Cupcake01
11-03-2021, 02:26
Hầu hết người Mỹ không nhận ra Bắc Kinh và Washington đang theo đuổi "cùng 1 vở kịch". Họ cho rằng Mỹ là nền dân chủ cao quư hơn, v́ vậy đă hành động ngăn chặn Trung Quốc quá muộn.
3 thập kỷ trước, Chiến tranh Lạnh kết thúc và Mỹ đă chiến thắng. Bây giờ Mỹ là cường quốc duy nhất trên toàn cầu. Xem xét các mối đe dọa ở mọi khía cạnh, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ dường như không có lư do ǵ để lo lắng về vị thế của nước này.
Đặc biệt, Mỹ không cần phải lo về Trung Quốc, một quốc gia kém cỏi hơn, nghèo khó hơn và từng liên kết với Mỹ để chống lại Liên Xô trong hơn một thập kỷ. Nhưng... có một số dấu hiệu đáng lo ngại.
TRUNG-MỸ BỊ NHỐT TRONG 'CHIẾN TRANH LẠNH MỚI'
Quy mô dân số Trung Quốc gấp gần 5 lần Mỹ và các nhà lănh đạo của họ đă chấp nhận cải cách kinh tế. Quy mô dân số và kinh tế đi lên là những nền tảng chính của sức mạnh quân sự, v́ vậy có khả năng Trung Quốc sẽ mạnh hơn đáng kể trong những thập kỷ tới.
V́ một Trung Quốc hùng mạnh hơn chắc chắn sẽ thách thức vị thế của Mỹ ở châu Á và có thể xa hơn nữa, Washington rơ ràng có lựa chọn hợp lư: Can dự chống lại sự trỗi dậy của Bắc Kinh để Trung Quốc "hết đường buộc phải hướng về Mỹ".
Nhưng theo tác giả John J. Mearsheimer của tờ Foreign Affair, đó không phải là lựa chọn đúng v́ nó chỉ càng khuyến khích Trung Quốc trỗi dậy mạnh hơn nữa.
Theo tác giả, Washington đă sai ngay từ đầu khi thúc đẩy đầu tư vào Trung Quốc và hoan nghênh nước này tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu, cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ yêu chuộng ḥa b́nh và là một bên liên quan có trách nhiệm trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu.
Tất nhiên, điều tưởng tượng này không bao giờ thành hiện thực. Khác xa với việc chấp nhận các giá trị tự do trong nước và hiện trạng ở nước ngoài, Trung Quốc ngày càng đàn áp và tham vọng hơn khi manh nha trỗi dậy. Thay v́ thúc đẩy sự ḥa hợp giữa Bắc Kinh và Washington, sự can dự của Washington càng thúc đẩy sự cạnh tranh và đẩy nhanh sự kết thúc của cái gọi là thời khắc đơn cực.
Ngày nay, Trung -Mỹ đang bị nhốt trong cái mà chỉ có thể gọi là một "cuộc Chiến tranh lạnh mới" - một cuộc cạnh tranh an ninh khốc liệt ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong mối quan hệ của họ.
Sự cạnh tranh này chính là bài toán đau đầu nhất của các nhà hoạch định chính sách của Mỹ so với cuộc Chiến tranh Lạnh ban đầu, v́ Trung Quốc được xem là một đối thủ mạnh mẽ hơn Liên Xô. Và v́ vậy, cuộc Chiến tranh lạnh này nguy cơ sẽ càng trở nóng hơn.
