Log in

View Full Version : Phố Cổ Trường Xưa & Bóng Dáng Nhà Thơ


florida80
05-30-2021, 16:14
Nói đến thơ xứ Quảng (Quảng Nam – Đà Nẵng) như lời của Hà Khánh Quân (Luân Hoán): “Ở cái đất ‘chưa mưa đă thấm’, chỉ cần cào nhẹ tay lên mặt đường, đă lượm được sỏi đá. Nhưng trong món quà trời cho ấy, nếu nh́n kỹ, ta sẽ thấy lẫn lộn trong sỏi đá c̣n có cả thơ… Phần đất nghèo nàn này, vốn rất giàu những tâm hồn thi ca, và có hơi nhiều thi sĩ”.


https://i.imgur.com/niOsS0n.jpg

Từ những bậc tiền bối ái quốc như cụ Phan Thanh Giản (1796–1867) với Lương Khê thi thảo, Sứ Thanh thi tập, Ước Phu thi tập. Cụ Trần Quư Cáp (1870-1908) nhà thơ Thái Xuyên, cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) nhà thơ Tây Hồ, cụ Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1901), bài thơ thất ngôn bát cú cuối cùng khi bị đối phương hành hạ đến thổ huyết sắp mất quá tuyệt c̣n lưu lại hậu thế. Cụ Nguyễn Duy Hiệu (1847-1877), hai bài thơ tuyệt mệnh trước khi bị chém nói lên tấm ḷng cao cả của tấm lóng ái quốc câu thơ “Hưu tương thành bại luận anh hùng” (Chớ đem thành bại luận anh hùng) trở thành danh ngôn. Cụ Trần Cao Vân (1866-1916) với những bài thơ tiêu biểu (vịnh) nói lên nghĩa khí của bậc sĩ phu yêu nước… Những bậc tiền nhân nầy được đặt tên cho những ngôi trường ở Quảng Nam, và hàng vạn môn sinh đă xuất thân từ đó… một số đă trở thành nhà thơ, nhà văn, nhà báo…

blank


Trong tuyển tập Trăm Năm Thơ Đất Quảng do Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản năm 2005, “tŕnh diện” đến 167 nhà thơ. Nhưng kiểm lại, trong danh sách thi sĩ rất hùng hậu đó, vẫn c̣n thiếu nhiều khuôn mặt nhà thơ khá quen thuộc hiện diện trong thi ca miền Nam VN nhưng bị loại bỏ chỉ v́ một lư do “lư lịch…”!. V́ định kiến với “lư lịch” nên những nhà thơ Quảng Nam đă ấn hành các thi phẩm đóng góp trong thi đàn miền nam VN trước năm 1975 bị “bức tử” nên tuyển tập Trăm Năm Thơ Đất Quảng trở nên nghèo nàn!

Nếu đề cập đến thi ca xứ Quảng phải tốn nhiều công sức cho công tŕnh biên khảo văn học trong thế kỷ qua mà không có “định kiến chính trị” có cả ngàn trang sách.

Trong hai thập niên, vào giữa thập niên 50 đến giữa thập niên 70, nơi phố cổ Hội An, các cựu học sinh trường trung học Trần Quư Cáp, Diên Hồng yêu thi ca và đi vào con đường nầy từ ngày ở mái trường, đời quân ngũ… cho đến tháng ngày tha hương nơi xứ người. Sở dĩ, tôi dùng chữ “bóng dáng” v́ có những khuôn mặt đă ấn hành nhiều thi phẩm như Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Lê Văn Trung, Trần Trung Đạo… Có người đă ra người thiên cổ được người thân ấn hành như Liên Thao và có người sau hơn sáu thập niên sau rời phố cổ, sống ở hải ngoại mới cho ra đời các thi phẩm như Đoàn Ngọc Nam, Mạc Phi Hoàng, Nguyễn Đức Bạn, … Tất cả khuôn mặt đó, h́nh ảnh cố hương và ngôi trường được gợi lại, thấp thoáng trong thơ.

Laưrence Ferlinghetti cho rằng “Thơ, là cái ǵ tồn tại giữa các ḍng chữ” th́ những ḍng chữ nầy ghi lại bóng dáng của “khuôn mặt thời gian”.

Trong mảnh đất đó, dưới ngôi trường Trần Quư Cáp, Diên Hồng đă xuất hiện những nhà thơ: Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Thành Tôn, Nguyễn Thị Liên Phượng (Nguyễn Nho Sa Mạc)*, Hoàng Quy, Hoàng Lộc, Đinh Trầm Ca (Mạc Phụ)**, Phùng Minh Tiến, Lê Đ́nh Phạm Phú, Uyên Hà**, Liên Thao*, Nguyễn Tịnh Đông**, Nguyễn Nho Nhượn*, Dư Mỹ, Lê Văn Trung**, Hạ Đ́nh Thao**, Hồ Tuấn Nhă, Trần Trung Đạo, Lê Phi Điểu… của thế hệ chúng tôi. Và, có nhiều nhà thơ xuất hiện sau năm 1975 ở trong nước, tôi không biết nhiều nên không đề cập. (Nếu bỏ qua định kiến th́ có PDN*, THDV**, VĐSB**… Với bóng dáng nàng thơ h́nh như chỉ có Lê Thị Hàn...

(Lê Cự Phách sau hiệp định Genève, 1954 di cư vào Nam cùng với gia đ́nh, định cư ở Hội An, học cùng lớp với Phùng Minh Tiến, năm 1956, vào Sài G̣n và theo học trường Trần Lục, với bút hiệu Du Tử Lê).

