florida80
12-31-2021, 21:17
Trong lễ nghi*truyền thống của người xưa, từ cách ăn, cách đi, đứng, ngồi,*mỗi cử chỉ đều phải tuân theo các*nguyên tắc, chuẩn mực vô cùng chi tiết.
Mỗi hành vi cử chỉ của một người sẽ phản ánh ra sự tu dưỡng của bản thân người đó. Cách ăn nói và hành vi thanh cao, nhă nhặn không chỉ khắc sâu ấn tượng trong tâm chí người khác mà c̣n đem lại nhiều cơ hội, thành công cho bản thân. Để được như vậy, đ̣i hỏi mỗi người phải có sự rèn luyện lễ nghi truyền thống trong cuộc sống hàng ngày.
Trong tài liệu vỡ ḷng về lễ nghi “Đệ Tử quy” có dạy rằng: “Bộ ṭng dung, lập đoan chính, ấp thâm viên, bái cung kính, vật tiễn quắc, vật bả ỷ, vật ki cứ, vật diêu bễ” , tức là: Đi thong thả, đứng ngay chính, cúi chào sâu, bái cung kính, chớ đạp thềm,*không đứng nghiêng, chớ ngồi dạng chân, không rung đùi. Tục ngữ cũng có câu: “Trạm hữu trạm tướng, tọa hữu tọa tướng”, tức là đứng có tướng đứng, ngồi có tướng ngồi.
(Tranh minh họa: Bảo tàng Cố Cung Quốc gia Đài Loan, Public Domain)
Cử chỉ và dáng điệu của một người mà ngay chính, có lễ, th́ có thể nói lên người ấy là có giáo dưỡng, đồng thời cũng*lưu lại cho người tiếp xúc một sự tin tưởng,*một ấn tượng tốt. Trái lại, một người có những hành vi cử chỉ thô lỗ, thất lễ, không tập trung và lỗ măng sẽ chỉ ra rằng người ấy là không có giáo dưỡng, sẽ gây cho người tiếp xúc một sự phản cảm và coi thường.
Cổ ngữ có câu: “Trạm như tùng, tọa như chung”, tức là đứng như cây tùng, ngồi*như chuông. Đây được xem là yêu cầu cơ bản nhất về tư thế ngồi và đứng của một người. Bất kể là trong Nho giáo, hay trong văn hóa tu luyện của Đạo gia, “trạm như tùng” không chỉ có hàm nghĩa là đứng thẳng, mà c̣n có hàm ư đạo đức sâu xa. Yêu cầu của đứng, chính là đứng thẳng như có gốc, mạnh mẽ kiên cường, không ai có thể lay động được. “Tọa như chung”, người xưa cho dù là*ngồi trên chiếu trải dưới đất, hay là ngồi trên giường, trong trạng thái b́nh thường mọi người đều ngồi ở tư thế an tọa (ngồi thẳng người).
Đứng có tướng đứng
Một người b́nh thường khi đứng, yêu cầu phải có tư thế ngay ngắn, nghiêm chỉnh, đoan trang, vững chăi và tự nhiên. Cụ thể là thân trên phải thẳng, đầu thẳng, vẻ mặt tươi cười, cằm thu, bả vai ngang bằng, ngực ưỡn tự nhiên, lưng thẳng, bụng hóp, trọng tâm của cơ thể dồn vào chính giữa hai chân. Từ h́nh dáng tổng thể, tư thế đứng như cây tùng h́nh thành nên một tư thế cao và thẳng, mạnh mẽ, kiên cường, sức sống sung măn. Tư thế đứng không ngay ngắn, hai chân mở rộng quá lớn, vắt chéo chân khi đứng*một cách tùy tiện bị coi là không chuẩn mực, thất lễ.
Nếu đứng thẳng quá lâu th́ có thể luân phiên thay đổi trọng tâm vào chân trái hoặc chân phải, lúc ấy một chân sẽ lùi lại phía sau một bước, nhưng thân trên vẫn phải giữ thẳng,*khoảng cách giữa hai chân không thể quá xa nhau, nghiêng lệch. Đó là tư thế “Vật bả ỷ” (Đứng nghiêng lệch).
Ngồi có tướng ngồi
B́nh thường, người xưa khi ngồi cũng đ̣i hỏi phải có “tướng ngồi”. “Tướng ngồi” yêu cầu thân trên phải bảo tŕ ngay ngắn, đầu thẳng, mắt nh́n thẳng phía trước hoặc nh́n sang đối phương khi đang tṛ chuyện. Nếu ngồi trên ghế, hai tay buông lỏng tự nhiên, đặt ở trên đùi, hai chân gấp khúc tự nhiên, cẳng chân vuông góc với mặt đất, bàn chân để bằng trên mặt đất. Thông thường khi ngồi trên chiếu, người xưa thường ngồi theo tư thế an tọa.
