hương của tôi đang nằm dưới cánh máy bay, nức nở cái trở dạ của hạt lúa muốn năy mầm. Nhưng bây giờ, nghĩ lại, ai có lư hơn ai?
Ngậm ngùi xa biết nói năng ǵ
Trên lối về sao ngỡ lối đi?
Nói ǵ về quê hương khi ở xa, khi về cũng không hẳn là về, khi đi cũng chẳng thật là đi? Nên khổ sở, dày ṿ, ray rức như tôi, hay nên điềm đạm, vu vơ, thanh thản như người? Tôi biết có người xa nước mang một nắm đất đi theo. Quê hương là nắm đất: giản dị như vậy đó sao? Tôi biết rồi tôi cũng có ngày sẽ giản dị như vậy, sẽ mang nắm đất nơi hai thân tôi sẽ nằm xuống để làm bát hương thờ phụng. Có lẽ khi đó tôi sẽ có một quan niệm dễ dăi hơn về quê hương chăng? Và tôi sẽ mĩm cười chăng khi nghe có người thắc mắc hỏi tôi: nắm đất của anh khát mùi bom B52 hay mùi khói súng Mậu Thân?
Ôi, có đất nào không mang một mùi thơm lịch sử, có vết bùn nào ở Hậu Giang không ngọt lịm vọng cổ sáu câu, có con đường nào trên Ô Lư không nghẹn ngào nước mắt Huyền Trân, có hạt sỏi nào bên này sông Gianh không âm vang vó ngựa chúa Hiền, chúa Săi? Nhưng có thật nắm đất của tôi, có thật cả mănh đất vươn dài bên bờ Thái B́nh Dương kia, gợi lên trong tôi một mùi thơm vua Trần, một mùi thơm chúa Nguyễn, một mùi thơm Chân Lạp, một mùi thơm duy vật, duy tâm, khi tôi quỳ xuống hôn lên đất? Hay là tôi chỉ ngửi thấy mùi mạ non, mùi lúa chín, mùi nắng cháy, mùi da thịt của mẹ tôi? Muôn thuở là quê hương, thoảng qua là triều đại. Dính liền quê hương với chế độ là không biết phân biệt xương thịt với mănh áo khoác bên ngoài.
Vậy th́ việc ǵ tôi để thịnh suy ngự trị trên h́nh ảnh của tôi về quê hương? Tại sao không giản dị, rất giản dị, b́nh thường, rất b́nh thường, bắt chước bà, nh́n quê hương như nh́n vườn mẹ ngày xưa, với hoa bí vàng, hoa bầu trắng, cái bướm, con ong, bát canh rau má, hàng cau thắp nắng, hoa sầu đâu rụng đầy sân? Dù tôi ba đời bảy kiếp xuất thân làm chú tiểu quét lá đa, hay xênh xang áo mảo trong cung vua phủ chúa, quê hương là ǵ bây giờ khi ở nơi xa, nếu không giản dị có chừng ấy thôi, nếu không giản dị là vài h́nh ảnh, vài kỷ niệm, và lạ thật, đă là kỷ niệm th́ thành hoa, thành bướm, đă là kỷ niệm th́ rực rỡ nắng vàng. Giữa bà và tôi, thưa bà, giữa tôi với tập thơ, cũng có tao ngộ đấy chứ, tôi đâu không có ân t́nh với mây quyện, khói trôi?
Nhưng chao ôi, trong tôi quá nặng những bàn tay vẫy đưa của Huế, trong tôi nghẹn ngào bao nhiêu ước hẹn với Huế không nói nên lời. Thôi thôi, tôi lại sắp xa bà rồi, tôi lại sắp trở về với những trăn trở của tôi. Biết làm sao được, quê hương của tôi không phải chỉ là hoài niệm, lịch sử c̣n là ngày mai, và trung thành với ḍng sông không phải cứ hướng ngược về phía núi, mà hăy cùng sông trôi xuôi ra biển.
Bà hiểu tại sao thơ không đ̣i bài tựa. Thơ hiểu ḷng tôi chỉ muốn viết thư t́nh, đâu phải cho bà, đâu phải cho ai, cho riêng tôi.
Cao Huy Thuần
Cao Huy Thuần
Huế 1988
Thưa bà, bà tỏ ư muốn tôi viết tựa cho tập thơ mà bà đă làm trong dịp về thăm quê hương mùa hè năm ngoái. Tôi th́ chỉ có tấm ḷng đọc thơ, ḷng tôi đọc thơ của bà. Tôi nghĩ: thơ không đ̣i bài tựa, thơ chỉ đ̣i thơ. Thơ chỉ đ̣i t́nh. Cho nên tôi viết thư t́nh.