Vào khoảng năm 1964, khi dạy trường Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện, nhà giáo xuất hiện với tên Hoàng Thị Bích Ni cùng thời điểm với Trần Như Liên Phượng (người mà Luân Hoán viết trong giai thoại đi t́m đến khi vỡ mộng). Năm 1963 tôi ở trong nhóm Đất Hàn, Đà Nẵng, h́nh như lúc đó “phong trào nàng thơ” xuất hiện nên “mấy thằng bạn” lại thích làm nàng thơ. Khi đó Chu Tân làm Giám Thị trường Nam Tiểu Học Đà Nẵng, nên dành cho căn pḥng để sinh hoạt cuối tuần, chẳng có nàng thơ nào cả.

(Ghi chú: *: qua đời. **: ở VN. Luân Hoán ở Canada, tất cả đều ở Hoa Kỳ. Với trí nhớ của tôi có lẽ c̣n thiếu sót. Một số xuất thân dưới mái trường TQC, DH ở thập niên 60, 70 và sau nầy có lẽ cũng nhiều nhưng không biết hết). Hơn nữa, thế hệ chúng tôi của thời điểm đó được nhắc lại để gợi nhớ, hoài niệm với thời gian.

Về lịch sử phố cổ Hội An được tóm tắt: Trong các văn bản cổ, tên Hoài Phô được nhắc đến sớm nhất trong cuốn Ô Châu Cận Lục viết vào 1553. Làng Hoài Phô hẳn là một làng cổ của người Việt h́nh thành bên bờ sông ở Hội An vào cuối thế kỷ 15. Sau đó các thương nhân phương Tây đến giao thương buôn bán, dẫn đến việc kư âm, gọi tên Hoài Phô thành Faifo và các tên gọi tương tự khác. Bước sang thế kỷ 17, Faifo gần như đă trở thành định danh về phố cảng Hội An, c̣n cái tên Hoài Phô th́ mờ nhạt theo thời gian rồi biến đổi thành Hoài Phố. Tên gọi của Hội An có thể bắt đầu được sử dụng bởi thương nhân Bồ Đào Nha từ nửa đầu thế kỷ 16 và phổ biến vào các thế kỷ 17, 18. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều cách gọi gần giống như: Faifo, Haifo, Faicfo, Haiso, Faiso...

Faifo chỉ thực sự trở thành tên gọi của một đơn vị hành chính bắt đầu từ các bản dụ của Vua Thành Thái vào tháng 10/1898, 7/1899, và nghị định của toàn quyền Đông Dương ngày 30/8/1899 cho thành lập thị xă Faifo (Ville de Faifo). Và, vài con đường đă tên tiếng Pháp như ở Đà Nẵng (Tourane).

Trong bài viết của anh Trương Duy Cường nay đă 85 tuổi, cho biết anh sinh ra nơi nầy “Người Pháp chỉ chọn đặt tên riêng cho hai thành phố của Việt Nam là Ville de Tourane và Ville de Faifo… Cho đến gần cuối năm 1945, hai thành phố này mới được mang tên Việt: Tourane trở thành Thái Phiên, sau đổi thành Đà Nẵng. Ville de Faifo đổi thành Hội An… Thập niên 1944-1950, tôi sống trong ngôi nhà buôn Phi Anh số 9 rue de Hoi An…”.

Theo anh, đường Cantonnais, phố Quảng Đông (tức Nguyễn thái Học). Rất tiếc, anh không nhắc đến những tên đường khác nên không đề cập…

Có nhiều bài viết đề cập đến phố cổ và ngôi trường TQC. Trích hai bài viết của Trần Trung Đạo. Trong tác phẩm Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác của anh, bài viết Hội An Ngày Ấy mô tả vị trí trường Trần Quư Cáp “... Con đường chính chạy dọc qua Ṭa Tỉnh Trưởng và khu hành chánh cũng như bệnh viện Quảng Nam và trường Trần Quư Cáp. Dọc theo đó có hai hàng phượng vĩ rất lớn. Thông thường, các sân trường ở Việt Nam hay trồng những cây hoa phượng; tôi không biết họ có ư ǵ khi trồng; nhưng theo tôi, mỗi lần mà ve sầu kêu inh ỏi trên những tàng cây phượng và lúc hoa phượng bắt đầu nở bông, là mùa hè được báo hiệu đă đến...

... Hội An có những trường Trung Học như Trần Quư Cáp xây dựng theo lối Pháp-Việt Nam; ngôi trường Diên Hồng xây dựng theo lối cổ người Hoa; ngôi trường Bồ Đề xây theo lối tân thời...

... Trường Trần Quư Cáp cung cấp rất nhiều nhân tài cho đất nước, ngay cả ở trong cũng như ngoài…”.

Trong bài viết Phố Cổ Hội An & Những Ngôi Trường Cũ của Trần Trung Đạo gợi lại vài h́nh ảnh ngôi trường Trần Quư Cáp:

“… Hiệu trưởng của chúng tôi ở trung học Trần Quư Cáp trong ba năm tôi học từ cuối năm 1969 đến tháng 6 năm 1972 là thầy Lưu Chí Kiên và Tổng Giám Thị là thầy Tống Khuyến. V́ là trường lớn nhất của tỉnh nên trường Trần Quư Cáp có một ban giáo sư đông đảo và số lượng thầy cô tăng rồi giảm, đến rồi đi, cũng rất nhanh. Tôi chưa đọc một danh sách giáo sư Trung học Trần Quư Cáp nào đầy đủ. Theo một tài liệu được viết khá sư phạm và khách quan, năm tôi vào học, trường Trần Quư Cáp có đến 2.190 học sinh, trong đó có 27 lớp đệ nhất cấp và 17 lớp đệ nhị cấp. Tôi không nhớ hết thầy cô nhưng tên thầy cô mà tôi học trong ba năm vẫn c̣n nhớ: Thầy Nguyễn Văn Liêu dạy Việt Văn, thầy Phan Khôi dạy Anh Văn, cô Trần Phương Lan dạy Anh Văn, cô Bích Ty dạy Triết, thầy Phạm Phú Lợi dạy Triết, thầy Nguyễn Ngọc Anh dạy Sử Địa, thầy Đặng Văn Bôn dạy Vạn Vật, thầy Phùng Rân dạy Lư Hóa, thầy Nguyễn Văn Thọ dạy Toán, cô Nguyễn thị Nguyệt dạy Việt Văn, thầy Tống Nhạn dạy Pháp Văn, thầy Tăng Kim Lân dạy Sử Địa, thầy Tống Diệu dạy Anh Văn…

