Romano
11-14-2021, 03:07
Năm 2020 là thời điểm khó khăn đối với Joyce Pequeno, tù nhân 28 tuổi tại cơ sở cải tạo Coffee Creek ở Wilsonville, Oregon (Mỹ). T́nh trạng giăn cách xă hội đă ảnh hưởng đến tâm lư của cô. Điều này c̣n khiến phiên điều trần khoan hồng của Joyce buộc phải hoăn lại.
Trong thời gian đó, cô thường xuyên trang điểm với các bước cơ bản như đánh phấn nền, phấn má và kẻ viền mắt. "Điều này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, như được trở thành một con người thực sự. Việc họ chỉ bán mỹ phẩm rẻ tiền thật khó chịu nhưng đó là những ǵ chúng tôi có", Joyce chia sẻ với CNN qua email.
T́m thấy sự lạc quan qua mỹ phẩm
Susan Ferguson, tù nhân ở trung tâm California, Chowchilla (Mỹ), cũng có thói quen làm đẹp đều đặn. Cô thường dưỡng tóc và sơn móng tay. Những hoạt động này giúp Susan cảm thấy vui vẻ hơn.
Nhiều tù nhân t́m thấy sự thoải mái nhờ mỹ phẩm. Họ bị tước quyền tự do, không được gặp bạn bè và gia đ́nh. Bởi vậy, việc trang điểm giúp các tù nhân được thể hiện bản thân theo cách họ muốn.
Jennifer Vollen-Katz, giám đốc điều hành của Hiệp hội John Howard, một cơ quan giám sát nhà tù, cho biết: "Nhu cầu của phụ nữ ở trong tù rất khác khi so sánh với nam giới".
Khoảng 86% các nữ tù nhân trong những nhà tù tại Mỹ từng bị bạo lực t́nh dục ở một thời điểm trong cuộc đời. Trong khi đó, 75% phụ nữ ở trong tù có vấn đề về sức khỏe tâm thần, có lịch sử lạm dụng chất kích thích và bị ảnh hưởng bởi hành vi cưỡng bức.Việc trang điểm, làm đẹp mang lại nhiều lợi ích cho tâm lư của các tù nhân. Tuy nhiên, thói quen này bị các cấp quản lư coi là phù phiếm hoặc quá xa xỉ.
Mỹ phẩm bị cấm trong các nhà tù ở New York cho đến năm 1920. Điều tương tự xảy ra ở nhà tù Nebraska cho đến năm 1924. Trong khi đó, nhà tù ở Anh cấm mỹ phẩm đến năm 1946.
Vào năm 1998, bang Virginia (Mỹ) cấm trang điểm với lư do hoạt động này có thể gây ra hiện tượng buôn hàng lậu. Patricia L. Huffman, giám đốc trung tâm cải tạo Fluvanna, phản đối lệnh cấm. Chia sẻ với tờ Washington Post, bà cho biết: "Chúng tôi đang cố gắng tạo cơ hội để phụ nữ trở nên tốt đẹp hơn". Tuy nhiên, lệnh cấm mỹ phẩm trở thành yếu tố ḱm hăm việc này.
Thích nghi
Trong nhiều thập kỷ qua, các tù nhân từng thực hiện nhiều phương pháp sáng tạo để có mỹ phẩm.
Vào những năm 1920, phụ nữ trong nhà tù Holloway ở Anh đă cạo vụn sơn tường pḥng giam để làm phấn phủ, giấy đỏ được làm ẩm nhằm trở thành son môi. Năm 1929, nữ tù nhân ở New Jersey (Mỹ) sử dụng giấy được xé từ sách trong thư viện trại giam để làm xoăn tóc. Họ kẻ lông mày bằng những thanh gỗ cháy và đă thành than.Giấy sáp trở thành món hàng nổi tiếng trong năm 1950. Người ta phát hiện ra nó có thể được nấu chảy và dùng để duỗi hoặc tạo độ bóng cho tóc.
Nhiều món mỹ phẩm được phát minh từ khu vực nhà ăn. Các tù nhân dùng bơ trộn với bút ch́ đă được bào ra để làm mascara.
Nghiên cứu cho thấy việc tiếp cận với mỹ phẩm giúp làm giảm t́nh trạng bạo lực giữa các tù nhân. Đồng thời, các nghiên cứu chỉ ra rằng những tù nhân có ư thức về việc làm đẹp cho bản thân sẽ tái ḥa nhập cộng đồng tốt hơn.
Khi các nhà tù sửa đổi lại quy tắc, việc sử dụng mỹ phẩm đi đôi với những ràng buộc. Năm 1940, những người phụ nữ tại trại giáo dưỡng liên bang ở Seagoville, Texas (Mỹ), được phép đánh má, tô son và tô móng tay trong suốt.
