Log in

View Full Version : Chút t́m hiểu thêm về thành ngữ “môn đương hộ đối”


florida80
10-10-2021, 16:53
Ngày nay, thành ngữ “môn*đương hộ*đối” thường*được dùng*để chỉ việc trong hôn nhân, hai gia*đ́nh thông gia có sự ngang bằng về nhà cửa, của cải, và địa vị xă hội. Nhưng kỳ thực trong lư niệm của cổ nhân, thành ngữ này không hoàn toàn có ư nghĩa như vậy.
Trong “Thuyết văn giải tự” ghi rằng: “môn” là cửa có hai cánh, “hộ” là cửa một cánh. “Môn”, “hộ” là nói chỗ đi ra đi vào của căn nhà chứ không phải nói về toàn bộ kiến trúc nhà cửa. “Môn đương” và “hộ đối” có liên hệ mật thiết với kiến trúc đại môn của người xưa. Thời đó, trước nhà quan thường có những chi tiết điêu khắc đặt ngay lối ra vào, dùng để trấn gia trạch theo phong thủy, trong đó có “môn đương” và “hộ đối”. Ngày nay, loại kiến trúc này đă không c̣n nhiều lắm.

“Môn*đương” nguyên là cách gọi của một*đôi*trống bằng đá được đặt ở trước cổng lớn. Bởi v́ tiếng trống vang dội và uy nghiêm như tiếng sấm sét nên được coi là có thể xua đuổi tà ma, ác khí.*Không phải nhà ai cũng được phép dùng “môn*đương”, phải quan lớn từ tam phẩm trở lên mới được dùng.

Nhà của quan văn dùng “môn*đương” h́nh tṛn, nhà của quan vơ dùng “môn*đương” h́nh vuông. Quan tam phẩm th́ có hai “môn*đương”, chánh tam phẩm được bốn, nhị phẩm có sáu, nhất phẩm có tám. Chỉ duy nhất trong*cung vua mới được bày chín “môn*đương”. Bởi vậy, chỉ cần đứng từ xa*đếm “môn*đương” là biết nhà của quan có chức vị ra sao, và căn cứ vào h́nh dạng của nó th́ cũng biết được đó là nhà quan văn hay quan vơ.

C̣n “hộ đối” chính là đôi*điêu khắc bằng gạch hoặc gỗ được đặt ở thanh đà phía trên khung cửa. Phổ biến thường là một*đôi h́nh trụ tṛn và ngắn,*đặt song song với mặt*đất và vuông góc với cửa, ngụ*ư khẩn cầu sự hưng vượng cho gia đ́nh.

Chính v́ vậy, “môn*đương hộ đối” có thể được hiểu là trong hôn nhân th́ hai gia đ́nh nên có địa vị và phúc lộc ngang nhau, hoặc nếu có chênh lệch th́ cũng không nên kém nhiều.

“Môn” và “hộ” cũng được sử dụng trong nhân thể học cổ đại. Theo đó, trên thân thể người, “môn” và “hộ” là các huyệt vị mà khí (hiểu là năng lượng) nhập xuất. Loại huyệt vị này phần lớn*đều khép mở, lên xuống, nhập xuất*có quy luật, có kiểm soát.

Các huyệt vị*được*đặt tên là “môn”*đều là những huyệt vị rất trọng yếu, đóng vai tṛ trong việc kết nối*âm dương.*Chẳng hạn ở đầu xương sườn tự do thứ 11 có một huyệt vị gọi là “chương môn”. Con người một khi tức giận, không vui th́ sẽ cảm thấy*đau*đớn*ở huyệt*“chương môn”.

Một ví dụ khác, trên phế kinh của thân thể người có hai huyệt vị quan trọng là “vân môn” và “khí hộ”. “Vân môn” là huyệt thứ hai của phế kinh, nằm ở vùng ngực trước, trong chỗ lơm của hố dưới đ̣n, phía trong mỏm quạ xương vai. Huyệt “vân môn” chủ quản thông hành kinh khí. Theo y học cổ đại, mát xa huyệt “vân môn” có thể giảm nhiệt trong ngực, giải trừ những phiền năo trong ḷng, giảm ho khan, thở hổn hển,*đau nhức vai và cánh tay… C̣n huyệt “khí hộ” được coi là nơi kiểm soát khí cơ. Mát xa huyệt “khí hộ” có thể trị*đau ngực, viêm khí quản, khó thở…

Bởi vậy “môn*đương hộ đối” ở ư nghĩa sâu hơn chính là sự hài ḥa, b́nh ổn, đối ứng không sai lệch trên phương diện tổng thể.

Người xưa coi trọng hôn nhân phải “môn*đương hộ*đối”, nam nữ xứng*đôi. Ở đây là suy xét về mọi mặt để khiến cho vợ chồng và gia đ́nh ḥa hợp chứ không chỉ ở hoàn cảnh của cải hay địa vị. Trong hôn nhân truyền thống th́ có hai phương diện quan trọng.