… Viết về trường Trần Quư Cáp không thể nào quên nhắc đến Hội An… Thành phố trầm lặng có những ngôi chùa tên nghe rất lạ, chùa Ngũ Bang, chùa Âm Bổn, chùa Cầu, nhưng nghe riết nên cảm thấy vô cùng thân thiết. Hội An trong tâm hồn tôi chẳng khác ǵ một căn nhà riêng, nơi đó, từng góc phố, từng con đường, từng mái ngói, từng giọng nói êm đềm của cô bé bưng cà phê, từng giọng rao cao vút của chị bán cao lầu rong đă gắn liền trong một phần đời. Ngày đó Hội An cũng đă có nhiều quán cà phê; nhưng chúng tôi thích uống cà phê ở quán phía trước Tiểu khu Quảng Nam và gần nhà nhất là cà phê Số Một sát bên con hẽm nhỏ đi vào khu Khổng Miếu.

blank


Hội An những ngày tôi sống buồn và vắng vẻ. Thành phố buồn đến nỗi trong một phóng sự đăng trong trang địa phương của báo Sóng Thần, tôi đă gọi Hội An là “Thành phố chết”. Không những con người chẳng ai ngó ngàng đến Hội An mà cả chiến tranh cũng bỏ sót Hội An. Thật vậy, ngoại trừ trận Mậu Thân và những lần pháo kích, trong suốt mấy mươi năm của cuộc chiến, thành phố của tôi như rơi vào quên lăng. Điều rất lạ, ngay cả Mỹ, trong thời cao điểm với cả trăm ngàn quân đóng ở Đà Nẵng, cách đó vài chục cây số, không có đơn vị nào lớn đóng ở Hội An. Các đơn vị Đại Hàn thuộc sư đoàn Thanh Long hay Mănh Hổ ǵ đó đóng ở Cẩm Hà, Lai Nghi chứ không đóng ở Hội An. Hẳn nhiên lư do chính v́ Hội An không c̣n giữ một ví trí kinh tế chiến lược như 300 năm trước. Dù sao, nhờ những lăng quên đó mà ngày nay những mái ngói cong c̣n nguyên vẹn, những cột nhà chạm trổ tinh vi đă giúp thu hút du khách để nuôi sống người dân phố Hội sông Hoài…

… Một bài thơ của Bùi Giáng về Hội An:

“Mơ màng phố cũ hoang liêu

Cánh buồm con sóng sương chiều Hội An

Tờ mây chan chứa mộng vàng

Tuổi đời em kết mấy ngàn cánh hoa

Mừng vui giọt tuổi chan ḥa

Bước đi từ đó gió xa bay về

Ngậm ngùi đàn lệ ai nghe

Cội nguồn bên tháng năm thề xẻ chia

Dấu mờ hoen hận c̣n kia

Hồn trăng soi bóng sầu khuya một bờ…”

Hầu hết các nhà thơ Hội An có ít nhất một bài viết về thành phố cổ này và thường là những bài thơ được yêu thích nhất, điển h́nh như Nụ Hoa Cho Người Em Hội An của Luân Hoán, Trưa Ở Hội An của Hoàng Quy, Ngọn Quế Viễn Phương của Thái Tú Hạp, Hồi Âm của Thành Tôn, Về Ru T́nh Cũ của Lê Đ́nh Phạm Phú, Trường Xưa của Phùng Minh Tiến, Hội An Nỗi Nhớ Trong Ta của Dư Mỹ, Bên Trời của Lê Văn Trung, Ngày Trở Lại Hội An của Hoàng Lộc, v.v..

Những người con từ Hội An ra đi đều có một nhận xét giống nhau: “Hội An là thành phố để về thăm chứ không phải nơi để ở”. Tuy buồn bă như thế, hàng năm, tôi vẫn về. Ngay cả những năm khó khăn sau 1975, tôi vẫn cố gắng về. Đi xa, nhớ Hội An da diết; nhưng khi vừa bước chân về ḷng lại muốn ra đi. Trong những năm ở Sài G̣n, tôi về Hội An chỉ để đi một ṿng phố cổ, đứng trước trường Trần Quư Cáp đảo mắt nh́n các em học sinh để t́m lại chính ḿnh thời học tṛ, rồi lại ra đi trên những chiếc xe Renault màu xanh đậm và già nua không thua ǵ thành phố.

“Chào cô gái học tṛ đang tới lớp

Cho tôi làm viên sỏi dưới chân em

Để xào xạc hồn tôi khi mới lớn

Chút men t́nh năm tháng ấy chưa quên”.

(Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi, thơ Trần Trung Đạo)

Hội An của tôi là những buổi chiều ngồi trước cửa nhà thơ Phạm Đ́nh Nguyên ở Ngă Ba Tin Lành ngâm nga “Ḍng sông nào đưa người t́nh đi biền biệt” và nh́n các em nữ trung học Hội An đi học về trong cơn mưa.

“Em về phố Hội chiều mưa lớn

Vóc ngọc ngà khoe dưới lụa hồng

Ta như giọt nước mùa mưa đó

Đă cuốn trôi về trăm nhánh sông”.

