Romano
12-21-2021, 05:13
Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh đang lưu giữ một tượng thần Ganesha bằng kim loại. Sau thời gian dài giải mă, các nhà nghiên cứu đă t́m ra câu trả lời thoả đáng.
Theo các chuyên gia thuộc Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh: Ganesha là vị phúc thần rất được tín đồ Hindu sùng bái. Nguồn gốc của thần được đề cập nhiều trong những bộ kinh Hindu, trong số đó th́ điển tích được nhiều người biết đến nhất là trong bộ kinh Purana Shiva.
Vị thần hạnh phúc
Bộ kinh Purana Shiva miêu tả rằng, Ganesha là con trai của nữ thần Parvati và Shiva, nhưng chỉ do ḿnh nữ thần Parvati tạo ra. Trong một lần nữ thần Parvati tắm, để đảm bảo cho sự riêng tư của ḿnh th́ nữ thần đă lấy những chất bẩn từ cơ thể để tạo ra một cậu bé khôi ngô và bảo cậu bé canh cho ḿnh tắm.
Thần Shiva trở về nhà và đi vào thăm vợ, bất ngờ bị một cậu bé ngăn cản. Thần Shiva không biết đó là con trai của ḿnh nên đă tức giận và chém đầu cậu. Khi Parvati tắm xong, thấy con trai ḿnh bị mất đầu đă rất đau khổ và giận chồng.
Thần Shiva sai đoàn tùy tùng của ḿnh (gana) đi bắt về một sinh vật đang ngủ mà mặt quay về hướng Bắc. Đoàn tùy tùng đă đem về một con voi. Thần Shiva lấy đầu con voi ấy để bù vào cho con trai và thổi sự sống vào. Kết quả là thần Ganesha có dạng ḿnh người đầu voi và Shiva đă giao cho con trai nhiệm vụ lănh đạo (pati) đoàn tùy tùng kia (v́ thế mà Ganesha c̣n được gọi là Ganapati).
Ganesha (Ganapati) tượng trưng “cho sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ”, là vị thần hạnh phúc, bảo vệ và loại bỏ những trở ngại, đáp ứng những điều may mắn, cát tường cho mọi lời cầu nguyện.
Bức tượng thần Ganesha mà Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh đang lưu giữ là hiện vật bằng kim loại, mang số kiểm kê BTLS.8947. Tượng do Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh chuyển giao vào năm 1988. Và từ đó đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đă cố giải đáp các thông điệp cũng như ư nghĩa tôn giáo ẩn chứa trong đó.
Theo đo đạc của các nhà nghiên cứu, bức tượng cao 18 cm, ngang 13 cm, thể hiện thần Ganesha trong tư thế đứng trên bệ h́nh chữ nhật, hai chân rộng bằng vai. Đầu đội mũ miện, gồm hai bộ phận: Phần chỏm mũ h́nh chóp nhọn, phía dưới là một vành miện rộng chạm h́nh răng cưa, phía trên h́nh cánh hoa sen. Tai x̣e rộng ngang vai, trán dồ, mắt mở to, ṿi tả thực mềm mại, vểnh cao về bên phải, được thể hiện có một ngà trái.
Tượng có 6 cánh tay: 3 cánh tay bên phải đối xứng với 3 cánh tay bên trái. Trên mỗi tay cầm một biểu tượng khác nhau. Bên phải từ trên xuống, tay đầu tiên có thể là một chiếc ngà? (Bhagnadanta) của thần.
Vốn là vị thần học vấn, Ganesha được xem là đă bẻ đi chiếc ngà của ḿnh để viết thiên sử thi Mahabharata. Tay giữa thần cầm ốc tù và (Shankha) tượng trưng cho tiếng “Om” rung động cơ bản để từ đó mà có sáng tạo.
Ganesha sử dụng nó để gọi những người theo thần đến và cầu nguyện. Ốc tù và thường được thổi để công bố sự khởi đầu của một nghi lễ, một kỷ niệm và vào lúc b́nh minh của ngày. Tay dưới cùng cầm biểu tượng dây thừng (Pasa) dùng để dẫn dắt và ràng buộc các linh hồn kiềm chế niềm đam mê và dục vọng, ngăn ngừa ma quỷ làm hại.
Bên trái từ trên xuống, tay đầu tiên chưa xác định được biểu tượng rơ ràng, có thể là Chamara. Tay giữa thần cầm biểu tượng dùi quản tượng (Ankusa) được thần Indra (Thần sấm sét) cho để thúc voi. Tay dưới cùng cầm cái bát (Laddus) đựng thức ăn ngọt.
Tượng hiếm bằng kim loại
Các chuyên gia khảo cổ khẳng định, thần Ganesha gần như luôn được mô tả là đang cầm thức ăn ngọt. Tính thèm ăn đồ ăn ngọt của thần đă trở nên nổi tiếng và trên điện thờ luôn có các món này.