Mà thật vậy, mới đặt bút, t́nh đă nghẹn ngào nơi cổ khi tôi vấp ngay hai chữ "về thăm" của bà. Về thăm quê hương..., quê hương là nơi chỉ để về thăm? Là nơi mà trong đơn xin nhập cảnh phải ghi rơ "về thăm"? Thăm là không ở? Là về để mà đi? Tôi về hay tôi đi? Mênh mông chỉ có mây trắng trả lời. Mênh mông, chỉ có tôi trả lời cho mây trắng.
Bà trao tập thơ cho tôi khi máy bay vừa rời Sài G̣n. Tôi đọc, rồi tôi gấp lại. Mây trắng trong thơ của bà nhẹ nhàng quá, và ḷng tôi th́ vần vũ, quặn đau. Quê hương 1988: thương th́ rất thương, mà giận, rất giận. Có ai về với nước trong năm đầu của thử thách mà không vừa giận vừa thương: giận cái cũ c̣n bám, thương cái mới long đong. Quê hương đâu phải chỉ là ḍng sông, thành quách, tô phở buổi sáng, cây lúa đơm bông? Quê hương c̣n là ḍng sông Hương đầy rác ven cầu Đông Ba vừa sập, thành quách xiêu vẹo kêu cứu với thời gian, tô phở hăng mùi mồ hôi một tuần lao động, bông lúa xót thương người Thanh Hóa ṃn tay mài lịch sử vẫn chưa t́m được bát cơm no. Nhưng quê hương đâu phải chỉ thế: ḍng sông sẽ thơm, thành quách phải đẹp, tô phở sẽ ấm ḷng mỗi sáng, bông lúa nở hoa trên bát cơm đầy. Bởi v́ quê hương đâu phải chỉ là hoài niệm; quê hương là bây giờ, quê hương là ngày mai, là 1945, là 1954, là 1975, là 1988, là tóc chớm bạc trên đầu tôi, là tóc xanh huyền trên đầu con tôi.
Tôi không t́m ra quê hương như vậy trong mây trắng của tập thơ. Quê hương của tôi có nước mắt rất nóng, có tiếng nấc nơi cổ, có chiếc xiềng vô h́nh buộc đôi chân ngàn dặm, có tiếng gió Sơn La, Lao Bảo rít trong lương tâm Hà Nội. Nhưng quê hương của tôi cũng có triệu triệu trái tim mang triệu triệu sức sống thắp sáng mặt trời hy vọng. Quê hương của tôi có bàn tay của anh, có bàn tay của chị trong bàn tay của tôi. Quê hương của tập thơ, trái lại, thanh b́nh, êm ả như đôi mày thiếu nữ, thoáng gợn đó đây chút bâng khuâng , hoài cảm của bến nước nhớ con đ̣. Quê hương của tập thơ tṛn trĩnh như một vầng trăng đầy, tṛn với bốn phía chân mây, tṛn như một nụ cười độ lượng. Quê hương của tập thơ dửng dưng với thời gian, thờ ơ với tuế nguyệt, lạnh lùng với đổi thay, bất di bất dịch như đỉnh núi, bao giờ cũng như bao giờ, trăm năm trước với trăm năm sau muôn đời không khác. Trăm năm trước, quê hương vẫn gầy già như dáng núi; trăm năm sau, trăng vẫn gầy non trên bến Nguyệt Biều.
Ô hay, Huế của ngày trở về sao cũng vẫn là Huế của thuở ra đi, sao cũng vẫn thành biếc, rêu hoang, thông buồn Thái Miếu, lá úa hoàng cung? Ô hay, khách hỏi thăm nắng sớm mưa chiều th́ nắng vẫn là nắng nọ, mưa vẫn là mưa này, hoa sứ đưa hương như vẫn đưa hương từ muôn thế kỷ. Nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, quê hương của bà buồn phơn phớt, và vui d́u dịu, buồn sâu nhất cũng không nặng hơn khói và vui rộn nhất cũng không sáng hơn trăng. Quê hương của bà không có lịch sử. Tuổi của nó bằng tuổi của người làm thơ. Nó hiện ra đấy, nhưng nó không thật. Bởi v́ nó chỉ có thật trong ḷng người làm thơ. Nó chỉ có thật trong hoài niệm. Cảnh ở ngoài chỉ là bóng, cảnh bên trong mới là h́nh.