(Em Về Phố Hội, Trần Trung Đạo)

Tôi viết những ḍng thơ đầu tiên khi c̣n ở trường Duy Xuyên và sáng tác nhiều hơn khi chuyển qua trường Trần Quư Cáp…

… Ngoài Nguyễn Xuân Tường thuộc Thi Văn Đoàn Hải Phố do nhà thơ Huỳnh Kim Sơn sáng lập, nhóm bạn viết văn, làm thơ, viết nhạc trong lớp học sinh trường Trần Quư Cáp những năm đầu thập niên 1970 c̣n rất đông nhưng không được nhiều người biết đến. Tôi sẽ gọi là “chúng tôi”, đơn giản v́ dù có kể hết tên và bút hiệu cả nhóm văn nghệ ra đây chắc cũng không ai biết…

… Nếu định nghĩa giáo dục là những ǵ c̣n lại sau khi quên hết, những ǵ c̣n lại trong tôi không phải là những nguyên tắc máy móc, những công thức khô khan mà là những bài giảng công dân giáo dục nhẹ nhàng; nhưng cần thiết của thầy cô, những khát vọng và ước mơ tuổi trẻ mà tôi nung nấu dưới mái ngói đơn sơ của ngôi trường mẹ, trung học Trần Quư Cáp Hội An”.

(Trần Trung Đạo)

*

Luân Hoán đă sáng tác nhiều bài thơ về phố cổ. Trong bài viết Nh́n Lại 40 Năm Luân Hoán của tôi trước đây nhân kỷ niệm 40 năm làm thơ trong tuyển tập của anh chỉ tổng quát về tác phẩm & sinh hoạt văn học nghệ thuật. Với hồn thơ về nơi chốn nầy đă được đề cập qua bài viết của chị Ái Cầm.

Bài viết Hội An Vẫn Hồn Nhiên Đậm Đà Trong Thơ Luân Hoán của Ái Cầm:

“… Riêng Luân Hoán có sáu năm ấu thơ với Hội An, cùng một khoảng thời gian dài anh lưu tới giao du cùng các bạn văn, đủ để làm thơ. Trong đề tài viết về quê hương, Luân Hoán thường nhắc đến Hội An và chúng tôi t́m thấy có năm bài anh viết riêng cho thành phố này. Hai bài “Nụ Hoa Cho Người Em Hội An”, “Đêm Mưa Về Hội An” nằm trong tập Rượu Hồng Đă Rót. Bài “Bài Gởi Hội An” trong Ngơ Ngác Cơi Người. Bài “Hội An Hội An Hội An...” trong Cảm ơn Đất Đá Trổ Thơ.... và bài mới đây nhất trên tạp chí Gió Văn, bài “Lượm Thơ Trên Đất Hội An”. Chúng ta có gặp được Hội An trong thơ Luân Hoán? Và cái t́nh của anh đối với con người của miền đất hiền ḥa này ra sao?

“... Lâu năm trở lại Faifo

Nghe hồn Phố Hội dạt dào cỏ cây

Chiêm, Hà, Bồ, Pháp, Tàu, Tây. . .

C̣n vươngg trong hạt bụi bay hững hờ

Chỉ giùm ta vạt đất nào

Đă chôn cuống rún trổ thơ thành chùm...”.

Trên con đất đă chôn cuống rún của ḿnh, Luân Hoán đă thong thả dạo qua những nơi đă kư thác trong ḷng anh nhiều kỷ niệm. Với “Chân hôn ḷng phố ngổn ngang ổ gà”. Với “Mắt theo ḷng tột nóc nhà. Ngói âm dương nở cỏ hoa ngóng trời”, Luân Hoán ghé Cẩm Phô, để cảm nhận cảnh cũ vần c̣n nguyên đấy, nhưng với cái nh́n theo tuổi đời đă như khác đi... Rồi từ đó, Luân Hoán ghé chùa Cầu, Chùa ông, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Cẩm Sa... và khi đă mỏi, anh ghé lại những tụ điểm của đời thường trong thành phố. Một quán bán chè của bà Sỏ, một chỗ ngồi lắm rệp trong rạp chiếu bóng Phi Anh, một góc trước tấm màn trắng của hiệu chụp ảnh Hồng Hưng... đến những địa điểm rộng răi thân quen hơn như Khổng Miếu, như sân trường Trần Quư Cáp... ở đâu Luân Hoán cũng xác nhận anh đă gặp lại anh. Và trong những h́nh ảnh Luân Hoán vẽ ra, chúng ta tưởng chừng như có thể vói nắm được những ǵ thân thiết của chính ḿnh.

Chẳng những cảnh sắc đặc thù, giàu nghệ thuật của Phố thu phục Luân Hoán. Chúng tôi nghĩ con người được hấp thụ những tinh khiết nơi đây cũng cù rủ người thơ. Chúng tôi không biết cụ thể có hay không một người yêu nào đó của Luân Hoán, xuất thân từ Hội An, nhưng khá thú vị khi đọc những ǵ anh đă viết cho những người em Hội An…

… Trong mỗi chuyến trở về thăm, anh vẫn gượng nhẹ từng bước chân của ḿnh:

“Gió tha thướt vỗ trăm lời thân mật

Mừng ta về thăm lại ấu thơ xưa

Lặng nh́n nhau, Phố đă nhận ra chưa?

Ta vĩnh viễn một thằng con bất hiếu

Thân phiêu bạt, giờ đây ḷng trải chiếu

Bước bâng khuâng xin thâm tạ ơn đời

Ba mươi năm hồn thả sợi t́nh lơi

Bao giờ buộc đời ta vào với Phố?”

(Đêm Mưa Về Hội An).