MỸ HÀNH ĐỘNG QUÁ MUỘN TRƯỚC KHI ÔNG TRUMP NHẬN RA
Nhưng hầu hết người Mỹ không nhận ra rằng Bắc Kinh và Washington đang theo đuổi "cùng một vở kịch", bởi v́ họ luôn cho rằng, Mỹ là một nền dân chủ cao quư hơn và v́ vậy đă hành động ngăn chặn Trung Quốc quá muộn.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1910755&stc=1&d=1635906278
Chính sách của Mỹ với Trung Quốc mới thực sự thay đổi sau khi tỷ phú Donald Trump lên nắm quyền ở Nhà Trắng. Ảnh: Reuters
Bắt đầu từ năm 1980, các đời tổng thống Mỹ đă liên tục cấp cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" (là một trong những quy chế pháp lư quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại), từ đó mang lại cho Bắc Kinh những điều khoản thương mại tốt nhất có thể với Washington.
Sự thiên vị đó lẽ ra phải chấm dứt sau Chiến tranh Lạnh, và các nhà lănh đạo Mỹ lẽ ra nên đàm phán một hiệp định thương mại song phương mới áp đặt các điều khoản khắc nghiệt hơn đối với Trung Quốc.
Nhưng họ đă không làm.
Vào năm 2000, Mỹ càng có những sai sót trầm trọng làm giảm đáng kể đ̣n bẩy của Washington đối với Bắc Kinh. Năm sau, Mỹ lại mắc sai lầm khi mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Với thị trường toàn cầu hiện đang mở cửa, các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng, sản phẩm của họ trở nên cạnh tranh hơn và Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Mỹ cũng đă không kiểm soát chặt chẽ việc xuất khẩu các công nghệ phức tạp như hàng không vũ trụ và điện tử...
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ cũng đă phạm sai lầm khi hạ thấp các rào cản đối với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Trung Quốc, vốn rất nhỏ vào năm 1990 nhưng đă phát triển "như nấm sau mưa" trong 3 thập kỷ sau đó. Nhưng vẫn không có biện pháp thận trọng nào được áp dụng.
Theo tác giả John J. Mearsheimer, sai lầm lớn nhất là ở 4 đời tổng thống Mỹ sau đây. Tổng thống George H. W. Bush (Bush cha) đă cam kết hợp tác với Trung Quốc ngay cả trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Tại một cuộc họp báo sau vụ việc ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, ông Bush tiếp tục biện minh cho việc tiếp tục hợp tác kinh tế sâu rộng với Trung Quốc.
Ông Bill Clinton chỉ trích người tiền nhiệm Bush "câu nệ" với Trung Quốc trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992 và cố tỏ ra cứng rắn với Bắc Kinh sau khi chuyển đến Nhà Trắng.
Nhưng ông đă sớm đảo ngược hướng đi với tuyên bố vào năm 1994 rằng: Mỹ nên "tăng cường và mở rộng sự can dự của ḿnh" với Trung Quốc, điều này sẽ giúp Bắc Kinh "phát triển như một cường quốc có trách nhiệm".
Ông Clinton đă dẫn đầu trong việc thuyết phục Quốc hội cấp cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" vĩnh viễn, đặt cơ sở cho việc Bắc Kinh gia nhập WTO.
Tổng thống George W. Bush (Bush con) sau đó cũng ủng hộ những nỗ lực nhằm đưa Trung Quốc vào kinh tế toàn cầu, hứa hẹn với tư cách là một ứng viên tổng thống rằng "thương mại với Trung Quốc sẽ thúc đẩy tự do".
Trong năm đầu tiên nắm quyền, ông đă kư tuyên bố trao quy chế "tối huệ quốc" vĩnh viễn cho Trung Quốc và thực hiện các bước cuối cùng để hướng dẫn nước này gia nhập WTO.
Chính quyền Obama cũng giống như vậy. Người ta có thể nghĩ rằng, chiến lược "xoay trục sang châu Á" do Ngoại trưởng Hillary Clinton công bố vào năm 2011, thể hiện sự chuyển hướng từ can dự sang kiềm chế ngăn chặn, nhưng điều đó là sai lầm.
Ông Obama đă tuyên bố sẽ có đường lối cứng rắn hơn chống lại Bắc Kinh trong nhiệm kỳ tổng thống, phản đối các yêu sách hàng hải của nước này và đệ đơn kiện lên WTO, nhưng những nỗ lực nửa vời này không mấy thành công.