Cho nên chắc không khỏi có người liên tưởng đến Bà Huyện Thanh Quan khi rung động với không khí hoài cảm trong tập thơ này. Đèo Ngang của người nữ sĩ ngày xưa có thể mang bất cứ một tên nào khác, có thể là đèo Mộ Giạ, đèo Cù Mông, đèo Hải Vân, hay là một đèo nào đó tận bên Trung Quốc, bởi v́ cái cảnh "cỏ cây chen đá lá chen hoa", cảnh mấy chú tiều lom khom dưới núi, vài mái chợ lác đác bên sông, đâu mà chẳng có, cứ ǵ phải ở đèo Ngang? Đến như "quốc quốc" với "gia gia" th́ cảnh chỉ c̣n tính cách tượng trưng, chỉ là vài h́nh ảnh chấm phá trên một bức tranh sơn thủy nào đó, để gợi lên một hoài cảm nhớ nhà nhớ nước, mà cũng chẳng cần phải biết nước nào, nhà nào, nhà với nước mông lung như ảo như thật, giống như cảnh cũng mông lung như thật như ảo. Chỉ có một thực tại duy nhất sống động trong bài thơ nổi tiếng ngày xưa là tâm hồn người ngắm cảnh, là ta. Tất cả bao la của trời, non, nước đều thu lại trong một chữ ta, ta với t́nh riêng của ta, ta lấy t́nh nh́n cảnh, lấy tâm nh́n vật, lấy buồn để nh́n chiều hôm. Một số bài thơ trong tập thơ phảng phất sương khói đèo Ngang của người xưa, chỉ có t́nh là thật, cảnh là giả, t́nh là t́nh sâu, cảnh là cảnh mượn. Thành biếc, rêu hoang, thông gầy, lá úa, tiếng chim cổ viện, cành trúc trường giang, Huế đó là Huế giả, Huế ước lệ, Huế bảy câu đưa đẩy, để tận cùng với "mảnh t́nh riêng" của câu thứ tám, t́nh thật, t́nh sâu, t́nh côi cút, t́nh lẽ mọn:
Tiếng chuông Thiên Mụ trong sương khói
Để lạnh vầng trăng giữa sóng ngàn
Và khi t́nh đó lắng xuống thật sâu, như trăng nằm sâu trong đáy nước thật im, th́ tất cả vũ trụ dường như tan biến trong hư không, cảnh nḥa trong sương khói, chỉ c̣n văng vẳng tiếng của ta ngày xưa réo gọi ta ngày nay, ta lại gặp ta, và đó là quê hương:
Sao vẫn nghe trong cô tịch
Tiếng ai hát khúc chiều tà
Như gọi người về dĩ văng
Hay là ta lại gọi ta?
Quê hương, ôi quê hương, tôi ở đây, hay tôi ở đó, tôi c̣n ở, hay tôi đi rồi, tôi c̣n thức hay tôi đă ngủ, tôi đang tỉnh hay tôi chiêm bao, đâu là cơi đi, đâu là cơi ở, đâu là nỗi mất, đâu là nỗi c̣n, đây là nắng chiều xứ bạn, hay đây là nắng sớm quê tôi? Ta và t́nh của ta: tất cả quê hương thu gọn vào trong một chữ t́nh, như tất cả mây trời phản chiếu trong giọt nước. Nước là thực, mây là bóng dáng. Ta là thực, cho nên chỉ một quê hương có thực trong tập thơ là quê hương soi bóng trong ta.
Ḷng tôi là nắng huy hoàng bướm
Cánh bướm bay vàng kỷ niệm thương
Là thế thôi, là kỷ niệm! Và trong muôn vàn kỷ niệm về quê hương, xa xôi nhất, bâng quơ nhất, nhưng có lẽ cũng sâu thẳm nhất, vang âm hơi thở của ai trong cơi mộng, hơi thở dịu dàng của những quyến luyến đầu tiên, hơi thở bồi hồi của trái tim non chưa biết trao gửi nỗi niềm thế nào ngoài thơ với mộng vu vơ. Và ví thử có ai đành đoạn ra đi không muốn mang theo một vết tích thân thuộc ǵ trong kư ức, không muốn giử cả một chút khói chiều trong hoàng hôn, không muốn nhớ cả một nụ cười thấp thoáng bên kia hàng dậu, chắc cũng khó quên được chút quyến luyến cuối cùng này: nấm mồ của "người ngủ b́nh yên giấc cỏ hoa".
Chút đó thôi, quê hương nhiều khi chỉ c̣n là chút đó thôi, nhưng đi đâu cũng không đành, ở đâu cũng không yên, nằm đâu cũng trở giấc, dù cho đă vẫy tay từ giă với cả chút xương thịt cuối cùng: "thôi nhé, người nằm với cố hương...".
