florida80
06-03-2021, 20:12
Chủ đề của bài viết này là những hồi ức học tṛ ngày xưa của một người bước vào tuổi 70. Thuở học tṛ này rất xa và rất khác với thời đại @ ngày nay, khi mà các tiện nghi vật chất phong phú hơn, phương tiện giải trí đa dạng hơn và quan niệm về giáo dục cũng khác hơn.
Những nét khác nhau là hậu quả của hoàn cảnh xă hội và chính trị, cụ thể hơn là chính sách giáo dục và chế độ chính trị qua nhiều thời kỳ, từ thời Pháp thuộc đến giai đoạn 30 năm chiến tranh tương tàn.
Thuở học tṛ của chúng tôi chỉ có một mục đích duy nhất là… học, nhưng đôi khi cũng pha lẫn những chuyện t́nh cảm theo kiểu mà người Mỹ gọi là “t́nh chó con” (puppy love). Ngày nay, ngoài việc học c̣n có những tác động, xấu cũng như tốt, từ Internet, phim ảnh, báo chí cho đến những ảnh hưởng của người lớn như các bậc phụ huynh trong gia đ́nh và sự tác động của xă hội bên ngoài.
Học tṛ ngày xưa là mảng đề tài được khai thác rất “kỹ” qua văn chương, âm nhạc, hội họa. Vào thập niên 70, bản nhạc “Ngày Xưa Hoàng Thị” [1] của Phạm Duy, phổ thơ Phạm Thiên Thư [2] trở thành nổi tiếng với một mối “t́nh học tṛ”. Bài hát dẫn người thưởng ngoạn đến chuyện một cô nữ sinh tên Hoàng Thị Ngọ lúc tan trường, ôm nghiêng cặp, đi trong một
cơn mưa phùn và phía sau cô… lẽo đẽo một “cây si” di động:
“Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay
Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ
Chim non lề đường, nằm im dấu mỏ
Anh theo Ngọ về gót giầy lặng lẽ đường quê...”
Đó chưa phải là t́nh yêu theo đúng nghĩa. Chỉ là… “thích trộm, nhớ thầm” của một “cây si”. Và chỉ cần lẽo đẽo theo một tà áo dài trắng cũng đủ thỏa ḷng, dù bước chân có “nặng nề”, dù trong ḷng “nức nở” để hôm sau vào lớp sẽ c̣n “ngẩn ngơ”:
“Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Ḷng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh c̣n ngẩn ngơ, ngẩn ngơ…”
“Ngày Xưa Hoàng Thị” là một kết hợp tuyệt vời giữa thơ Phạm Thiên Thư và nhạc Phạm Duy nhưng lại có một đoạn kết buồn cho… “mối t́nh câm”. Ở đoạn kết đưa ra hai h́nh ảnh của “ngày xưa” và “ngày nay” với câu kết “Ai mang bụi đỏ đi rồi…” khiến tôi nghĩ ngay đến Ban Mê Thuột, thị trấn đă từng gắn bó từ tuổi học tṛ. Chả là BMT vẫn nổi tiếng là vùng đất đỏ bazan, nắng th́ BMT (Bụi Mù Trời) c̣n mưa th́… bùn đỏ ngập bước chân:
“Xưa theo Ngọ về
Mái tóc Ngọ dài
Hôm nay đường này
Cây cao hàng gầy
Đi quanh t́m hoài
Ai mang bụi đỏ đi rồi…”
Trong một cuộc phỏng vấn của Đỗ Văn với Phạm Duy, nhạc sĩ cho biết trong số những bài hát cho tuổi trẻ, ông thích nhất là bài “Tuổi Ngọc”…” bài hát này ông viết cho con gái mới lớn Thái Hiền khi bước chân vào trung học. “Tuổi Ngọc” viết theo nhịp điệu nhí nhảnh với những câu được lập đi lập lại “Xin cho em…”. Những thứ cô xin là một chiếc áo dài, một mớ tóc dài và một chiếc xe đạp [3].