Chỉ đến năm 2017, chính sách của Mỹ với Trung Quốc mới thực sự thay đổi. Sau khi tỷ phú Donald Trump trở thành tổng thống, ông đă nhanh chóng từ bỏ chiến lược can dự mà 4 chính quyền trước đó đă áp dụng, thay vào đó theo đuổi chính sách ngăn chặn.
Chính quyền của ông cũng phát triển quan hệ chặt chẽ hơn với Đài Loan và thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Giới quan sát cho rằng, Chiến tranh Lạnh mới đang diễn ra.
Đă có nhiều dự đoán mong đợi Tổng thống Joe Biden từ bỏ chính sách ngăn chặn và quay trở lại việc can dự nhưng trên thực tế, ông vẫn tiếp tục chính sách của người tiền nhiệm Trump và rất cứng rắn với Trung Quốc. Quốc hội Mỹ cũng đă có chiến lược tương tự. V́ vậy, sự cạnh tranh mới giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ không sớm kết thúc.
SỰ NGUY HIỂM CỦA CUỘC ĐỐI ĐẦU TRUNG-MỸ
Ở Châu Á, không có đường phân chia rơ ràng như "Bức màn sắt" để đảm bảo sự ổn định chiến lược lâu dài.
Thay vào đó, có một số cuộc xung đột tiềm ẩn cần các bên nỗ lực kiềm chế và ngăn chặn, nhằm tránh nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Chúng bao gồm các cuộc chiến giành quyền kiểm soát Đài Loan, Biển Đông đang tranh chấp, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các tuyến hàng hải chạy giữa Trung Quốc và Vịnh Ba Tư.
Các cuộc xung đột này chủ yếu diễn ra ở vùng biển rộng giữa các lực lượng không quân và hải quân các nước đối địch, và trong một số trường hợp có thể có sự tham gia ở mức quy mô nhỏ của lực lượng trên bộ.
Theo ông John J. Mearsheimer, ngay cả một cuộc chiến nhằm vào Đài Loan, có thể thu hút các lực lượng đổ bộ của Trung Quốc, cũng sẽ không khiến các đội quân được trang bị hạt nhân khổng lồ lao vào nhau.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không có nguy cơ leo thang chiến tranh hạt nhân nếu Bắc Kinh và Washington bùng nổ xung đột quanh vấn đề Đài Loan hoặc Biển Đông. Thật vậy, nếu một bên thua nặng, th́ ít nhất bên đó cũng sẽ cân nhắc đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân để cứu văn t́nh h́nh.
Một số người ra quyết định có thể nghĩ rằng, có thể sử dụng vũ khí hạt nhân mà không làm leo thang chiến tranh với điều kiện các cuộc tấn công chỉ diễn ra trên biển và không nhắm vào lănh thổ đất liền của Trung Quốc, Mỹ và các đồng minh của họ. Nhưng đó chỉ là suy nghĩ, c̣n thực tế th́ khó lường trước được.
Nhưng tốt nhất th́ nên kiểm soát và quản lư sự cạnh tranh hiện nay với hy vọng tránh được một cuộc chiến.
Điều đó sẽ đ̣i hỏi Washington phải duy tŕ các lực lượng thông thường đáng gờm ở Đông Á để thuyết phục Bắc Kinh rằng, một cuộc chiến vũ khí hạt nhân sẽ chỉ mang lại chiến thắng kiểu Pyrrhic (một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp ở phe chiến thắng mà nó tương đương với thất bại).
Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải liên tục nhắc nhở bản thân - và các nhà lănh đạo Trung Quốc - về nguy cơ leo thang chiến tranh hạt nhân. Rốt cuộc, vũ khí hạt nhân là biện pháp răn đe tối thượng. Nếu mỗi bên hiểu được ư nghĩa của việc vượt qua "ranh giới đỏ" của bên kia, th́ nguy cơ xảy ra chiến tranh sẽ không nhiều.