Năm 2002, Luân Hoán bắt chợt về thăm nhạc phụ bị tai biến mạch máu năo ở Đà Nẵng, anh có ghé vội Hội An một lần… Đi giữa những người đồng hương, những khách du lịch mang nhiều quốc tịch, vậy mà h́nh như Luân Hoán cảm thấy cô đơn. Anh chua xót chọn điểm nghỉ chân bên cái xác già nghèo khốn của Khổng Miếu. May thay ḍng sông Hoài kịp thời giúp anh lượn được những câu thơ trên phố cổ của ḿnh:

“Rất t́nh cờ được về thăm Hội An

Na ná như xưa, vui vẻ một đàn

Thế chỗ bạn bè, năm mười đứa cháu

Xế nổ thay cho xe đạp tàng tàng

Ghé vội thăm qua vài nhà quen cũ

Ngói mái âm dương ngái ngủ cả đời

Nắng vẫn đỏ au nằm ôm cửa nhớ

Gió hát bao năm rả rích một lời

… Chẳng gặp được ai, dân Trần Quư Cáp

Để bắt tay xứng đây bậc đàn anh blank

Tán dốc một hồi loanh quanh đỡ nhớ

Truy niệm cái thời có chút tinh ranh

Chờ măi không nghe chuông chùa Phước Kiến

Không buồn. cũng thả bước dọc bờ sông

Ghe gối đầu nhau lơ mơ canh mộng

Lượm được câu thơ ai rớt giữa ḍng

Biết cất vào đâu câu thơ nóng hổi

Chẳng thấy ai t́m của lạc, đành thôi

Sông Thu mấy nhánh tôi không biết

Xin giữ trong ḷng chỗ nằm nôi”.

… Trong những nhà thơ sinh trưởng tại Hội An, hoặc chọn Hội An là nơi định cư trong khoảng một thời gian nào đó, không mấy ai gắn bó nồng nhiệt với Phố Cổ Hội An bằng Luân Hoán, chúng ta cảm nhận rơ nét về những con đường thân yêu, về những địa danh ngơ ngách đầy kỷ niệm của một thời để yêu và để nhớ. Những thương yêu, những ray rứt của một t́nh nhân ôm Phố Hội vào ḷng. Từ thi phẩm Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ qua đến thi phẩm Rượu Hồng Đă Rót... Và Ngơ Ngác Cơi Người ở hải ngoại. Luân Hoán vẫn là người t́nh trăm năm với Hội An. Điều đó thật ra không lạ, bởi càng sống với Hội An càng lâu năm, chúng ta càng cảm thấy Hội An càng đẹp năo nùng. Buổi chiều nắng vàng hiu hắt trên những mái chùa rêu phong.

… Hội An đă hát với ḍng sông Thu Bồn, đă thở với rêu phong trên mái ngói âm dương Khổng Miếu, Phước Kiến, Lai Viễn Kiều, Viên Giác... Hội An vẫn hiền ḥa, bao dung giang đôi tay đón những đứa con ra đi không kịp nói lời giă biệt. Những đứa con trở về từ bốn phương lưu lạc như thuở Hội An c̣n mang tên Faifoo hồn nhiên trong sách vở, hồn nhiên trong thơ văn và hồn nhiên thơ mộng trong tâm hồn cơi sống đời thường. Ở cái mảnh đất linh hiển này hẳn c̣n có măi một Luân Hoán, cùng các bạn bè thân mến của anh”.

(Ái Cầm)

Với Luân Hoán, h́nh ảnh Hội An: “Trong hơn sáu mươi năm tiêu xài cuộc sống, tôi đă trôi dạt đến nhiều nơi trên mặt đất, ḍng máu trong tim tôi bây giờ không biết đă hao hụt bao nhiêu, đậm nhạt thế nào. Nhưng có một điều chắc chắn, chúng vẫn đỏ, và vẫn nồng nàn khi nghĩ về những địa danh ở quê nhà, nhất là nơi đă chôn giữ cuống rún bé nhỏ của ḿnh.

Nhớ về Hội An, viết về Hội An, nơi chôn cuống rún tôi, không thể không lấy ḷng ra để sờ mó, nh́n ngắm lại một vóc dáng, một nhan sắc của một con đất kỳ diệu thuộc xứ Quảng Nam. Thịt da của đất đá, của cỏ cây, của con người ở chốn trầm hương này đă dần dần trưởng thành từ thế kỷ 16. Khuôn mặt kinh tế, khuôn mặt văn hóa đă có thời phương phi, rạng rỡ, có thể là một vùng sống hợp chủng đầu tiên, được gọi bởi nhiều mỹ danh. Nhưng cho dù là Hải Phố, Hoài Phố, Hoa Phố, Faifoo, hay gọn nhẹ, thân mật chỉ một từ Phố, Hội An vẫn là Hội An, với cốt cách, phong thái vừa đủ để mời gọi, vừa đủ để nhớ tưởng…”.

Thái Tú Hạp đă ấn hành nhiều thi phẩm. Trước năm 1975, trong đó có: Tuyển Tập Sông Thu (1962 cùng với Thành Tôn và Hoàng Quy), Quê Hương & Người T́nh (1969), Thèm Về (1970)… Năm 1975, khi anh định cư tại Hoa Kỳ đă ấn hành các thi phẩm liên quan đến quê nhà như Chim Quyên Lạc Ngàn (1982), Miền Yêu Dấu Phương Đông (1987). Trong 65 bài thơ của thi phẩm nầy cũng nói lên h́nh ảnh Phương Đông, trong đó bàng bạc nơi chốn đă sinh ra và lớn lên.

H́nh ảnh đó, Thái Tú Hạp mô tả: “Tại Hội An có 11 ngôi đ́nh chùa, đa số của người Minh Hương với các lối kiến trúc khác nhau như một Hội Quán sinh hoạt của những đồng hương người Triều Châu, Phước Kiến, Gia Ứng, Hải Nam và Quảng Đông.