Đó là tất cả hành trang của một cô gái khi bước vào trung học. Chiếc áo dài “thơm dáng tuổi thơ”, mớ tóc nồng “êm như nhung” và, cuối cùng:
https://i.imgur.com/ar21FLx.jpg
“Xin cho em c̣n một xe đạp
Xe xinh xinh, để em đi học
Từng ṿng, từng ṿng xe
Là ṿng đời nhỏ bé
Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe”
Chắc nhà gần trường nên những học tṛ như cô Ngọ của Phạm Thiên Thư mới cuốc bộ để “cây si” có dịp lẽo đẽo theo sau. Nếu nhà ở xa th́ chắc phải đến trường bằng xe đạp. H́nh ảnh nữ sinh trên chiếc xe đạp sẽ khó có thể nào quên trong kỷ niệm, nhất là đối với những người nay đă xa xứ, không c̣n cơ hội nh́n thấy cảnh này.
Hồi xưa nữ sinh c̣n đội nón lá đến trường, ít có những kiểu mũ “mô đen” như ngày nay. Mỗi lúc tan học là cả một đàn bướm trắng bay ra rồi tỏa đi khắp các con đường. Nhà gần th́ ôm cặp đi bộ để các anh như Phạm Thiên Thư đưa vào thơ. Nhà xa th́ đạp xe theo từng nhóm như trong bức h́nh dưới đây trước Ṭa Đô Chánh.
Gia đ́nh khá giả th́ có thể tậu một chiếc Velo Solex chạy bằng xăng, có cần khởi động máy ở phía trước và khi hết xăng có thể đạp như một chiếc xe đạp. Nhà thơ Nguyên Sa trong bài thơ "Tám phố Sài G̣n " [4] có một đoạn viết về chiếc Solex và cô học tṛ như sau:
“Sài G̣n phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung”
Ngày xưa, đă có nhiều nhà văn, nhà thơ không tiếc lời ca tụng h́nh ảnh nữ sinh trên chiếc Solex hoặc xe đạp. Ngày nay, họa hoằn lắm mới gặp những lời có cánh về những chiếc xe “tay ga” phóng vù vù trên đường… Ôi, thời thơ mộng của tuổi học tṛ nay c̣n đâu!
Thuở học tṛ của tôi cũng có một chuyện t́nh thuộc loại “puppy love” như trong bài thơ của Phạm Thiên Thư. Tôi không có ư “thấy người sang bắt quàng làm họ” nhưng quả thật cả hai đều có nhiều điểm rất giống nhau.
Thứ nhất, tên “người trong mộng” của nhà thơ Phạm Thiên Thư là Hoàng Thị Ngọ, một cái tên không được đẹp cho lắm, c̣n người tôi “mê” lại có một cái tên “không thể xấu hơn”: Phan Thị Lụng. Cả hai cô Ngọ và cô Lụng tuy có xấu tên nhưng ngược lại, hai cô lại là những nữ sinh rất xinh.
Thứ nh́, Phạm Thiên Thư tả cô Ngọ “vai nhỏ tóc dài” c̣n cô Lụng “của tôi” th́ tóc cũng dài nhưng lại cột theo kiểu “đuôi gà” mà người Pháp gọi là “queue de cheval”, tức… “đuôi ngựa”. Ở đây có thêm một sự trùng hợp, “ngựa” c̣n được gọi bằng cái tên “ngọ”!
Trong thơ Phạm Thiên Thư có cảnh nên thơ giữa hai học tṛ “trao vội chùm hoa, ép vào cuốn vở” c̣n tôi th́ chơi trội hơn, viết luôn một cánh thiệp hồng báo hỷ bằng tiếng Pháp. Tôi không giỏi Pháp văn đến độ viết được thiệp hồng mà chỉ copy từ cuốn “Cours de Langue et de Civilisation Française” của Mauger đang học.