Bước sang những năm 1950, các tù nhân ở Canada có thể thoa phấn và tô son môi nhưng không được kẻ mắt hoặc chuốt mascara.
Sự ra đời của các lớp học thẩm mỹ
Những tác động từ người ngoài đóng vai tṛ quan trọng trong việc đưa mỹ phẩm đến tay các tù nhân. Tại Chicago, năm 1970, triệu phú W. Clement Stone đă phát triển một trường dạy làm đẹp trong tù.
Ông nói: "Chúng tôi sẽ khiến những người phụ nữ phát triển nét quyến rũ bên ngoài. Từ đó, họ có cơ hội khám phá sức hút của bản thân từ bên trong". Hành động này đă tạo ra một số sự thay đổi.
Một nhân viên xă hội người Đức đă chia sẻ với Reuters rằng son môi, sơn móng tay giúp các tù nhân vượt qua cảm giác cam chịu, thờ ơ.
Sự phát triển của các lớp học thẩm mỹ trong tù cũng định h́nh lại câu chuyện xoay quanh việc dùng mỹ phẩm. Các lớp học giúp nâng cao ḷng tự trọng và trang bị cho tù nhân những kỹ năng. Kinh doanh dịch vụ làm đẹp là một con đường khả thi để có việc làm. Những người đă học nghề sau khi được thả sẽ dễ ḥa nhập và tỷ lệ tái phạm thấp hơn đáng kể.Ngày nay, lớp dạy thẩm mỹ là nơi quen thuộc trong các nhà tù dành cho phụ nữ. Christie Luther, người thành lập trường thẩm mỹ Rise bên trong Trung tâm Cải tạo Mabel Bassett ở Oklahoma, cho biết: "85% học viên của chúng tôi đang làm việc trong các tiệm tóc lớn. Nhiều người đă lên chức quản lư". Một số tù nhân cảm thấy được trao quyền khi ở trong lớp học.
Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đă làm chậm tiến độ dạy học. Năm 2020, học viên của Christie Luther nghỉ học 247 ngày.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh đă gây ra t́nh trạng thiếu mỹ phẩm tại các nhà tù. Khoảng thời gian giăn cách khiến việc đưa mỹ phẩm vào trại giam gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, đối với Joyce Pequeno, tù nhân được ân xá vào đầu năm 2021, việc lo lắng về t́nh trạng thiếu mỹ phẩm đă là dĩ văng. Hiện tại, cô vẫn giữ nguyên các bước làm đẹp giống khi c̣n ở trong tù nhưng sản phẩm được đổi mới, tốt cho da hơn.
Trong thời gian đó, cô thường xuyên trang điểm với các bước cơ bản như đánh phấn nền, phấn má và kẻ viền mắt. "Điều này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, như được trở thành một con người thực sự. Việc họ chỉ bán mỹ phẩm rẻ tiền thật khó chịu nhưng đó là những ǵ chúng tôi có", Joyce chia sẻ với CNN qua email.
T́m thấy sự lạc quan qua mỹ phẩm
Susan Ferguson, tù nhân ở trung tâm California, Chowchilla (Mỹ), cũng có thói quen làm đẹp đều đặn. Cô thường dưỡng tóc và sơn móng tay. Những hoạt động này giúp Susan cảm thấy vui vẻ hơn.
Nhiều tù nhân t́m thấy sự thoải mái nhờ mỹ phẩm. Họ bị tước quyền tự do, không được gặp bạn bè và gia đ́nh. Bởi vậy, việc trang điểm giúp các tù nhân được thể hiện bản thân theo cách họ muốn.
Jennifer Vollen-Katz, giám đốc điều hành của Hiệp hội John Howard, một cơ quan giám sát nhà tù, cho biết: "Nhu cầu của phụ nữ ở trong tù rất khác khi so sánh với nam giới".
Khoảng 86% các nữ tù nhân trong những nhà tù tại Mỹ từng bị bạo lực t́nh dục ở một thời điểm trong cuộc đời. Trong khi đó, 75% phụ nữ ở trong tù có vấn đề về sức khỏe tâm thần, có lịch sử lạm dụng chất kích thích và bị ảnh hưởng bởi hành vi cưỡng bức.Việc trang điểm, làm đẹp mang lại nhiều lợi ích cho tâm lư của các tù nhân. Tuy nhiên, thói quen này bị các cấp quản lư coi là phù phiếm hoặc quá xa xỉ.
Mỹ phẩm bị cấm trong các nhà tù ở New York cho đến năm 1920. Điều tương tự xảy ra ở nhà tù Nebraska cho đến năm 1924. Trong khi đó, nhà tù ở Anh cấm mỹ phẩm đến năm 1946.