VietBF @ Sưu tầm
3 thập kỷ trước, Chiến tranh Lạnh kết thúc và Mỹ đă chiến thắng. Bây giờ Mỹ là cường quốc duy nhất trên toàn cầu. Xem xét các mối đe dọa ở mọi khía cạnh, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ dường như không có lư do ǵ để lo lắng về vị thế của nước này.
Đặc biệt, Mỹ không cần phải lo về Trung Quốc, một quốc gia kém cỏi hơn, nghèo khó hơn và từng liên kết với Mỹ để chống lại Liên Xô trong hơn một thập kỷ. Nhưng... có một số dấu hiệu đáng lo ngại.
TRUNG-MỸ BỊ NHỐT TRONG 'CHIẾN TRANH LẠNH MỚI'
Quy mô dân số Trung Quốc gấp gần 5 lần Mỹ và các nhà lănh đạo của họ đă chấp nhận cải cách kinh tế. Quy mô dân số và kinh tế đi lên là những nền tảng chính của sức mạnh quân sự, v́ vậy có khả năng Trung Quốc sẽ mạnh hơn đáng kể trong những thập kỷ tới.
V́ một Trung Quốc hùng mạnh hơn chắc chắn sẽ thách thức vị thế của Mỹ ở châu Á và có thể xa hơn nữa, Washington rơ ràng có lựa chọn hợp lư: Can dự chống lại sự trỗi dậy của Bắc Kinh để Trung Quốc "hết đường buộc phải hướng về Mỹ".
Nhưng theo tác giả John J. Mearsheimer của tờ Foreign Affair, đó không phải là lựa chọn đúng v́ nó chỉ càng khuyến khích Trung Quốc trỗi dậy mạnh hơn nữa.
Theo tác giả, Washington đă sai ngay từ đầu khi thúc đẩy đầu tư vào Trung Quốc và hoan nghênh nước này tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu, cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ yêu chuộng ḥa b́nh và là một bên liên quan có trách nhiệm trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu.
Tất nhiên, điều tưởng tượng này không bao giờ thành hiện thực. Khác xa với việc chấp nhận các giá trị tự do trong nước và hiện trạng ở nước ngoài, Trung Quốc ngày càng đàn áp và tham vọng hơn khi manh nha trỗi dậy. Thay v́ thúc đẩy sự ḥa hợp giữa Bắc Kinh và Washington, sự can dự của Washington càng thúc đẩy sự cạnh tranh và đẩy nhanh sự kết thúc của cái gọi là thời khắc đơn cực.
Ngày nay, Trung -Mỹ đang bị nhốt trong cái mà chỉ có thể gọi là một "cuộc Chiến tranh lạnh mới" - một cuộc cạnh tranh an ninh khốc liệt ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong mối quan hệ của họ.
Sự cạnh tranh này chính là bài toán đau đầu nhất của các nhà hoạch định chính sách của Mỹ so với cuộc Chiến tranh Lạnh ban đầu, v́ Trung Quốc được xem là một đối thủ mạnh mẽ hơn Liên Xô. Và v́ vậy, cuộc Chiến tranh lạnh này nguy cơ sẽ càng trở nóng hơn.
MỸ HÀNH ĐỘNG QUÁ MUỘN TRƯỚC KHI ÔNG TRUMP NHẬN RA
Nhưng hầu hết người Mỹ không nhận ra rằng Bắc Kinh và Washington đang theo đuổi "cùng một vở kịch", bởi v́ họ luôn cho rằng, Mỹ là một nền dân chủ cao quư hơn và v́ vậy đă hành động ngăn chặn Trung Quốc quá muộn.
https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1910755&stc=1&d=1635906278
Chính sách của Mỹ với Trung Quốc mới thực sự thay đổi sau khi tỷ phú Donald Trump lên nắm quyền ở Nhà Trắng. Ảnh: Reuters
Bắt đầu từ năm 1980, các đời tổng thống Mỹ đă liên tục cấp cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" (là một trong những quy chế pháp lư quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại), từ đó mang lại cho Bắc Kinh những điều khoản thương mại tốt nhất có thể với Washington.