“Thiệp báo hỉ” mang tên Nguyễn Ngọc Chính và Phan Thị Lụng được để trên yên xe đạp của Lụng trong giờ ra chơi v́ không đủ can đảm đưa tận tay nàng. Cho dù có đủ can đảm nhưng chắc cũng không dám đưa v́ cái lối “tỏ t́nh” quá đường đột này.
Chắc chắn nàng đă đọc, không những thế, ngoài hai đứa c̣n có người thứ ba cũng đă đọc, đó là thầy tổng giám thị. Ông “tế nhị” gặp riêng tôi và cảnh cáo cần phải chấm dứt tṛ chơi “nguy hiểm” này, nếu tái phạm tôi sẽ bị “cấm túc” và thông báo về gia đ́nh.
Thế là bao mộng đẹp bỗng tan thành mây khói, mái tóc “đuôi ngựa” mà trước đây tôi chết mê chết mệt bỗng nhiên biến mất khỏi tâm hồn tôi, c̣n tụi bạn trong lớp đă sửa một câu ca dao quen thuộc thành:
“Muốn người ta mà người ta không muốn,
Xách… ‘thiệp hồng’ chạy xuống chạy lên!”
Thuở học tṛ ngày xưa của tôi là thế đấy. Học cũng nhiều và “nghịch tinh nghịch ngầm” cũng không ít. Chẳng thế mà người ta thường nói: “Nhất quỷ nh́ ma thứ ba học tṛ”. Đă mấy chục năm nay tôi chưa một lần gặp lại Phan Thị Lụng kể từ hồi học Đệ Ngũ.
Giờ này chắc nàng đă trở thành bà nội, bà ngoại… c̣n tôi th́ đă là một ông già móm mén bên con đàn cháu đống. Ước ǵ cô học tṛ năm xưa đọc được những ḍng chữ này để cùng cười cái thuở học tṛ rắn mắt ngày nào tại xứ Buồn Muôn Thuở…
Đặc điểm của nền giáo dục VNCH là có sự tách biệt giữa trường nam và trường nữ tại các thành phố lớn, một phần có lẽ là để tránh những “phiền phức” xảy ra trong tuổi học tṛ mới lớn. Những địa phương nhỏ như BMT th́ học tṛ học chung, và đó cũng là lư do có những chuyện “mới nứt mắt” mà đă biết… tán tỉnh bạn gái cùng lớp như trường hợp của tôi!
Ngôi trường trung học đầu tiên tại miền Nam là Collège Chasseloup-Laubat, thành lập năm 1874 sau này đổi thành trường Lê Quư Đôn, tiếp đến là Collège de My Tho (1879), sau đổi tên là Nguyễn Đ́nh Chiểu. Ở Huế có trường Quốc Học dành cho nam sinh được thành lập từ năm 1896 và trường Đồng Khánh được dành cho nữ, thành lập từ năm 1917.
Thoạt đầu trường Đồng Khánh chỉ có cấp tiểu học với với đồng phục màu tím nên c̣n được gọi là “Trường Áo Tím”. Dưới thời Pháp thuộc đồng phục đổi sang màu xanh nước biển và bắt đầu từ Đệ nhất Cộng ḥa có đồng phục màu trắng.
Nổi bật nhất tại Sài G̣n là hai trường Gia Long và Trưng Vương, những địa chỉ được các “cây si” thường xuyên lui tới. Gia Long c̣n được gọi là trường “Nữ sinh Áo Tím” ngày nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai, được thành lập từ năm 1915 và thuộc loại “lăo làng” trong hệ thống giáo dục của Ḥn ngọc Viễn đông.
Xét về tuổi tác th́ trường Trưng Vương là em v́ phải từ Hà Nội “di cư” vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève. Năm học đầu tiên Trưng Vương c̣n phải học nhờ Gia Long vào buổi chiều. Măi đến năm 1957, trường Trưng Vương mới chính thức xây dựng xong trường ốc gần Sở thú cùng với Vơ Trường Toản.