Trong những trường hợp trang trọng, khi ngồi trên ghế, người nam có thể mở chân ra một khoảng thích hợp, nhưng người nữ th́ khép chân lại. Trong trường hợp không trang trọng hoặc ngồi quá lâu, có thể cho phép thay đổi tư thế chân. Khi ngồi, ngoài việc phải ngay ngắn, đoan trang th́ c̣n phải thoải mái, tự nhiên, phóng khoáng, lộ ra vẻ khiêm tốn, cung kính. Đây cũng được coi là người có giáo dưỡng.
Đi có tướng đi
Cúi đầu, khom lưng và đi h́nh chữ bát không chỉ là tướng đi khó coi, mà c̣n ảnh hưởng lớn đến đại năo của một người. Đi đường với tư thế ngẩng đầu, lưng thẳng, ưỡn ngực tự nhiên có lợi cho việc lưu thông khí huyết và giúp cho đại năo được nghỉ ngơi. Tư thế đi khom lưng sẽ khiến cho các kinh mạch trong cơ thể không được hoạt động thông suốt và nghỉ ngơi một cách tốt nhất.
Tư thế đi chữ bát làm*ảnh hưởng đến việc lưu thông máu đến các cơ quan nội tạng trong thân thể, ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho năo. Tư thế đi cổ vẹo, vai nghiêng sẽ ảnh hưởng đến vận hành khí huyết trong đốc mạch, tạo thành khí huyết không thông, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tướng đi chính xác là hai mắt nh́n thẳng về phía trước, ngẩng đầu, cổ thẳng, ngực ưỡn tự nhiên, lưng thẳng, hóp bụng, mông đẩy về*phía sau. Khi đi phải thong dong, không quá vội, không quá chậm, tự nhiên phóng khoáng.
Khi đi đường, gặp người lớn phải bước nhanh về phía trước, thể hiện ḷng tôn kính của bản thân đối với*họ, thể hiện vẻ*mừng rỡ khi gặp họ. Khi cáo lui người lớn, phải thong thả thoái lui, thể hiện ḷng kính trọng và ư tứ “không muốn rời xa”.
Khi vào pḥng trống, phải tự nhắc nhở bản thân: “Vào pḥng trống, như có người”, biểu thị rằng tuy là ở trong pḥng không có người nhưng vẫn phải giữ lễ nghi và cẩn trọng như có người khác đang ở trong pḥng.
Trong lễ nghi truyền thống, khi đứng và ngồi cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc “Trường giả lập, ấu vật tọa, trường giả tọa, mệnh năi tọa”, ư là: Người lớn đứng, trẻ chớ ngồi, người lớn ngồi, cho phép ngồi. Tức là phải tuân thủ theo phép tắc lớn nhỏ có tôn ti trật tự. Đó mới được xem là người hiểu lễ.
Mỗi hành vi cử chỉ của một người sẽ phản ánh ra sự tu dưỡng của bản thân người đó. Cách ăn nói và hành vi thanh cao, nhă nhặn không chỉ khắc sâu ấn tượng trong tâm chí người khác mà c̣n đem lại nhiều cơ hội, thành công cho bản thân. Để được như vậy, đ̣i hỏi mỗi người phải có sự rèn luyện lễ nghi truyền thống trong cuộc sống hàng ngày.
Trong tài liệu vỡ ḷng về lễ nghi “Đệ Tử quy” có dạy rằng: “Bộ ṭng dung, lập đoan chính, ấp thâm viên, bái cung kính, vật tiễn quắc, vật bả ỷ, vật ki cứ, vật diêu bễ” , tức là: Đi thong thả, đứng ngay chính, cúi chào sâu, bái cung kính, chớ đạp thềm,*không đứng nghiêng, chớ ngồi dạng chân, không rung đùi. Tục ngữ cũng có câu: “Trạm hữu trạm tướng, tọa hữu tọa tướng”, tức là đứng có tướng đứng, ngồi có tướng ngồi.
(Tranh minh họa: Bảo tàng Cố Cung Quốc gia Đài Loan, Public Domain)
Cử chỉ và dáng điệu của một người mà ngay chính, có lễ, th́ có thể nói lên người ấy là có giáo dưỡng, đồng thời cũng*lưu lại cho người tiếp xúc một sự tin tưởng,*một ấn tượng tốt. Trái lại, một người có những hành vi cử chỉ thô lỗ, thất lễ, không tập trung và lỗ măng sẽ chỉ ra rằng người ấy là không có giáo dưỡng, sẽ gây cho người tiếp xúc một sự phản cảm và coi thường.
Cổ ngữ có câu: “Trạm như tùng, tọa như chung”, tức là đứng như cây tùng, ngồi*như chuông. Đây được xem là yêu cầu cơ bản nhất về tư thế ngồi và đứng của một người. Bất kể là trong Nho giáo, hay trong văn hóa tu luyện của Đạo gia, “trạm như tùng” không chỉ có hàm nghĩa là đứng thẳng, mà c̣n có hàm ư đạo đức sâu xa. Yêu cầu của đứng, chính là đứng thẳng như có gốc, mạnh mẽ kiên cường, không ai có thể lay động được. “Tọa như chung”, người xưa cho dù là*ngồi trên chiếu trải dưới đất, hay là ngồi trên giường, trong trạng thái b́nh thường mọi người đều ngồi ở tư thế an tọa (ngồi thẳng người).