Những ngôi đ́nh của người Việt tạo dựng như Đ́nh Cẩm Phô, Đ́nh Đế Vơng, Đ́nh Ông Voi, Đ́nh Tiên Từ, Đ́nh Sơn Phong... Chưa kể đến các ngôi chùa như Chùa Hải Tạng, Viên Giác, Phước Lâm, Vạn Đức, Chùa Bà Mụ, Chùa Ông, Chùa Tĩnh Hội, Chùa Long Tuyền, Chùa Sư Nữ...

Chính v́ nhiều đ́nh chùa cổ miếu như thế nên hàng năm cúng lễ hương khói triền miên, do đó người dân Hội An cũng có khuynh hướng mănh liệt về đức tin tâm linh. Những hiện tượng xảy ra rất linh thiêng huyền diệu mà khoa học không thể nào chứng minh được... Cụ thể như trước năm 1975 có những cuộc đụng độ giữa các lực lượng VNCH và du kích CS bên sông Cẩm Thanh pháo kích vào trung tâm thị xă Hội An, nhưng đa số đều nổ ở ngoài đường hoặc rơi một số trong sân chùa nhưng đều không nổ... quả thật là điều kỳ lạ. Những câu chuyện được kể như cầu cơ lên đồng, xin xăm coi quẻ vào những ngày lễ hội đầu năm được ghi nhận thật là linh thiêng mầu nhiệm nếu chúng ta nghiêng sâu về đời sống tâm linh chắc không thể không chấp nhận những sự kiện siêu h́nh như thế…”.

Khi sống ở hải ngoại, trong bài Buồn Hội An, chỉ hai câu thơ của anh cũng thể hiện tâm trạng chung của những người lưu lạc:

“Chừ về với phố u sầu

Với thành quách cũ lên mầu thời gian…”.

Với ḍng sông Thu, với bao kỷ niệm của thuở học tṛ cũng ngậm ngùi theo thời gian:

“Ḍng sông đó mang tôi vào lịch sử

Ḷng quê hương c̣n dấu đạn căm thù

Tháng năm buồn trôi qua bằng đau đớn

Nghe chán chường trong hơi thở cô đơn.”

Bài thơ Buồn Hội An của Thái Tú Hạp đăng trên tờ Bách Khoa năm 1962:

“… Người đi thương nhớ Hội An

Ngh́n xưa sau có muôn vàn đớn đau?

Thèm về với phố u sầu

Với thành quách cũ lên màu thời gian

Với em thị xă lỡ làng

Lời ru t́nh Quảng Nam ngàn xót thương

Sài Giang nước chảy xa nguồn

Mấy đời nay vẫn thêm buồn cho nhau”.

Với Hoàng Quy, quê của anh nằm ven bờ hữu ngạn sông Thu Bồn nhưng sau năm 1975, sau khi ở tù ra, gia đ́nh nhà thơ Hoàng Quy không được phép sống tại Quảng Nam mà phải đi “kinh tế mới” ở làng Phong Điền, Cái Răng, tỉnh Cần Thơ, sau nầy trở lại chốn xưa ở Đà Nẵng.

Bài thơ Người Xưa Phố Cổ bày tỏ tâm trạng bi thương:

“Vẫn trăm năm nữa thầm th́

Bước chân phiêu lăng có về nữa không

Rêu phong mờ ảo tấc ḷng

Em qua phố cổ tay bồng vai mang

Tội t́nh một kiếp đa đoan

Lá khô que củi man nan sầu đời

Đợi ǵ một hạt mưa rơi

Mà phương trời cũ vẫn nơi hẹn ḥ

Ngày qua hiu hắt trang thơ

Đêm qua ngậm ngải bơ vơ chỗ nằm

Người xưa đă quá xa xăm

Phố xưa úp mặt khóc thầm cùng ai

Ta về níu vạt áo dài

Che đầu hát khúc thiên thai tạ đời!”.

*

Trong ca dao và thi ca đề cập nhiều về phố cổ Hội An. Cao bá Quát có bài thơ ngũ ngôn bát cú Du Hội An Phùng Vị Thành Ca Giả (Chơi Phố Hội, Gặp Người Đào Hát Thành Vị). Trần Công Nghị dịch qua thất ngôn bát cú & Laiquangnam (Trương Được) có viết vài bài và đăng trên trang báo và web Caliweekly của tôi năm 2005.

Trong phạm vi bài viết nầy, tôi trích đăng vài bài thơ của các bạn thơ xuất thân dưới mái trường TQC liên quan đến chốn xưa.

Bài thơ Về Ru T́nh Cũ của Lê Đ́nh Phạm Phú:

“Một chiều Hội An nhớ về mấy ngă

Anh bâng khuâng nh́n suốt dăi sông Thu

Chảy trong ḷng quê hương nghèo tơi tả

Nên rất buồn trên những bước phiêu du..”.

Bài thơ Trường Xưa của Phùng Minh Tiến

“Tôi về thăm lại trường xưa

Tường rêu đứng lặng mấy mùa chia xa

Giảng đường chết lặng bên hoa

Bước chân ngày cũ ai qua chốn này

Áo bay từ độ trăng gầy

Đôi bờ nhật nguyệt đă đầy nhớ thương

Tóc xưa c̣n thoáng mùi hương

Năm mươi năm lẻ c̣n vương dấu giày

Phố chiều mờ mịt mây bay

Ngang qua lớp cũ hao gầy dáng ai?

Em giờ chắc đă khác xưa?

Thương em, đứng lặng, gió mưa đầy trời”.

Bài thơ Hội An, Trên Con Đường Cũ của Hoàng Lộc

“Con đường ngày xưa em đi học

Mông mênh nỗi nhớ buổi tôi về

Bốn mươi năm bỏ trời niên thiếu

Áo trắng c̣n run ngọn gió quê

Bốn mươi năm nước sông Hoài chảy

Cớ chi bến phố vẫn nguyên bờ?

