Log in

View Full Version : Mạn tính' hay 'măn tính'?


florida80
12-12-2021, 02:37
Hiện nay có 2 cách viết bệnh mạn tính và bệnh măn tính. Có từ điển cho rằng dùng mạn hay măn đều được, do đó có những bác sĩ và nhà báo viết theo một trong 2 cách trên. Vậy, cách nào chính xác?
Do bệnh mạn tính và bệnh măn tính đều là từ Hán Việt nên chúng ta cần t́m nguồn gốc từ Hán ngữ. Cần nhấn mạnh rằng, người Trung Quốc sử dụng cụm từ 慢性病 (mànx́ngb́ng), đọc theo âm Hán Việt là mạn tính bệnh chứ không phải là măn tính bệnh.

Theo Khang Hi tự điển, chữ 慢 có 3 phiên thiết, đều cho âm đọc là mạn 縵 (nghĩa là chữ 慢 cần phát âm là mạn chứ không phải âm khác). Mạn 慢 có nghĩa là chậm; mạn tính 慢性 có 2 nghĩa thông thường là tính kiên nhẫn và tính chậm chạp. Riêng trong y học, bệnh mạn tính là bệnh tiến triển chậm (dần dần và kéo dài), thời gian bệnh từ 3 tháng trở lên, c̣n cụm từ 慢性毒藥 (mạn tính độc dược) nghĩa là thuốc độc có tác dụng chậm.

Trong tiếng Việt, khái niệm bệnh mạn tính tương ứng với tiếng Anh là Chronic condition; tiếng Pháp là Maladie chronique; Tây Ban Nha là Enfermedad crónica và Bồ Đào Nha là Doença crônica… Những thuật ngữ này đều có cách hiểu tương tự như 慢性病 (mạn tính bệnh).

Vậy, nếu viết là bệnh măn tính có chính xác không? Xin thưa, trong Hán ngữ có những chữ đọc là măn (满,滿,矕,螨,蟎,襔), song tất cả đều không có nghĩa phù hợp với cách hiểu bệnh tiến triển dần và kéo dài như vừa nêu. C̣n xét về chữ Nôm, cha ông ta đă mượn nguyên xi cách viết chữ mạn (慢) trong Hán ngữ và cũng chú nghĩa là chậm. Ví dụ: Mạn hạ lai (chậm lại); mạn xa (xe chậm lại hay ngừng); mạn kính đầu (h́nh chụp chậm)… Riêng về chữ măn th́ có 2 cách viết là 满 và 滿 - cũng đều mượn từ Hán ngữ, có nghĩa là đầy, chật, hết…, chẳng liên quan ǵ với cách hiểu bệnh mạn tính kể trên.

Nh́n chung, nên thống nhất cách gọi là bệnh mạn tính, v́ đây là thuật ngữ chính xác, không nên sử dụng “bệnh măn tính” hay chấp nhận cả hai cách đều đúng. Tại sao?

Trong Danh mục bệnh theo chuyên khoa của Bộ Y tế, có 9 mục đều ghi là mạn tính chứ không phải là măn tính. Ví dụ: viêm gan vi rút B (hoặc C) mạn tính; bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; suy hô hấp mạn tính; viêm tuyến giáp mạn tính; loét mạn tính da; viêm ống kẽ thận mạn tính… (trích Thông tư số 34/2013/TT-BYT ngày 28.10.2013 của Bộ Y tế Ban hành danh mục bệnh cần điều trị dài ngày).

Dĩ nhiên, có những bệnh không kèm thuật ngữ mạn tính, song trong ngành y, chúng vẫn là bệnh mạn tính, ví dụ những bệnh thường gặp như bệnh Alzheimer và mất trí nhớ; viêm khớp; hen suyễn; ung thư; xơ nang; bệnh tiểu đường; động kinh; bệnh tim; HIV/AIDS; rối loạn tâm trạng (lưỡng cực, rối loạn tâm thần và trầm cảm); đa xơ cứng; bệnh Parkinson… (theo VINMEC).

Tóm lại, thuật ngữ bệnh mạn tính là chuẩn xác. Xin vui ḷng bỏ qua cách viết bệnh măn tính v́ đây là cách sử dụng từ sai, không nên đánh đồng, chấp nhận cả 2 cách mạn và măn đều có nghĩa như nhau.