Thế th́ việc ǵ tôi phải trăn trở với lịch sử phế hưng! Tôi đă chẳng từng biết quê hương là ǵ hay sao khi bất chợt đi giữa đường làng Âu châu, đánh hơi thoáng thấy mùi phân lẩn trong rơm ướt? Hoa bầu hoa bí, rơm ẩm đường làng... tôi là ǵ ngày hôm nay nếu không phải là chút hương hoa cỏn con đó? Bất hạnh thay cho ai tưởng ḿnh có thể không có quê hương. Chẳng biết họ c̣n biết ḿnh là ai nữa không.
°°°
Thưa bà, tôi gấp tập thơ, không đọc nữa, khi vừa giă từ đất nước, bởi v́ quê hương êm đềm, sương khói đó không phải là quê hương của tôi; quê hương của tôi đang nằm dưới cánh máy bay, nức nở cái trở dạ của hạt lúa muốn năy mầm. Nhưng bây giờ, nghĩ lại, ai có lư hơn ai?
Ngậm ngùi xa biết nói năng ǵ
Trên lối về sao ngỡ lối đi?
Nói ǵ về quê hương khi ở xa, khi về cũng không hẳn là về, khi đi cũng chẳng thật là đi? Nên khổ sở, dày ṿ, ray rức như tôi, hay nên điềm đạm, vu vơ, thanh thản như người? Tôi biết có người xa nước mang một nắm đất đi theo. Quê hương là nắm đất: giản dị như vậy đó sao? Tôi biết rồi tôi cũng có ngày sẽ giản dị như vậy, sẽ mang nắm đất nơi hai thân tôi sẽ nằm xuống để làm bát hương thờ phụng. Có lẽ khi đó tôi sẽ có một quan niệm dễ dăi hơn về quê hương chăng? Và tôi sẽ mĩm cười chăng khi nghe có người thắc mắc hỏi tôi: nắm đất của anh khát mùi bom B52 hay mùi khói súng Mậu Thân?
Ôi, có đất nào không mang một mùi thơm lịch sử, có vết bùn nào ở Hậu Giang không ngọt lịm vọng cổ sáu câu, có con đường nào trên Ô Lư không nghẹn ngào nước mắt Huyền Trân, có hạt sỏi nào bên này sông Gianh không âm vang vó ngựa chúa Hiền, chúa Săi? Nhưng có thật nắm đất của tôi, có thật cả mănh đất vươn dài bên bờ Thái B́nh Dương kia, gợi lên trong tôi một mùi thơm vua Trần, một mùi thơm chúa Nguyễn, một mùi thơm Chân Lạp, một mùi thơm duy vật, duy tâm, khi tôi quỳ xuống hôn lên đất? Hay là tôi chỉ ngửi thấy mùi mạ non, mùi lúa chín, mùi nắng cháy, mùi da thịt của mẹ tôi? Muôn thuở là quê hương, thoảng qua là triều đại. Dính liền quê hương với chế độ là không biết phân biệt xương thịt với mănh áo khoác bên ngoài.
Vậy th́ việc ǵ tôi để thịnh suy ngự trị trên h́nh ảnh của tôi về quê hương? Tại sao không giản dị, rất giản dị, b́nh thường, rất b́nh thường, bắt chước bà, nh́n quê hương như nh́n vườn mẹ ngày xưa, với hoa bí vàng, hoa bầu trắng, cái bướm, con ong, bát canh rau má, hàng cau thắp nắng, hoa sầu đâu rụng đầy sân? Dù tôi ba đời bảy kiếp xuất thân làm chú tiểu quét lá đa, hay xênh xang áo mảo trong cung vua phủ chúa, quê hương là ǵ bây giờ khi ở nơi xa, nếu không giản dị có chừng ấy thôi, nếu không giản dị là vài h́nh ảnh, vài kỷ niệm, và lạ thật, đă là kỷ niệm th́ thành hoa, thành bướm, đă là kỷ niệm th́ rực rỡ nắng vàng. Giữa bà và tôi, thưa bà, giữa tôi với tập thơ, cũng có tao ngộ đấy chứ, tôi đâu không có ân t́nh với mây quyện, khói trôi?
Nhưng chao ôi, trong tôi quá nặng những bàn tay vẫy đưa của Huế, trong tôi nghẹn ngào bao nhiêu ước hẹn với Huế không nói nên lời. Thôi thôi, tôi lại sắp xa bà rồi, tôi lại sắp trở về với những trăn trở của tôi. Biết làm sao được, quê hương của tôi không phải chỉ là hoài niệm, lịch sử c̣n là ngày mai, và trung thành với ḍng sông không phải cứ hướng ngược về phía núi, mà hăy cùng sông trôi xuôi ra biển.
Bà hiểu tại sao thơ không đ̣i bài tựa. Thơ hiểu ḷng tôi chỉ muốn viết thư t́nh, đâu phải cho bà, đâu phải cho ai, cho riêng tôi.
Cao Huy Thuần