Sự thiên vị đó lẽ ra phải chấm dứt sau Chiến tranh Lạnh, và các nhà lănh đạo Mỹ lẽ ra nên đàm phán một hiệp định thương mại song phương mới áp đặt các điều khoản khắc nghiệt hơn đối với Trung Quốc.
Nhưng họ đă không làm.
Vào năm 2000, Mỹ càng có những sai sót trầm trọng làm giảm đáng kể đ̣n bẩy của Washington đối với Bắc Kinh. Năm sau, Mỹ lại mắc sai lầm khi mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Với thị trường toàn cầu hiện đang mở cửa, các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng, sản phẩm của họ trở nên cạnh tranh hơn và Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Mỹ cũng đă không kiểm soát chặt chẽ việc xuất khẩu các công nghệ phức tạp như hàng không vũ trụ và điện tử...
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ cũng đă phạm sai lầm khi hạ thấp các rào cản đối với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Trung Quốc, vốn rất nhỏ vào năm 1990 nhưng đă phát triển "như nấm sau mưa" trong 3 thập kỷ sau đó. Nhưng vẫn không có biện pháp thận trọng nào được áp dụng.
Theo tác giả John J. Mearsheimer, sai lầm lớn nhất là ở 4 đời tổng thống Mỹ sau đây. Tổng thống George H. W. Bush (Bush cha) đă cam kết hợp tác với Trung Quốc ngay cả trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Tại một cuộc họp báo sau vụ việc ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, ông Bush tiếp tục biện minh cho việc tiếp tục hợp tác kinh tế sâu rộng với Trung Quốc.
Ông Bill Clinton chỉ trích người tiền nhiệm Bush "câu nệ" với Trung Quốc trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992 và cố tỏ ra cứng rắn với Bắc Kinh sau khi chuyển đến Nhà Trắng.
Nhưng ông đă sớm đảo ngược hướng đi với tuyên bố vào năm 1994 rằng: Mỹ nên "tăng cường và mở rộng sự can dự của ḿnh" với Trung Quốc, điều này sẽ giúp Bắc Kinh "phát triển như một cường quốc có trách nhiệm".
Ông Clinton đă dẫn đầu trong việc thuyết phục Quốc hội cấp cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" vĩnh viễn, đặt cơ sở cho việc Bắc Kinh gia nhập WTO.
Tổng thống George W. Bush (Bush con) sau đó cũng ủng hộ những nỗ lực nhằm đưa Trung Quốc vào kinh tế toàn cầu, hứa hẹn với tư cách là một ứng viên tổng thống rằng "thương mại với Trung Quốc sẽ thúc đẩy tự do".
Trong năm đầu tiên nắm quyền, ông đă kư tuyên bố trao quy chế "tối huệ quốc" vĩnh viễn cho Trung Quốc và thực hiện các bước cuối cùng để hướng dẫn nước này gia nhập WTO.
Chính quyền Obama cũng giống như vậy. Người ta có thể nghĩ rằng, chiến lược "xoay trục sang châu Á" do Ngoại trưởng Hillary Clinton công bố vào năm 2011, thể hiện sự chuyển hướng từ can dự sang kiềm chế ngăn chặn, nhưng điều đó là sai lầm.
Ông Obama đă tuyên bố sẽ có đường lối cứng rắn hơn chống lại Bắc Kinh trong nhiệm kỳ tổng thống, phản đối các yêu sách hàng hải của nước này và đệ đơn kiện lên WTO, nhưng những nỗ lực nửa vời này không mấy thành công.
