florida80
09-01-2021, 23:01
Trong kho tàng văn học Việt Nam có những thể loại như dân ca, cách ngôn, ngạn ngữ, ca dao, tục ngữ, đặc ngữ, thành ngữ v.v… là những câu, những ư hoặc những lời nói ngắn gọn được lưu truyền trong dân gian rất lâu ngày quen miệng để trở thành những mảng văn học.
Thành ngữ là tập hợp những từ cố định quen dùng, có nghĩa, gọi tên sự vật, hiện tượng, tính chất, hành động v.v… mà thường không thể suy ra từ nghĩa của từng từ riêng biệt. Trong mọi thứ tiếng của các nước trên thế giới cũng đều có thành ngữ mà ta thường không thể cắt nghĩa riêng từng từ được. Ví dụ, trong tiếng Anh có thành ngữ “buckle down” nghĩa là “dùng nhiều sức lực hơn” chứ không phải là “hăy mở khóa ra” trái nghĩa với “buckle up’ là “hăy thắt chặt khóa lại”. Trong tiếng Việt có thành ngữ “chó cậy gần nhà” nghĩa là “ỷ thế, nhờ cậy vào thế thuận lợi mà tỏ ra hung hăng, dọa nạt, bắt chẹt hay làm t́nh, làm tội người khác” chứ không có ư gọi ai đó là “chó”. Hoặc thành ngữ “gái đĩ già mồm” nghĩa là “đă sai rành rành mà c̣n to tiếng căi vă, chửi rủa ầm ĩ để lấp liếm” chứ không có ư mạt sát “mày là con đĩ” v.v…
V́ vậy, khi đọc tiếng Việt cũng như khi dạy con cháu chúng ta học tiếng Việt th́ cần phải tra cứu để hiểu rơ nghĩa của các từ ngữ Hán-Việt, nhất là các thành ngữ, để tránh những hiểu lầm đáng tiếc. Là người Việt, bất cứ định cư ở nơi nào, ta cũng cần phải nói và hiểu tiếng Việt một cách chính xác để lưu truyền cho con cháu chúng ta ǵn giữ tinh hoa của nền văn hóa dân tộc.
Sau đây, xin nêu định nghĩa của một số ít thành ngữ tiếng Việt (khác nhau từng địa phương):
Ác báo ác lai: Làm điều ác cho người th́ điều ác ấy sẽ đến với ḿnh.
Bă chà bợt chợt: Có lời nói, cử chỉ lẳng lơ.
Cá mè một lứa: Đồng loạt, cùng một giuộc với nhau cả, coi ngang hàng nhau, không phân biệt đối xử cho hợp lẽ.
Cả vú lấp miệng em: Dùng quyền lực, thế mạnh của ḿnh để chèn ép, lấn át người khác.
Cha chung không ai khóc: Những việc chung liên quan đến nhiều người mà không có người nào chịu trách nhiệm chính nên thường bị bỏ mặc, bê trễ, không ai lo liệu.
Chó cùng dứt giậu: Liều lĩnh, làm xằng bậy một cách thiếu cân nhắc, tính toán do bị đẩy vào bước đường cùng.
Chó nhảy bàn độc: Bất tài, dốt nát, thiếu năng lực, kém cỏi nhưng gặp cơ hội nên chiếm được địa vị cao sang rồi cứ bám măi,
Chưa đỗ ông nghè đă đe hàng tổng: Chưa chi đă vội hợm hĩnh, lên mặt với người khác.
Chưa học ḅ đă lo học chạy: Hấp tấp làm những việc quá khả năng nên khó bề thực hiện được.
Đội váy nát mẹ: Hợm hĩnh, tinh ranh, ra vẻ ta đây để ḷe bịp, dọa dẫm người từng trải và hiểu biết hơn ḿnh.
Gieo gió gặt băo: Gây ra điều ác th́ phải chuốc lấy hậu quả to lớn của hành động độc ác ấy.
Khẩu tâm bất nhất: Nói lời tốt đẹp nhưng nghĩ và làm những việc xấu xa, vô đạo đức.
Miệng quan trôn trẻ: Tùy tiện, đúng sai bất chấp, thường hay tráo trở không đáng tin cậy trong lời nói của bọn có quyền thế.