Gia Long và Trưng Vương tượng trưng hai chị em xuất xứ từ hai miền Nam – Bắc trong suốt thời kỳ VNCH. Sau năm 1975, hai trường mở cửa tiếp nhận cả nam lẫn nữ sinh. Và có lẽ những chuyện như cô Ngọ, cô Lụng lại tiếp diễn nhưng chắc ở mức độ “hiện đại” hơn thuở chúng tôi c̣n đi học.
Nguyễn Ngọc Chính
Chú thích:
Nhiều người thắc mắc tại sao Nguyên Sa lại đặt tên bài thơ là "Tám phố Sài G̣n" ?
Đơn giản chỉ v́ bài thơ này gồm 8 đoản khúc :
"Sài G̣n đi rất chậm buổi chiều
cánh tay tà áo sát ṿng eo
có nghe đôi mắt ṿng quanh áo
năm ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài G̣n phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung
Sài G̣n ngồi thư viện rất nghiêm
Tờ hoa trang sách cũng nằm im
Đầu thư và cuối cùng trang giấy
Những chữ y dài trông rất ngoan
Sài G̣n tối đi học một ḿnh
Cột đèn theo gót bóng lung linh
Mặt trăng theo ánh đèn trăng sáng
Đôi mắt trông vời theo ánh trăng
Sài G̣n cười đôi môi rất tṛn
Ṿng cung mầu đỏ nét thu cong
Cầu vồng bắt giữa mưa và nắng
Hay đă đưa dần sang nhớ mong
Sài G̣n gối đầu trên cánh tay
Những năm mười sáu mắt nh́n mây
Chiếc tay tṛn ánh trăng mười bốn
Tiếng nhạc đang về dang cánh bay
Sài G̣n nắng hay Sài G̣n mưa
Thứ bẩy Sài G̣n đi Bonard
Guốc cao gót nhỏ mây vào gót
Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ
Sài G̣n mai gọi nhau bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân
Lưng trời không có bầy chim én
Thành phố đi về cũng đă xuân".
Post by Phạm Lê Huy vào lúc 9:14:00 AM
Những nét khác nhau là hậu quả của hoàn cảnh xă hội và chính trị, cụ thể hơn là chính sách giáo dục và chế độ chính trị qua nhiều thời kỳ, từ thời Pháp thuộc đến giai đoạn 30 năm chiến tranh tương tàn.
Thuở học tṛ của chúng tôi chỉ có một mục đích duy nhất là… học, nhưng đôi khi cũng pha lẫn những chuyện t́nh cảm theo kiểu mà người Mỹ gọi là “t́nh chó con” (puppy love). Ngày nay, ngoài việc học c̣n có những tác động, xấu cũng như tốt, từ Internet, phim ảnh, báo chí cho đến những ảnh hưởng của người lớn như các bậc phụ huynh trong gia đ́nh và sự tác động của xă hội bên ngoài.
Học tṛ ngày xưa là mảng đề tài được khai thác rất “kỹ” qua văn chương, âm nhạc, hội họa. Vào thập niên 70, bản nhạc “Ngày Xưa Hoàng Thị” [1] của Phạm Duy, phổ thơ Phạm Thiên Thư [2] trở thành nổi tiếng với một mối “t́nh học tṛ”. Bài hát dẫn người thưởng ngoạn đến chuyện một cô nữ sinh tên Hoàng Thị Ngọ lúc tan trường, ôm nghiêng cặp, đi trong một
cơn mưa phùn và phía sau cô… lẽo đẽo một “cây si” di động:
“Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay
Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ
Chim non lề đường, nằm im dấu mỏ
Anh theo Ngọ về gót giầy lặng lẽ đường quê...”