Trên mỗi cổ tay và bắp tay, cổ chân có đeo đồ trang sức. Ngực nở, bụng to phệ, ḿnh đeo rắn Naduki vắt chéo từ vai trái xuống hông phải, đầu rắn quay về phía trước – một dấu hiệu thường thấy ở các tượng thần Shiva. Thần mặc Sampot dài quá gối có thân buông xuống phía trước, thắt lưng được buộc lại bằng một loại khoá chạm khắc thành h́nh dải nơ cầu ḱ trước bụng.
Ở Đông Nam Á, tại các vương quốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ như Champa, Phù Nam, Campuchia, Thái Lan tượng thần Ganesha được thờ rất phổ biến, chủ yếu được làm bằng chất liệu đá, rất hiếm gặp tượng được làm bằng kim loại.
Qua nghiên cứu về phong cách thể hiện ở mũ miện cũng như trang phục và so sánh với một số tượng Ganesha bằng chất liệu kim loại tại Bảo tàng quốc gia Campuchia, các nhà khảo cổ Việt Nam nhận định tượng thần Ganesha thuộc văn hóa Khmer, có niên đại khoảng thế kỷ 17 - 18.
So sánh với tượng Ganesha Champa, Óc Eo đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu thấy có sự khác biệt trong phong cách thể hiện. Ở Ganesha của Champa có thân h́nh cân đối, vạm vỡ, trán bằng, tai nhỏ, đầu đội mũ Kirita-Mukuta nhưng nét chạm khắc đơn giản hơn.
Đặc biệt, bức tượng không đi sâu vào thể hiện chi tiết, đường nét, mà thiên về mỹ thuật trang trí, trang sức: Mũ, đồ trang sức thần đeo được chạm nổi cầu ḱ, thể hiện rơ nét, y phục thể hiện theo kiểu Sampot, từ vị trí của khóa dây nịt có hai dải nơ.
Đối với tượng Ganesha của Óc Eo th́ cơ thể khá hiện thực với cái bụng to tṛn, ph́nh lớn, lỗ rốn sâu, trán dô. Đường nét của các chi tiết đầu, ṿi, tay, đôi tai x̣e rộng, đôi vai ngang được tả thực mềm mại. Mặc sampot ngắn trên gối, được cuốn lại và giắt dưới rốn phía trước, tạo thành một tua rua h́nh đuôi cá.
Theo các chuyên gia thuộc Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh: Ganesha là vị phúc thần rất được tín đồ Hindu sùng bái. Nguồn gốc của thần được đề cập nhiều trong những bộ kinh Hindu, trong số đó th́ điển tích được nhiều người biết đến nhất là trong bộ kinh Purana Shiva.
Vị thần hạnh phúc
Bộ kinh Purana Shiva miêu tả rằng, Ganesha là con trai của nữ thần Parvati và Shiva, nhưng chỉ do ḿnh nữ thần Parvati tạo ra. Trong một lần nữ thần Parvati tắm, để đảm bảo cho sự riêng tư của ḿnh th́ nữ thần đă lấy những chất bẩn từ cơ thể để tạo ra một cậu bé khôi ngô và bảo cậu bé canh cho ḿnh tắm.
Thần Shiva trở về nhà và đi vào thăm vợ, bất ngờ bị một cậu bé ngăn cản. Thần Shiva không biết đó là con trai của ḿnh nên đă tức giận và chém đầu cậu. Khi Parvati tắm xong, thấy con trai ḿnh bị mất đầu đă rất đau khổ và giận chồng.
Thần Shiva sai đoàn tùy tùng của ḿnh (gana) đi bắt về một sinh vật đang ngủ mà mặt quay về hướng Bắc. Đoàn tùy tùng đă đem về một con voi. Thần Shiva lấy đầu con voi ấy để bù vào cho con trai và thổi sự sống vào. Kết quả là thần Ganesha có dạng ḿnh người đầu voi và Shiva đă giao cho con trai nhiệm vụ lănh đạo (pati) đoàn tùy tùng kia (v́ thế mà Ganesha c̣n được gọi là Ganapati).
Ganesha (Ganapati) tượng trưng “cho sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ”, là vị thần hạnh phúc, bảo vệ và loại bỏ những trở ngại, đáp ứng những điều may mắn, cát tường cho mọi lời cầu nguyện.
Bức tượng thần Ganesha mà Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh đang lưu giữ là hiện vật bằng kim loại, mang số kiểm kê BTLS.8947. Tượng do Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh chuyển giao vào năm 1988. Và từ đó đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đă cố giải đáp các thông điệp cũng như ư nghĩa tôn giáo ẩn chứa trong đó.