Đứng có tướng đứng
Một người b́nh thường khi đứng, yêu cầu phải có tư thế ngay ngắn, nghiêm chỉnh, đoan trang, vững chăi và tự nhiên. Cụ thể là thân trên phải thẳng, đầu thẳng, vẻ mặt tươi cười, cằm thu, bả vai ngang bằng, ngực ưỡn tự nhiên, lưng thẳng, bụng hóp, trọng tâm của cơ thể dồn vào chính giữa hai chân. Từ h́nh dáng tổng thể, tư thế đứng như cây tùng h́nh thành nên một tư thế cao và thẳng, mạnh mẽ, kiên cường, sức sống sung măn. Tư thế đứng không ngay ngắn, hai chân mở rộng quá lớn, vắt chéo chân khi đứng*một cách tùy tiện bị coi là không chuẩn mực, thất lễ.
Nếu đứng thẳng quá lâu th́ có thể luân phiên thay đổi trọng tâm vào chân trái hoặc chân phải, lúc ấy một chân sẽ lùi lại phía sau một bước, nhưng thân trên vẫn phải giữ thẳng,*khoảng cách giữa hai chân không thể quá xa nhau, nghiêng lệch. Đó là tư thế “Vật bả ỷ” (Đứng nghiêng lệch).
Ngồi có tướng ngồi
B́nh thường, người xưa khi ngồi cũng đ̣i hỏi phải có “tướng ngồi”. “Tướng ngồi” yêu cầu thân trên phải bảo tŕ ngay ngắn, đầu thẳng, mắt nh́n thẳng phía trước hoặc nh́n sang đối phương khi đang tṛ chuyện. Nếu ngồi trên ghế, hai tay buông lỏng tự nhiên, đặt ở trên đùi, hai chân gấp khúc tự nhiên, cẳng chân vuông góc với mặt đất, bàn chân để bằng trên mặt đất. Thông thường khi ngồi trên chiếu, người xưa thường ngồi theo tư thế an tọa.
Trong những trường hợp trang trọng, khi ngồi trên ghế, người nam có thể mở chân ra một khoảng thích hợp, nhưng người nữ th́ khép chân lại. Trong trường hợp không trang trọng hoặc ngồi quá lâu, có thể cho phép thay đổi tư thế chân. Khi ngồi, ngoài việc phải ngay ngắn, đoan trang th́ c̣n phải thoải mái, tự nhiên, phóng khoáng, lộ ra vẻ khiêm tốn, cung kính. Đây cũng được coi là người có giáo dưỡng.
Đi có tướng đi
Cúi đầu, khom lưng và đi h́nh chữ bát không chỉ là tướng đi khó coi, mà c̣n ảnh hưởng lớn đến đại năo của một người. Đi đường với tư thế ngẩng đầu, lưng thẳng, ưỡn ngực tự nhiên có lợi cho việc lưu thông khí huyết và giúp cho đại năo được nghỉ ngơi. Tư thế đi khom lưng sẽ khiến cho các kinh mạch trong cơ thể không được hoạt động thông suốt và nghỉ ngơi một cách tốt nhất.
Tư thế đi chữ bát làm*ảnh hưởng đến việc lưu thông máu đến các cơ quan nội tạng trong thân thể, ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho năo. Tư thế đi cổ vẹo, vai nghiêng sẽ ảnh hưởng đến vận hành khí huyết trong đốc mạch, tạo thành khí huyết không thông, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tướng đi chính xác là hai mắt nh́n thẳng về phía trước, ngẩng đầu, cổ thẳng, ngực ưỡn tự nhiên, lưng thẳng, hóp bụng, mông đẩy về*phía sau. Khi đi phải thong dong, không quá vội, không quá chậm, tự nhiên phóng khoáng.
Khi đi đường, gặp người lớn phải bước nhanh về phía trước, thể hiện ḷng tôn kính của bản thân đối với*họ, thể hiện vẻ*mừng rỡ khi gặp họ. Khi cáo lui người lớn, phải thong thả thoái lui, thể hiện ḷng kính trọng và ư tứ “không muốn rời xa”.
Khi vào pḥng trống, phải tự nhắc nhở bản thân: “Vào pḥng trống, như có người”, biểu thị rằng tuy là ở trong pḥng không có người nhưng vẫn phải giữ lễ nghi và cẩn trọng như có người khác đang ở trong pḥng.
Trong lễ nghi truyền thống, khi đứng và ngồi cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc “Trường giả lập, ấu vật tọa, trường giả tọa, mệnh năi tọa”, ư là: Người lớn đứng, trẻ chớ ngồi, người lớn ngồi, cho phép ngồi. Tức là phải tuân thủ theo phép tắc lớn nhỏ có tôn ti trật tự. Đó mới được xem là người hiểu lễ.