Đó chưa phải là t́nh yêu theo đúng nghĩa. Chỉ là… “thích trộm, nhớ thầm” của một “cây si”. Và chỉ cần lẽo đẽo theo một tà áo dài trắng cũng đủ thỏa ḷng, dù bước chân có “nặng nề”, dù trong ḷng “nức nở” để hôm sau vào lớp sẽ c̣n “ngẩn ngơ”:
“Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Ḷng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh c̣n ngẩn ngơ, ngẩn ngơ…”
“Ngày Xưa Hoàng Thị” là một kết hợp tuyệt vời giữa thơ Phạm Thiên Thư và nhạc Phạm Duy nhưng lại có một đoạn kết buồn cho… “mối t́nh câm”. Ở đoạn kết đưa ra hai h́nh ảnh của “ngày xưa” và “ngày nay” với câu kết “Ai mang bụi đỏ đi rồi…” khiến tôi nghĩ ngay đến Ban Mê Thuột, thị trấn đă từng gắn bó từ tuổi học tṛ. Chả là BMT vẫn nổi tiếng là vùng đất đỏ bazan, nắng th́ BMT (Bụi Mù Trời) c̣n mưa th́… bùn đỏ ngập bước chân:
“Xưa theo Ngọ về
Mái tóc Ngọ dài
Hôm nay đường này
Cây cao hàng gầy
Đi quanh t́m hoài
Ai mang bụi đỏ đi rồi…”
Trong một cuộc phỏng vấn của Đỗ Văn với Phạm Duy, nhạc sĩ cho biết trong số những bài hát cho tuổi trẻ, ông thích nhất là bài “Tuổi Ngọc”…” bài hát này ông viết cho con gái mới lớn Thái Hiền khi bước chân vào trung học. “Tuổi Ngọc” viết theo nhịp điệu nhí nhảnh với những câu được lập đi lập lại “Xin cho em…”. Những thứ cô xin là một chiếc áo dài, một mớ tóc dài và một chiếc xe đạp [3].
Đó là tất cả hành trang của một cô gái khi bước vào trung học. Chiếc áo dài “thơm dáng tuổi thơ”, mớ tóc nồng “êm như nhung” và, cuối cùng:
https://i.imgur.com/ar21FLx.jpg
“Xin cho em c̣n một xe đạp
Xe xinh xinh, để em đi học
Từng ṿng, từng ṿng xe
Là ṿng đời nhỏ bé
Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe”
Chắc nhà gần trường nên những học tṛ như cô Ngọ của Phạm Thiên Thư mới cuốc bộ để “cây si” có dịp lẽo đẽo theo sau. Nếu nhà ở xa th́ chắc phải đến trường bằng xe đạp. H́nh ảnh nữ sinh trên chiếc xe đạp sẽ khó có thể nào quên trong kỷ niệm, nhất là đối với những người nay đă xa xứ, không c̣n cơ hội nh́n thấy cảnh này.
Hồi xưa nữ sinh c̣n đội nón lá đến trường, ít có những kiểu mũ “mô đen” như ngày nay. Mỗi lúc tan học là cả một đàn bướm trắng bay ra rồi tỏa đi khắp các con đường. Nhà gần th́ ôm cặp đi bộ để các anh như Phạm Thiên Thư đưa vào thơ. Nhà xa th́ đạp xe theo từng nhóm như trong bức h́nh dưới đây trước Ṭa Đô Chánh.
Gia đ́nh khá giả th́ có thể tậu một chiếc Velo Solex chạy bằng xăng, có cần khởi động máy ở phía trước và khi hết xăng có thể đạp như một chiếc xe đạp. Nhà thơ Nguyên Sa trong bài thơ "Tám phố Sài G̣n " [4] có một đoạn viết về chiếc Solex và cô học tṛ như sau:
“Sài G̣n phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung”
Ngày xưa, đă có nhiều nhà văn, nhà thơ không tiếc lời ca tụng h́nh ảnh nữ sinh trên chiếc Solex hoặc xe đạp. Ngày nay, họa hoằn lắm mới gặp những lời có cánh về những chiếc xe “tay ga” phóng vù vù trên đường… Ôi, thời thơ mộng của tuổi học tṛ nay c̣n đâu!