Vào năm 1998, bang Virginia (Mỹ) cấm trang điểm với lư do hoạt động này có thể gây ra hiện tượng buôn hàng lậu. Patricia L. Huffman, giám đốc trung tâm cải tạo Fluvanna, phản đối lệnh cấm. Chia sẻ với tờ Washington Post, bà cho biết: "Chúng tôi đang cố gắng tạo cơ hội để phụ nữ trở nên tốt đẹp hơn". Tuy nhiên, lệnh cấm mỹ phẩm trở thành yếu tố ḱm hăm việc này.
Thích nghi
Trong nhiều thập kỷ qua, các tù nhân từng thực hiện nhiều phương pháp sáng tạo để có mỹ phẩm.
Vào những năm 1920, phụ nữ trong nhà tù Holloway ở Anh đă cạo vụn sơn tường pḥng giam để làm phấn phủ, giấy đỏ được làm ẩm nhằm trở thành son môi. Năm 1929, nữ tù nhân ở New Jersey (Mỹ) sử dụng giấy được xé từ sách trong thư viện trại giam để làm xoăn tóc. Họ kẻ lông mày bằng những thanh gỗ cháy và đă thành than.Giấy sáp trở thành món hàng nổi tiếng trong năm 1950. Người ta phát hiện ra nó có thể được nấu chảy và dùng để duỗi hoặc tạo độ bóng cho tóc.
Nhiều món mỹ phẩm được phát minh từ khu vực nhà ăn. Các tù nhân dùng bơ trộn với bút ch́ đă được bào ra để làm mascara.
Nghiên cứu cho thấy việc tiếp cận với mỹ phẩm giúp làm giảm t́nh trạng bạo lực giữa các tù nhân. Đồng thời, các nghiên cứu chỉ ra rằng những tù nhân có ư thức về việc làm đẹp cho bản thân sẽ tái ḥa nhập cộng đồng tốt hơn.
Khi các nhà tù sửa đổi lại quy tắc, việc sử dụng mỹ phẩm đi đôi với những ràng buộc. Năm 1940, những người phụ nữ tại trại giáo dưỡng liên bang ở Seagoville, Texas (Mỹ), được phép đánh má, tô son và tô móng tay trong suốt.
Bước sang những năm 1950, các tù nhân ở Canada có thể thoa phấn và tô son môi nhưng không được kẻ mắt hoặc chuốt mascara.
Sự ra đời của các lớp học thẩm mỹ
Những tác động từ người ngoài đóng vai tṛ quan trọng trong việc đưa mỹ phẩm đến tay các tù nhân. Tại Chicago, năm 1970, triệu phú W. Clement Stone đă phát triển một trường dạy làm đẹp trong tù.
Ông nói: "Chúng tôi sẽ khiến những người phụ nữ phát triển nét quyến rũ bên ngoài. Từ đó, họ có cơ hội khám phá sức hút của bản thân từ bên trong". Hành động này đă tạo ra một số sự thay đổi.
Một nhân viên xă hội người Đức đă chia sẻ với Reuters rằng son môi, sơn móng tay giúp các tù nhân vượt qua cảm giác cam chịu, thờ ơ.
Sự phát triển của các lớp học thẩm mỹ trong tù cũng định h́nh lại câu chuyện xoay quanh việc dùng mỹ phẩm. Các lớp học giúp nâng cao ḷng tự trọng và trang bị cho tù nhân những kỹ năng. Kinh doanh dịch vụ làm đẹp là một con đường khả thi để có việc làm. Những người đă học nghề sau khi được thả sẽ dễ ḥa nhập và tỷ lệ tái phạm thấp hơn đáng kể.Ngày nay, lớp dạy thẩm mỹ là nơi quen thuộc trong các nhà tù dành cho phụ nữ. Christie Luther, người thành lập trường thẩm mỹ Rise bên trong Trung tâm Cải tạo Mabel Bassett ở Oklahoma, cho biết: "85% học viên của chúng tôi đang làm việc trong các tiệm tóc lớn. Nhiều người đă lên chức quản lư". Một số tù nhân cảm thấy được trao quyền khi ở trong lớp học.
Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đă làm chậm tiến độ dạy học. Năm 2020, học viên của Christie Luther nghỉ học 247 ngày.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh đă gây ra t́nh trạng thiếu mỹ phẩm tại các nhà tù. Khoảng thời gian giăn cách khiến việc đưa mỹ phẩm vào trại giam gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, đối với Joyce Pequeno, tù nhân được ân xá vào đầu năm 2021, việc lo lắng về t́nh trạng thiếu mỹ phẩm đă là dĩ văng. Hiện tại, cô vẫn giữ nguyên các bước làm đẹp giống khi c̣n ở trong tù nhưng sản phẩm được đổi mới, tốt cho da hơn.