Cớ chi tôi mấy mùa dâu bể

Vẫn cuối đường hoang nắng Cẩm Phô?

… Tóc trắng chờ em giữa Hội An

Như chưa đổi phố đổi tên đường

Là em vẫn cứ thời con gái

Tôi, cái đuôi theo buổi tới trường…”

Bài thơ Về Lại Hội An của Hoàng Thị Bích Ni:

“Ta ghé lại trường xưa t́m chút nhớ

Đường phượng xanh một thuở trải trong mơ

Giở từng bước lao chao hương kỷ niệm

Những ngày vui xa biền biệt không ngờ

Chiều Kim Bồng vàng long lanh nắng xế

Nhuộm vàng thơ kư ức của ta xưa

Hồn khe khẻ mở từng trang sách vở

Bỗng dưng buồn ngơ ngác đến ơ sờ

Chiều Cẩm Phô vẫn ngày xưa mây trắng

Trôi lang thang qua những nẻo trời cao

Ta lần bước bâng khuâng t́m lối cũ

Ḷng quạnh hiu giữa phố cổ xanh xao

Ván chùa Cầu khua bước chân lách cách

Âm vang trầm vọng mấy trăm năm

Ta một đời mấy mươi năm lật bật

Mai đây rồi ch́m khuất cơi mù tăm…”

Bài thơ Phố Cổ của Mạc Phi Hoàng:

“Phố cổ ngàn năm tuổi có dư

Chân mày râu tóc bạc phơ phơ

Vẫn c̣n thân thiết như người bạn

Mặc thế nhân thay đổi cuộc cờ

Nơi ấy thời gian lắng bước chân

Qua con phố nhỏ nét phong trần

In hằn trên những ngôi nhà cũ

Phảng phất c̣n vương bóng cổ nhân

Nơi ấy không gian vọng điệu ḥ

Trăng vàng bát ngát dệt xe tơ

Trăi trên thành phố đêm huyền ảo

Bàng bạc sông Thu tiếng gọi đ̣…”

Bài thơ Hội An Nỗi Nhớ Trong Ta của Dư Mỹ

“… Con phố Hội hồn ta xưa thơ dại

Trường Bà Mụ tiếng thầy cô vọng măi

Bạn bè giờ dăm đứa lạc dăm nơi

Ta lớn lên bằng giọng hát tao nôi

Lời ru mẹ ḥ ơ trong giấc ngủ

Qua chùa Cầu, ai thương hoài quá khứ

Áo trắng về Âm Bổn đẹp trong mơ

Tuổi học tṛ ta tập tễnh làm thơ

… Hội An ơi, từng tên quán, tên đường

Từng con hẻm trong ḷng ta sống lại

Ta nhớ măi tiếng cười cô em gái

Buổi trưa hè gội tóc băi Kim Bồng

Đêm trăng về ngồi vọc nước bờ sông

Xếp thuyền giấy thả xuôi gịng cửa Đại

Bến Cẩm Thanh thương giọng ḥ cô lái

Mau lên đ̣ kẻo lỡ chuyến đ̣ trưa

Ai có về thăm lại Vạn Gành xưa

Con cá nục thơm nồng rau Trà Quế

Hội An đó biết bao điều muốn kể

Đă đi vào cổ tích phải không em

Đă đi vào trong mỗi một trái tim

Mà dĩ văng vẫn c̣n vươngg vấn măi

Đêm Bắc Mỹ ôi nghe hồn tê tái

Tuyết lạnh ngoài trời,tuyết lạnh trong ta

Sao bỗng dưng ta thành kẻ xa nhà

Quê hương đó ngoài tầm tay ta với

Qua đại dương xin một lần nhắn gởi

Lời kinh cầu cho con phố thân thương

Mai ta về với tiếng hát quê hương

Đời ấm lại trong ṿng tay của Mẹ”

Bài thơ Cùng Em Hoài Phố của Lê Văn Trung trong tập thơ Cát Bụi Phận Người:

“Đưa em qua khỏi Chùa Cầublank

Chưa nh́n thấy hết một màu rêu phong

Có người về tự ngàn năm

Hỏi con đường nhỏ sợ nhầm lối xưa

Đưa em xuống bến sông Hoài

Làm sao qua được cơi ngoài nhân gian

Có ai gọi chiếc đ̣ ngang

Gởi câu thơ cổ buồn sang xứ người

Đưa em dạo phố đời tôi

Ai vô t́nh chạm vọng hồi chuông vang

Có người ngồi cổng Chùa Ông

Nh́n thăm thẳm cơi vô cùng Hội An

Đưa em theo cuộc xoay vần

Lá ngàn năm cũ đă vàng áo thu

Có người hỏi phố xưa đâu

Buồn tôi lạc giữa Chùa Cầu quạnh hiu

Đưa em bến phố chợ chiều

Bao ḍng xuôi ngược tôi theo lối nào

Có người măi tận ngàn sau

Không t́m thấy được nông sâu đời ḿnh…”

Trong bài thơ Bên Trời của Lê Văn Trung cũng là nỗi niềm chung

Anh muốn về thăm phố Hội An

Lối xưa c̣n nhạt nắng hoe vàng

Thuyền sông khói nhẹ vời con nước

Biển lặng chiều hôm mây trắng giăng

… Đă mấy mùa xa cách ngậm ngùi

Ḷng như con nước lạnh lùng xuôi

Thương em tội nghiệp bầy chim sáo

Vỗ cánh chiều sông nhạt nắng rơi…”

Hiện nay Lê Văn Trung sáng tác thơ rất nhiều, hầu như mội ngày một bài thơ trên facebook.