Mồm loa mép giải: Lắm lời, đanh đá, nói lấy được bất chấp đúng sai.
Nát giỏ c̣n tre: Dù mất mát nhưng vẫn c̣n vốn liếng, c̣n khắc phục được.
Nát đá phai vàng: Không giữ được ḷng chung thủy và phản lại t́nh cảm đă có.
Ngậm máu phun người: Đặt điều gièm pha, vu khống một cách độc ác, đê tiện nhằm làm hại, gieo tai vạ cho người khác.
Ngư long biến hóa: Đỗ đạt, thành đạt trong học hành, thi cử.
Ngư thủy duyên hài: Hợp nhau, dễ gắn bó với nhau, dễ nên duyên vợ chồng.
Ngưu tầm ngưu, mă tầm mă: Những kẻ xấu t́m đến với nhau để thực hiện những mưu đồ xấu xa, đồi bại của chúng.
Quân sư quạt mo: Người bày mưu kế, mách nước tồi, kém.
Quấy hôi bôi nhọ: Làm những việc không hay, không tốt gây tiếng xấu.
Râu ông nọ cắm cằm bà kia: Chắp vá, lẫn lộn một cách tùy tiện nên trở thành khập khiễng không ăn khớp, không phù hợp với nhau.
Sông sâu sóng cả: Khó khăn, gian truân, nguy hiểm phải trải qua.
Sống chết mặc bay: Thái độ ích kỷ, thờ ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc, không để ư, không quan tâm đến ai, chỉ lo cho riêng ḿnh.
Sờ chẳng ra, rà chẳng thấy: Túng thiếu quá đến mức chẳng có tí ǵ hoặc chẳng biết lần t́m ở đâu để mà sống.
Sủa càn cắn bậy: Nói năng xằng bậy, linh tinh, bạ đâu nói đó, thiếu đắn đo suy nghĩ, thiếu đứng đắn.
Sứa vượt qua đăng: Làm một việc vượt quá khả năng của ḿnh.
Sưng mày sưng mặt: Có vẻ bực bội, tức giận, tỏ ra bất đắc dĩ phải chấp nhận làm một việc ǵ.
Tép lặn tép lội: Lắm mồm, hay nói điêu ngoa.
Tiền có đồng, cá có con: Rơ ràng, minh bạch, không mập mờ được.
Thần hồn nát thần tính: Hoảng sợ, tự huyễn hoặc, gây cho ḿnh nỗi sợ hăi do non gan, yếu bóng vía, không tự chủ được ḿnh.
Thế thần bịch thóc: Nhờ có của cải mà tỏ rơ uy lực, quyền thế.
Tránh hùm mắc hổ: Rủi ro, không thoát khỏi tai họa.
Trâu lấm vẩy càn: Người có khuyết điểm, có tội lỗi mà cứ đổ vấy cho người khác.
Trên đe dưới búa: Ở vào t́nh thế bị ḱm kẹp, thúc ép từ nhiều phía, khó bề đối xử và giải quyết cho hợp lư.
Trên răng dưới dái: Trắng tay, nghèo khổ, không c̣n chút của cải, tài sản hoặc chức vụ nào.
Trơ như mặt thớt: Trơ ĺ, không biết hổ thẹn khi làm điều sai trái dù bị chống đối.
Trơ tráo như gáo múc dầu: Trơ ĺ, ngang ngược, không biết hổ thẹn.
Vắng như chùa bà Đanh: Trở nên vắng lặng, ít người đến, gây nên cảnh u buồn (ở nơi mà trước kia có người hay lui tới).
Vào trong mắc đó, ra ngoài mắc đăng: Ở vào thế bị kẹt, bí bách, không có lối thoát.
Vắt nước không lọt tay: Keo kiệt, giữ từng chút một, không hề mất cho ai cái ǵ.
Xôi hỏng bỏng không: Mất tất cả, mất trắng, không được cái ǵ.
Trên đây chỉ đơn cử một ít thành ngữ tiếng Việt trên muôn ngàn lời nói trong văn học dân gian. Qua các định nghĩa, ta thấy các thành ngữ cũng thật khó hiểu nếu không tra cứu kỹ mà chỉ nh́n vào nghĩa đen của từng từ th́ sẽ có sự hiểu lầm rất tai hại. Ta có thể dùng một thành ngữ làm đề tài cho một bài học để dạy con cháu chúng ta không những về cách dùng tiếng Việt chính xác mà c̣n về đạo lư làm người nữa.