Một là bởi v́ thời cổ đại không có sự t́m hiểu giữa hai bên vợ chồng tương lai từ trước, nên cần dùng nhiều phương diện để xác định sự tương đồng về thế giới quan và giá trị quan của hai bên. Nếu vợ chồng có sự khác biệt lớn về giá trị quan th́ hôn nhân dễ dàng xảy ra mâu thuẫn, xung*đột.

Hai là hôn nhân thời xưa không chỉ quan tâm đến việc đôi lứa, mà c̣n là sự kết hợp của hai gia đ́nh, gia tộc. Nếu sự xuất hiện của một người lạ trong gia đ́nh có thể gây ra những điều bất ổn về mặt gia phong, gia giáo, th́ người xưa xem là điều đại kỵ.

Trên thực tế, dù là ở thời hiện đại hay cổ đại, nếu khác biệt quá nhiều th́ hai vợ chồng rất khó thông qua cuộc sống chung để ḥa hợp*sự chênh lệch về giá trị quan. Giá trị quan của một người*đồng thời lại có quan hệ mật thiết không thể chối căi với hoàn cảnh xuất sinh, tŕnh độ*giáo dục và rất nhiều bối cảnh khác của người*ấy từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành.

Bởi vậy người xưa khi sắp xếp việc hôn nhân th́ thường coi trọng sự tổng ḥa, mà xem trọng nhất là “môn đương hộ đối” về giá trị quan. Có nhiều gia đ́nh ngay từ khi con cái c̣n nhỏ đă hứa hôn, v́ họ xem trọng đạo đức và gia phong của nhau, cảm thấy rằng người con được nuôi dưỡng lớn lên trong gia đ́nh kia tất phải là người có đức hạnh phù hợp.

Trong cuộc sống hiện thực có rất nhiều ví dụ chứng minh*điều này. Khi phương diện về bối cảnh gia*đ́nh, văn hóa và sự tu dưỡng*của hai bên có khác biệt quá lớn th́ cho dù cố gắng cũng rất khó*để sống hài ḥa cùng nhau lâu dài. Hơn nữa nếu giá trị quan không “môn đương hộ đối” th́*ở phương diện*giao lưu chia sẻ, thông hiểu lẫn nhau hay cách đối nhân xử thế, giáo dục con cái, cũng như thói quen sinh hoạt, thường thường xuất hiện sự khác biệt nghiêm trọng. Đó là lư do*người xưa thường chú trọng*đến yếu tố “phù hợp” trong hôn nhân.

Quan niệm về hôn nhân ngày nay*đă khác xưa rất nhiều, nhưng cho dù là như vậy, hai bên khi t́m hiểu nhau*cũng nên xem xét*đến các yếu tố “môn*đương hộ*đối”*để có cuộc sống hôn nhân ḥa hợp, bền vững và lâu dài.

Theo Vision Times tiếng Trung
An Ḥa biên tập

koorlie
10-10-2021, 19:06
Chút t́m hiểu thêm về thành ngữ “môn đương hộ đối”
Dễ lắm, khỏi cần t́m hiểu ǵ nhiều cho mất công.

Bà con ta đă biết môn là cửa c̣n hộ là một gia đ́nh, đương th́ tương đương, c̣n đối th́ có thể xếp hạng ngang bằng đối mặt ngang nhau, như đối thủ hay câu đối vv...

Tóm lại là sự đ̣i hỏi 2 gia đ́nh ngang ngửa nhau trong hôn nhân. Quá dễ và ai nấy đă dư biết.

Và chúng ta biết --> BẤY NHIÊU ĐỦ RỒI Dư luôn hahaaa....

Tất cả các râu ŕa mà tên Tàu hay tên Mít nào đó vẽ ra phăng thêm th́ cứ đem quăng thùng rác là xong!

Khỏi cần biết hắn có lôi kéo chuyện BÙA CHÚ, HUYỆT ĐẠO, MÊ TÍN, VĂN VẺ ǵ đó đem chèn vô thêm.

Câu thành ngữ Trung Hoa này đă có từ mấy trăm năm trước, hoặc giả hơn ngàn năm rồi khó biết. Mọi nguồn gốc của nó thằng nào mà tra ra là thằng đó nói láo. Những câu nói dân gian không có đến từ một nguồn chính thống được, khỏi cần nghe đứa nào giải thích thế này là đúng thế kia là phải làm chi, v́ chắc chắn là hắn vừa ngồi xuống ngẫm nghĩ rồi bịa ra theo ư hắn tưởng bở.

Như chữ PHỞ của VN cũng vậy. Cứ thành thật chịu thua tỉnh bơ và nhận rằng chúng ta sẽ không bao giờ biết chữ PHỞ xuất xứ từ đâu ra, giống như chữ CƠM vậy thôi.

Tên nào leo ra bày đặt PHÔ FEU là hắn vừa bịa ra, hoặc bất quá chỉ là lan truyền lại một chuyện dóc của internet vậy thôi.