Thuở học tṛ của tôi cũng có một chuyện t́nh thuộc loại “puppy love” như trong bài thơ của Phạm Thiên Thư. Tôi không có ư “thấy người sang bắt quàng làm họ” nhưng quả thật cả hai đều có nhiều điểm rất giống nhau.
Thứ nhất, tên “người trong mộng” của nhà thơ Phạm Thiên Thư là Hoàng Thị Ngọ, một cái tên không được đẹp cho lắm, c̣n người tôi “mê” lại có một cái tên “không thể xấu hơn”: Phan Thị Lụng. Cả hai cô Ngọ và cô Lụng tuy có xấu tên nhưng ngược lại, hai cô lại là những nữ sinh rất xinh.
Thứ nh́, Phạm Thiên Thư tả cô Ngọ “vai nhỏ tóc dài” c̣n cô Lụng “của tôi” th́ tóc cũng dài nhưng lại cột theo kiểu “đuôi gà” mà người Pháp gọi là “queue de cheval”, tức… “đuôi ngựa”. Ở đây có thêm một sự trùng hợp, “ngựa” c̣n được gọi bằng cái tên “ngọ”!
Trong thơ Phạm Thiên Thư có cảnh nên thơ giữa hai học tṛ “trao vội chùm hoa, ép vào cuốn vở” c̣n tôi th́ chơi trội hơn, viết luôn một cánh thiệp hồng báo hỷ bằng tiếng Pháp. Tôi không giỏi Pháp văn đến độ viết được thiệp hồng mà chỉ copy từ cuốn “Cours de Langue et de Civilisation Française” của Mauger đang học.
“Thiệp báo hỉ” mang tên Nguyễn Ngọc Chính và Phan Thị Lụng được để trên yên xe đạp của Lụng trong giờ ra chơi v́ không đủ can đảm đưa tận tay nàng. Cho dù có đủ can đảm nhưng chắc cũng không dám đưa v́ cái lối “tỏ t́nh” quá đường đột này.
Chắc chắn nàng đă đọc, không những thế, ngoài hai đứa c̣n có người thứ ba cũng đă đọc, đó là thầy tổng giám thị. Ông “tế nhị” gặp riêng tôi và cảnh cáo cần phải chấm dứt tṛ chơi “nguy hiểm” này, nếu tái phạm tôi sẽ bị “cấm túc” và thông báo về gia đ́nh.
Thế là bao mộng đẹp bỗng tan thành mây khói, mái tóc “đuôi ngựa” mà trước đây tôi chết mê chết mệt bỗng nhiên biến mất khỏi tâm hồn tôi, c̣n tụi bạn trong lớp đă sửa một câu ca dao quen thuộc thành:
“Muốn người ta mà người ta không muốn,
Xách… ‘thiệp hồng’ chạy xuống chạy lên!”
Thuở học tṛ ngày xưa của tôi là thế đấy. Học cũng nhiều và “nghịch tinh nghịch ngầm” cũng không ít. Chẳng thế mà người ta thường nói: “Nhất quỷ nh́ ma thứ ba học tṛ”. Đă mấy chục năm nay tôi chưa một lần gặp lại Phan Thị Lụng kể từ hồi học Đệ Ngũ.
Giờ này chắc nàng đă trở thành bà nội, bà ngoại… c̣n tôi th́ đă là một ông già móm mén bên con đàn cháu đống. Ước ǵ cô học tṛ năm xưa đọc được những ḍng chữ này để cùng cười cái thuở học tṛ rắn mắt ngày nào tại xứ Buồn Muôn Thuở…
Đặc điểm của nền giáo dục VNCH là có sự tách biệt giữa trường nam và trường nữ tại các thành phố lớn, một phần có lẽ là để tránh những “phiền phức” xảy ra trong tuổi học tṛ mới lớn. Những địa phương nhỏ như BMT th́ học tṛ học chung, và đó cũng là lư do có những chuyện “mới nứt mắt” mà đă biết… tán tỉnh bạn gái cùng lớp như trường hợp của tôi!