Thành ngữ là tập hợp những từ cố định quen dùng, có nghĩa, gọi tên sự vật, hiện tượng, tính chất, hành động v.v… mà thường không thể suy ra từ nghĩa của từng từ riêng biệt. Trong mọi thứ tiếng của các nước trên thế giới cũng đều có thành ngữ mà ta thường không thể cắt nghĩa riêng từng từ được. Ví dụ, trong tiếng Anh có thành ngữ “buckle down” nghĩa là “dùng nhiều sức lực hơn” chứ không phải là “hăy mở khóa ra” trái nghĩa với “buckle up’ là “hăy thắt chặt khóa lại”. Trong tiếng Việt có thành ngữ “chó cậy gần nhà” nghĩa là “ỷ thế, nhờ cậy vào thế thuận lợi mà tỏ ra hung hăng, dọa nạt, bắt chẹt hay làm t́nh, làm tội người khác” chứ không có ư gọi ai đó là “chó”. Hoặc thành ngữ “gái đĩ già mồm” nghĩa là “đă sai rành rành mà c̣n to tiếng căi vă, chửi rủa ầm ĩ để lấp liếm” chứ không có ư mạt sát “mày là con đĩ” v.v…
V́ vậy, khi đọc tiếng Việt cũng như khi dạy con cháu chúng ta học tiếng Việt th́ cần phải tra cứu để hiểu rơ nghĩa của các từ ngữ Hán-Việt, nhất là các thành ngữ, để tránh những hiểu lầm đáng tiếc. Là người Việt, bất cứ định cư ở nơi nào, ta cũng cần phải nói và hiểu tiếng Việt một cách chính xác để lưu truyền cho con cháu chúng ta ǵn giữ tinh hoa của nền văn hóa dân tộc.
Sau đây, xin nêu định nghĩa của một số ít thành ngữ tiếng Việt (khác nhau từng địa phương):
Ác báo ác lai: Làm điều ác cho người th́ điều ác ấy sẽ đến với ḿnh.
Bă chà bợt chợt: Có lời nói, cử chỉ lẳng lơ.
Cá mè một lứa: Đồng loạt, cùng một giuộc với nhau cả, coi ngang hàng nhau, không phân biệt đối xử cho hợp lẽ.
Cả vú lấp miệng em: Dùng quyền lực, thế mạnh của ḿnh để chèn ép, lấn át người khác.
Cha chung không ai khóc: Những việc chung liên quan đến nhiều người mà không có người nào chịu trách nhiệm chính nên thường bị bỏ mặc, bê trễ, không ai lo liệu.
Chó cùng dứt giậu: Liều lĩnh, làm xằng bậy một cách thiếu cân nhắc, tính toán do bị đẩy vào bước đường cùng.
Chó nhảy bàn độc: Bất tài, dốt nát, thiếu năng lực, kém cỏi nhưng gặp cơ hội nên chiếm được địa vị cao sang rồi cứ bám măi,
Chưa đỗ ông nghè đă đe hàng tổng: Chưa chi đă vội hợm hĩnh, lên mặt với người khác.
Chưa học ḅ đă lo học chạy: Hấp tấp làm những việc quá khả năng nên khó bề thực hiện được.
Đội váy nát mẹ: Hợm hĩnh, tinh ranh, ra vẻ ta đây để ḷe bịp, dọa dẫm người từng trải và hiểu biết hơn ḿnh.
Gieo gió gặt băo: Gây ra điều ác th́ phải chuốc lấy hậu quả to lớn của hành động độc ác ấy.
Khẩu tâm bất nhất: Nói lời tốt đẹp nhưng nghĩ và làm những việc xấu xa, vô đạo đức.
Miệng quan trôn trẻ: Tùy tiện, đúng sai bất chấp, thường hay tráo trở không đáng tin cậy trong lời nói của bọn có quyền thế.
Mồm loa mép giải: Lắm lời, đanh đá, nói lấy được bất chấp đúng sai.
Nát giỏ c̣n tre: Dù mất mát nhưng vẫn c̣n vốn liếng, c̣n khắc phục được.