Năm 2010, khi Trần Công Nghị (Liên Thao) ở Canada lâm trọng bệnh, Uyên Hà ở Đà Nẵng liên lạc với anh em khắp nơi c̣n lưu giữ sáng tác nào của TCN, gom góp lại để thực hiện “món quà lưu niệm” khi rời bệnh viện, tôi hứa sẽ đảm trách phần kỹ thuật nhưng theo ư hiền thê của anh (chị Kim Anh) đợi khi nào anh được khỏe… nhưng không may, anh vĩnh biệt cơi trần vào tháng 9-2010. Tuy 3 người ở 3 nơi, không gặp nhau nhưng “món quà lưu niệm” đó ấn hành vào ngày giỗ đầu tiên của anh. Có các bài viết của bạn bè cùng thời dưới mái trường TQC. Cảm kích t́nh bạn với nhau qua thơ văn chia sẻ t́nh thân với người quá cố, tôi viết Trần Công Nghị, Văn Chương & Bằng Hữu. Với tuyển tập này (dày 180 trang) chị Kim Anh mang ra mộ chống (100 ngày) để “ra mắt” người thiên cổ.

Liên Thao làm thơ hồi c̣n học sinh TQC nhưng khi vào học đại học Văn Khoa Sài G̣n và dạy học lại ngưng cho đến khi định cư tại Canada th́ mới làm thơ.

Bài thơ Thầy Cũ Trường Xưa

Gởi đến thầy Hoàng Trung và quí cô, thầy cũ

“Bao năm rời bỏ trường xưa

Cành hoa phượng thắm đong đưa có c̣n

Trăm năm nước chảy đá ṃn

Nghĩa thầy, t́nh bạn sắc son tấc ḷng

Ngày xuân xanh búp lá non

Tóc mây vóc hạc có c̣n uy nghi

Sông Hoài nước cuốn trôi đi

Lời thầy vẫn đó khắc ghi trong đời

Triều dâng cửa Đại đầy vơi

Học tṛ bao kẻ xa khơi ngút ngàn

Mây trời lúc hợp lúc tan

Nghĩa thầy, t́nh bạn muôn vàn thiết tha”.

T́nh bạn nơi cố hương, không thể nào diễn tả qua thơ văn như lời Hạ Đ́nh Thao:

“Muốn viết ngh́n ḍng nhưng thôi nhé Nghị

Có nói ǵ hai đứa cũng vời xa!”

Một khuôn mặt trước đây xuất hiện các bài viết về sinh hoạt truyền thống của quê hương, anh có trí nhớ rất tốt trong tùy bút từ thuở học tṛ với thầy cô, bạn bè và lớp học. Tháng 9 năm 2016, Đoàn Ngọc Nam ấn hành tập thơ “Kỷ Niệm 50 Năm Thành Hôn” với khoảng ba trăm bài thơ. Và, nguồn cảm hứng qua các tập thơ kế tiếp.

Trích những ḍng thơ trong bài Nhớ Hội An của Đoàn Ngọc Nam để thay cho lời kết bài viết nầy.

blank


“Ai về thăm phố Hội An

Cho tôi nhắn gởi lời vàng nhớ thương

Dầu cho phiêu bạt tha phương

T́nh tôi vẫn măi vấn vương ban đầu…

… Ra đi mang nặng khối t́nh

Hội An phố cổ bóng h́nh in sâu…”.

Với hai chữ Hội An dễ ḥa nhập âm điệu ḍng thơ nên tên gọi được gợi lại h́nh ảnh cố hương. Trong khi đó Đà Nẵng có nhiều nhà thơ nổi tiếng lại dùng h́nh ảnh, tên gọi khác nơi địa danh nầy để mô tả.

Trong bài Phố Cổ Trường Xưa & Bóng Dáng Nhà Thơ nầy của tôi chỉ nói lên vài h́nh ảnh, vài khuôn mặt trong vườn thơ phố cổ Hội An, không thể nào viết đầy đủ, nhớ đến đâu, viết đến đó v́ trí óc cụng mai một theo thời gian…

Trong bài Khúc Giang của Đỗ Phủ:

“Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

(Nợ tiền mua rượu đâu không thế?

Sống bảy mươi năm đă mấy người?)

(Tàn Đà dịch)

Nay thế hệ chúng tôi đă ở ngưỡng cửa bày mươi, tám mươi cũng thuộc “cổ lai hy” c̣n có nhau, nhớ nhau để chia sẻ cũng là niềm hạnh phúc. Mặt trời sắp lặn cuối chân trời và đời người cũng vậy… bóng đêm ḥa nhập với cơi thiên thu. Hơn thể kỷ xa phố cổ trường xưa của những đứa con lưu lạc mà “khuôn mặt thời gian” vẫn ẩn hiện trong tâm thức khi đọc lại những ḍng thơ bằng hữu.

blank


Hội An của thời xa xưa tuy nhỏ nhưng t́nh bạn bao la và thật dễ thương. Phố cổ hiền ḥa, trầm mặc, yên ắng của một thời, và phổ cổ của người con xa xứ với, đâu đó dă thấp thoáng trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

“Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Để rồi “Một mảnh t́nh riêng ta với ta”! trang trải cho nhau. Và, ở tuổi học (nếu có bóng hồng) với lời nhắn nhủ như trong ca khúc Hoài Cảm của Cung Tiến:

“Ḷng cuồng điên v́ nhớ

Ôi đâu người, đâu ân t́nh cũ?

Chờ hoài nhau trong mơ

Nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa?

... Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?”

Mượn câu nói của nhà văn, nhà thơ, dịch giả Jorge Luis Borges thay cho lời kết: “Time, which despoils castles, enriches verses” (Thời gian hủy hoại các lâu đài, làm giàu những vẫn thơ).

Vương Trùng Dương

(2016 – viết thêm 2021 cho tuyển tập)