Ngôi trường trung học đầu tiên tại miền Nam là Collège Chasseloup-Laubat, thành lập năm 1874 sau này đổi thành trường Lê Quư Đôn, tiếp đến là Collège de My Tho (1879), sau đổi tên là Nguyễn Đ́nh Chiểu. Ở Huế có trường Quốc Học dành cho nam sinh được thành lập từ năm 1896 và trường Đồng Khánh được dành cho nữ, thành lập từ năm 1917.
Thoạt đầu trường Đồng Khánh chỉ có cấp tiểu học với với đồng phục màu tím nên c̣n được gọi là “Trường Áo Tím”. Dưới thời Pháp thuộc đồng phục đổi sang màu xanh nước biển và bắt đầu từ Đệ nhất Cộng ḥa có đồng phục màu trắng.
Nổi bật nhất tại Sài G̣n là hai trường Gia Long và Trưng Vương, những địa chỉ được các “cây si” thường xuyên lui tới. Gia Long c̣n được gọi là trường “Nữ sinh Áo Tím” ngày nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai, được thành lập từ năm 1915 và thuộc loại “lăo làng” trong hệ thống giáo dục của Ḥn ngọc Viễn đông.
Xét về tuổi tác th́ trường Trưng Vương là em v́ phải từ Hà Nội “di cư” vào Nam năm 1954 sau Hiệp định Genève. Năm học đầu tiên Trưng Vương c̣n phải học nhờ Gia Long vào buổi chiều. Măi đến năm 1957, trường Trưng Vương mới chính thức xây dựng xong trường ốc gần Sở thú cùng với Vơ Trường Toản.
Gia Long và Trưng Vương tượng trưng hai chị em xuất xứ từ hai miền Nam – Bắc trong suốt thời kỳ VNCH. Sau năm 1975, hai trường mở cửa tiếp nhận cả nam lẫn nữ sinh. Và có lẽ những chuyện như cô Ngọ, cô Lụng lại tiếp diễn nhưng chắc ở mức độ “hiện đại” hơn thuở chúng tôi c̣n đi học.
Nguyễn Ngọc Chính
Chú thích:
Nhiều người thắc mắc tại sao Nguyên Sa lại đặt tên bài thơ là "Tám phố Sài G̣n" ?
Đơn giản chỉ v́ bài thơ này gồm 8 đoản khúc :
"Sài G̣n đi rất chậm buổi chiều
cánh tay tà áo sát ṿng eo
có nghe đôi mắt ṿng quanh áo
năm ngón thơ buồn đứng ngó theo
Sài G̣n phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng yến ngủ trong gants
Có nghe hơi thở cài vương miện
Lên tóc đen mềm nhung rất nhung
Sài G̣n ngồi thư viện rất nghiêm
Tờ hoa trang sách cũng nằm im
Đầu thư và cuối cùng trang giấy
Những chữ y dài trông rất ngoan
Sài G̣n tối đi học một ḿnh
Cột đèn theo gót bóng lung linh
Mặt trăng theo ánh đèn trăng sáng
Đôi mắt trông vời theo ánh trăng
Sài G̣n cười đôi môi rất tṛn
Ṿng cung mầu đỏ nét thu cong
Cầu vồng bắt giữa mưa và nắng
Hay đă đưa dần sang nhớ mong
Sài G̣n gối đầu trên cánh tay
Những năm mười sáu mắt nh́n mây
Chiếc tay tṛn ánh trăng mười bốn
Tiếng nhạc đang về dang cánh bay
Sài G̣n nắng hay Sài G̣n mưa
Thứ bẩy Sài G̣n đi Bonard
Guốc cao gót nhỏ mây vào gót
Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ
Sài G̣n mai gọi nhau bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân
Lưng trời không có bầy chim én
Thành phố đi về cũng đă xuân".
Post by Phạm Lê Huy vào lúc 9:14:00 AM