Chỉ đến năm 2017, chính sách của Mỹ với Trung Quốc mới thực sự thay đổi. Sau khi tỷ phú Donald Trump trở thành tổng thống, ông đă nhanh chóng từ bỏ chiến lược can dự mà 4 chính quyền trước đó đă áp dụng, thay vào đó theo đuổi chính sách ngăn chặn.
Chính quyền của ông cũng phát triển quan hệ chặt chẽ hơn với Đài Loan và thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Giới quan sát cho rằng, Chiến tranh Lạnh mới đang diễn ra.
Đă có nhiều dự đoán mong đợi Tổng thống Joe Biden từ bỏ chính sách ngăn chặn và quay trở lại việc can dự nhưng trên thực tế, ông vẫn tiếp tục chính sách của người tiền nhiệm Trump và rất cứng rắn với Trung Quốc. Quốc hội Mỹ cũng đă có chiến lược tương tự. V́ vậy, sự cạnh tranh mới giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ không sớm kết thúc.
SỰ NGUY HIỂM CỦA CUỘC ĐỐI ĐẦU TRUNG-MỸ
Ở Châu Á, không có đường phân chia rơ ràng như "Bức màn sắt" để đảm bảo sự ổn định chiến lược lâu dài.
Thay vào đó, có một số cuộc xung đột tiềm ẩn cần các bên nỗ lực kiềm chế và ngăn chặn, nhằm tránh nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Chúng bao gồm các cuộc chiến giành quyền kiểm soát Đài Loan, Biển Đông đang tranh chấp, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các tuyến hàng hải chạy giữa Trung Quốc và Vịnh Ba Tư.
Các cuộc xung đột này chủ yếu diễn ra ở vùng biển rộng giữa các lực lượng không quân và hải quân các nước đối địch, và trong một số trường hợp có thể có sự tham gia ở mức quy mô nhỏ của lực lượng trên bộ.
Theo ông John J. Mearsheimer, ngay cả một cuộc chiến nhằm vào Đài Loan, có thể thu hút các lực lượng đổ bộ của Trung Quốc, cũng sẽ không khiến các đội quân được trang bị hạt nhân khổng lồ lao vào nhau.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không có nguy cơ leo thang chiến tranh hạt nhân nếu Bắc Kinh và Washington bùng nổ xung đột quanh vấn đề Đài Loan hoặc Biển Đông. Thật vậy, nếu một bên thua nặng, th́ ít nhất bên đó cũng sẽ cân nhắc đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân để cứu văn t́nh h́nh.
Một số người ra quyết định có thể nghĩ rằng, có thể sử dụng vũ khí hạt nhân mà không làm leo thang chiến tranh với điều kiện các cuộc tấn công chỉ diễn ra trên biển và không nhắm vào lănh thổ đất liền của Trung Quốc, Mỹ và các đồng minh của họ. Nhưng đó chỉ là suy nghĩ, c̣n thực tế th́ khó lường trước được.
Nhưng tốt nhất th́ nên kiểm soát và quản lư sự cạnh tranh hiện nay với hy vọng tránh được một cuộc chiến.
Điều đó sẽ đ̣i hỏi Washington phải duy tŕ các lực lượng thông thường đáng gờm ở Đông Á để thuyết phục Bắc Kinh rằng, một cuộc chiến vũ khí hạt nhân sẽ chỉ mang lại chiến thắng kiểu Pyrrhic (một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp ở phe chiến thắng mà nó tương đương với thất bại).
Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải liên tục nhắc nhở bản thân - và các nhà lănh đạo Trung Quốc - về nguy cơ leo thang chiến tranh hạt nhân. Rốt cuộc, vũ khí hạt nhân là biện pháp răn đe tối thượng. Nếu mỗi bên hiểu được ư nghĩa của việc vượt qua "ranh giới đỏ" của bên kia, th́ nguy cơ xảy ra chiến tranh sẽ không nhiều.
VietBF @ Sưu tầm