Nát đá phai vàng: Không giữ được ḷng chung thủy và phản lại t́nh cảm đă có.
Ngậm máu phun người: Đặt điều gièm pha, vu khống một cách độc ác, đê tiện nhằm làm hại, gieo tai vạ cho người khác.
Ngư long biến hóa: Đỗ đạt, thành đạt trong học hành, thi cử.
Ngư thủy duyên hài: Hợp nhau, dễ gắn bó với nhau, dễ nên duyên vợ chồng.
Ngưu tầm ngưu, mă tầm mă: Những kẻ xấu t́m đến với nhau để thực hiện những mưu đồ xấu xa, đồi bại của chúng.
Quân sư quạt mo: Người bày mưu kế, mách nước tồi, kém.
Quấy hôi bôi nhọ: Làm những việc không hay, không tốt gây tiếng xấu.
Râu ông nọ cắm cằm bà kia: Chắp vá, lẫn lộn một cách tùy tiện nên trở thành khập khiễng không ăn khớp, không phù hợp với nhau.
Sông sâu sóng cả: Khó khăn, gian truân, nguy hiểm phải trải qua.
Sống chết mặc bay: Thái độ ích kỷ, thờ ơ, vô trách nhiệm, bỏ mặc, không để ư, không quan tâm đến ai, chỉ lo cho riêng ḿnh.
Sờ chẳng ra, rà chẳng thấy: Túng thiếu quá đến mức chẳng có tí ǵ hoặc chẳng biết lần t́m ở đâu để mà sống.
Sủa càn cắn bậy: Nói năng xằng bậy, linh tinh, bạ đâu nói đó, thiếu đắn đo suy nghĩ, thiếu đứng đắn.
Sứa vượt qua đăng: Làm một việc vượt quá khả năng của ḿnh.
Sưng mày sưng mặt: Có vẻ bực bội, tức giận, tỏ ra bất đắc dĩ phải chấp nhận làm một việc ǵ.
Tép lặn tép lội: Lắm mồm, hay nói điêu ngoa.
Tiền có đồng, cá có con: Rơ ràng, minh bạch, không mập mờ được.
Thần hồn nát thần tính: Hoảng sợ, tự huyễn hoặc, gây cho ḿnh nỗi sợ hăi do non gan, yếu bóng vía, không tự chủ được ḿnh.
Thế thần bịch thóc: Nhờ có của cải mà tỏ rơ uy lực, quyền thế.
Tránh hùm mắc hổ: Rủi ro, không thoát khỏi tai họa.
Trâu lấm vẩy càn: Người có khuyết điểm, có tội lỗi mà cứ đổ vấy cho người khác.
Trên đe dưới búa: Ở vào t́nh thế bị ḱm kẹp, thúc ép từ nhiều phía, khó bề đối xử và giải quyết cho hợp lư.
Trên răng dưới dái: Trắng tay, nghèo khổ, không c̣n chút của cải, tài sản hoặc chức vụ nào.
Trơ như mặt thớt: Trơ ĺ, không biết hổ thẹn khi làm điều sai trái dù bị chống đối.
Trơ tráo như gáo múc dầu: Trơ ĺ, ngang ngược, không biết hổ thẹn.
Vắng như chùa bà Đanh: Trở nên vắng lặng, ít người đến, gây nên cảnh u buồn (ở nơi mà trước kia có người hay lui tới).
Vào trong mắc đó, ra ngoài mắc đăng: Ở vào thế bị kẹt, bí bách, không có lối thoát.
Vắt nước không lọt tay: Keo kiệt, giữ từng chút một, không hề mất cho ai cái ǵ.
Xôi hỏng bỏng không: Mất tất cả, mất trắng, không được cái ǵ.
Trên đây chỉ đơn cử một ít thành ngữ tiếng Việt trên muôn ngàn lời nói trong văn học dân gian. Qua các định nghĩa, ta thấy các thành ngữ cũng thật khó hiểu nếu không tra cứu kỹ mà chỉ nh́n vào nghĩa đen của từng từ th́ sẽ có sự hiểu lầm rất tai hại. Ta có thể dùng một thành ngữ làm đề tài cho một bài học để dạy con cháu chúng ta không những về cách dùng tiếng Việt chính xác mà c̣n về đạo lư làm người nữa.