Theo đo đạc của các nhà nghiên cứu, bức tượng cao 18 cm, ngang 13 cm, thể hiện thần Ganesha trong tư thế đứng trên bệ h́nh chữ nhật, hai chân rộng bằng vai. Đầu đội mũ miện, gồm hai bộ phận: Phần chỏm mũ h́nh chóp nhọn, phía dưới là một vành miện rộng chạm h́nh răng cưa, phía trên h́nh cánh hoa sen. Tai x̣e rộng ngang vai, trán dồ, mắt mở to, ṿi tả thực mềm mại, vểnh cao về bên phải, được thể hiện có một ngà trái.
Tượng có 6 cánh tay: 3 cánh tay bên phải đối xứng với 3 cánh tay bên trái. Trên mỗi tay cầm một biểu tượng khác nhau. Bên phải từ trên xuống, tay đầu tiên có thể là một chiếc ngà? (Bhagnadanta) của thần.
Vốn là vị thần học vấn, Ganesha được xem là đă bẻ đi chiếc ngà của ḿnh để viết thiên sử thi Mahabharata. Tay giữa thần cầm ốc tù và (Shankha) tượng trưng cho tiếng “Om” rung động cơ bản để từ đó mà có sáng tạo.
Ganesha sử dụng nó để gọi những người theo thần đến và cầu nguyện. Ốc tù và thường được thổi để công bố sự khởi đầu của một nghi lễ, một kỷ niệm và vào lúc b́nh minh của ngày. Tay dưới cùng cầm biểu tượng dây thừng (Pasa) dùng để dẫn dắt và ràng buộc các linh hồn kiềm chế niềm đam mê và dục vọng, ngăn ngừa ma quỷ làm hại.
Bên trái từ trên xuống, tay đầu tiên chưa xác định được biểu tượng rơ ràng, có thể là Chamara. Tay giữa thần cầm biểu tượng dùi quản tượng (Ankusa) được thần Indra (Thần sấm sét) cho để thúc voi. Tay dưới cùng cầm cái bát (Laddus) đựng thức ăn ngọt.
Tượng hiếm bằng kim loại
Các chuyên gia khảo cổ khẳng định, thần Ganesha gần như luôn được mô tả là đang cầm thức ăn ngọt. Tính thèm ăn đồ ăn ngọt của thần đă trở nên nổi tiếng và trên điện thờ luôn có các món này.
Trên mỗi cổ tay và bắp tay, cổ chân có đeo đồ trang sức. Ngực nở, bụng to phệ, ḿnh đeo rắn Naduki vắt chéo từ vai trái xuống hông phải, đầu rắn quay về phía trước – một dấu hiệu thường thấy ở các tượng thần Shiva. Thần mặc Sampot dài quá gối có thân buông xuống phía trước, thắt lưng được buộc lại bằng một loại khoá chạm khắc thành h́nh dải nơ cầu ḱ trước bụng.
Ở Đông Nam Á, tại các vương quốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ như Champa, Phù Nam, Campuchia, Thái Lan tượng thần Ganesha được thờ rất phổ biến, chủ yếu được làm bằng chất liệu đá, rất hiếm gặp tượng được làm bằng kim loại.
Qua nghiên cứu về phong cách thể hiện ở mũ miện cũng như trang phục và so sánh với một số tượng Ganesha bằng chất liệu kim loại tại Bảo tàng quốc gia Campuchia, các nhà khảo cổ Việt Nam nhận định tượng thần Ganesha thuộc văn hóa Khmer, có niên đại khoảng thế kỷ 17 - 18.
So sánh với tượng Ganesha Champa, Óc Eo đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu thấy có sự khác biệt trong phong cách thể hiện. Ở Ganesha của Champa có thân h́nh cân đối, vạm vỡ, trán bằng, tai nhỏ, đầu đội mũ Kirita-Mukuta nhưng nét chạm khắc đơn giản hơn.
Đặc biệt, bức tượng không đi sâu vào thể hiện chi tiết, đường nét, mà thiên về mỹ thuật trang trí, trang sức: Mũ, đồ trang sức thần đeo được chạm nổi cầu ḱ, thể hiện rơ nét, y phục thể hiện theo kiểu Sampot, từ vị trí của khóa dây nịt có hai dải nơ.
Đối với tượng Ganesha của Óc Eo th́ cơ thể khá hiện thực với cái bụng to tṛn, ph́nh lớn, lỗ rốn sâu, trán dô. Đường nét của các chi tiết đầu, ṿi, tay, đôi tai x̣e rộng, đôi vai ngang được tả thực mềm mại. Mặc sampot ngắn trên gối, được cuốn lại và giắt dưới rốn phía trước, tạo thành một tua rua h́nh đuôi cá.