goodidea
01-11-2022, 02:52
“Có những thứ từng là ‘chân lư’ của bạn, nhưng nó chưa bao giờ đúng. Chỉ đơn giản là nó được bạn rút tỉa từ những kinh nghiệm thiếu cơ sở… mà bạn không nhận ra”.
Ngày xửa ngày xưa, có một ông thầy giáo khôn ngoan và giàu kinh nghiệm. Ông muốn truyền cho một trong số các học tṛ của ḿnh các bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và thịnh vượng. Vốn biết những khó khăn và rào cản quá nặng nề mà nhiều người gặp phải trên con đường mưu cầu hạnh phúc, ông nghĩ rằng bài học đầu tiên là nên giải thích cho mọi ngựi hiểu v́ sao nhiều người chỉ sống cuộc đời b́nh b́nh và tầm thường.
Xét cho cùng, ông giáo nghĩ, có quá nhiều người, cả nam lẫn nữ dường như không thể vượt qua các trở ngại ngăn cản họ thành công và đành bằng ḷng sống một cuộc đời thiếu hụt và khốn khó. Ông giáo biết rằng để một người trẻ tuổi lănh hội được bài học rất quan trọng này, người đó nên tận mắt chứng kiến chuyện ǵ sẽ xảy ra nếu chúng ta cho phép sự tầm thường chi phối cuộc đời ḿnh.
https://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1975104&stc=1&d=1641869563
Để dạy được những bài học quan trọng này, ông giáo quyết định cùng vói người học tṛ của ḿnh lên đường đi đến một ngôi làng nghèo khổ trong vùng. Cảnh khổ đau và hoang tàn bày ra khắp nơi, và cư dân ở đó có vẻ như đă phó thác cuộc đời ḿnh cho số mệnh.
Ngay khi đến nơi, ông giáo yêu cầu ngựi học tṛ t́m giúp ḿnh một gia đ́nh nghèo nhất trong khu vực. Đó sẽ là nơi họ tạm trú qua đêm. Đi bộ một lúc th́ họ ra đến ŕa thị trấn. Và ở đó, giữa mênh mông, hai người dừng chân trước một căn lều nhỏ tồi tàn rệu ră nhất mà họ từng nh́n thấy.
Cái cấu trúc sắp sụp đổ này nằm ở ngoài ŕa xa nhất của một nhóm nhỏ vài căn nhà vùng thôn quê. Hiển nhiên là căn lều này thuộc về một gia đ́nh nghèo khó nhất làng. Những bức vách đứng đó như chỉ nhờ vào phép lạ, đe dọa sẽ sụp đổ bất cứ lúc nào. Nước thấm qua cái mái nhà tạm bợ vốn trông chẳng có sức đâu mà che chắn được thứ ǵ, và đủ mọi thứ rác rưởi được gom góp lại chất dựa vào các bức vách của ngôi nhà càng làm tăng thêm vẻ rệu ră.
Chủ nhà được một chú nhóc con báo động về sự có mặt của hai vị khách lạ, đă bước ra và chào đón nhiệt t́nh.
“Xin chào, ông bạn quư!”
Ông giáo đáp lễ: “Không biết ông có vui ḷng cho hai kẻ bộ hành mệt lả này tá túc một đêm ở đây không?”
“Ở đây chật chội lắm, nhưng nếu các vị không ngại ǵ th́ chúng tôi xin mời”.
Khi hai thầy tṛ bước vào trong, họ thật sự sốc khi nh́n thấy một không gian tí tẹo, không rộng hơn mười lăm thước vuông, là nơi ở của tám con người. Bố, mẹ, bốn đứa con và hai ông bà cụ cố gắng hết sức để nhường mỗi người một chút khoảng trống trong t́nh trạng tù túng chật hẹp này. Những thân h́nh nhếch nhác và gầy g̣ một cách đau đớn cùng với quần áo rách rưới là bằng chứng rơ ràng của sự thiếu thốn phô bày cuộc sống hằng ngày của họ. Những gương mặt buồn bă và dáng vẻ ḷm kḥm cho thấy rơ sự bần cùng không chỉ đă chiếm lĩnh cơ thể họ, mà c̣n ăn sâu vào tâm hồn họ.
Hai vị khách không cưỡng được cái nh́n xung quanh, trong ḷng tự hỏi liệu trong cái nơi khốn cùng này c̣n có thứ ǵ đáng giá không. Chả có ǵ!
Tuy nhiên, khi bước ra ngoài, họ mới nhận ra ḿnh đă lầm. Thật đáng kinh ngạc v́ gia đ́nh này c̣n có một thứ tài sản bất thường – khá đặc biệt trong hoàn cảnh này…một con ḅ.
Con ḅ th́ chẳng có ǵ đáng nói, nhưng cuộc sống và hoạt động hàng ngày của họ có vẻ như chỉ xoay quanh con vật này.
“Cho ḅ ăn đi”.
“Đừng để nó khát”.
“Buộc nó lại cho chắc”.
“Đừng quên dẫn nó đi ăn”.
“Vắt sữa ḅ đi!”.
Vậy đó, ta có thể thấy con ḅ giữ một vai tṛ quan trọng trong gia đ́nh này, mặc dù chút sữa ít ỏi do nó cung cấp chỉ đủ để họ sống vật vă qua ngày. Tuy nhiên, con ḅ có vẻ phục vụ một mục đích lớn hơn: Nó là thứ duy nhất giữ cho họ khỏi rơi vào đường cùng.
Ở một nơi mà mọi thứ đều khan hiếm, việc sở hữu một tài sản có giá trị như vậy đă mang lại cho họ sự ngưỡng mộ, nếu không muốn nói là sự ghen tị, từ những người hàng xóm. Và ở nơi đó – trong chỗ bẩn thỉu và nháo nhác đó – hai thầy tṛ đă đặt lưng xuống nghỉ qua đêm.
Sáng hôm sau, trước khi b́nh minh kịp ló dạng, hai thầy tṛ lặng lẽ lên đường một cách thận trọng để không đánh thức những người khác. Người học tṛ nh́n lại, như muốn một lần nữa ghi nhận vào tâm khảm khung cảnh tồi tàn đó. Từ trong thâm tâm, anh hoàn toàn không hiểu được v́ sao thầy lại dẫn ḿnh đến đây.
Tuy nhiên, trước khi ra đến đường cái, ông giáo già th́ thầm:
“Đă đến lúc cho con biết cái ǵ đă đưa chúng ta đến cái nơi tồi tàn này”.
Trong chuyến viếng thăm ngắn ngủi của ḿnh, họ đă chứng kiến một cuộc sống hầu như hoàn toàn bị ruồng bỏ, nhưng người học tṛ vẫn chưa hiểu được lư do khiến gia đ́nh đó lại sống cực khổ đến vậy. V́ sao họ lại ra nông nỗi này? Điều ǵ đă buộc họ phải ở lại đây?
Ông giáo đi chầm chậm về phía con ḅ đang bị buộc vào một cái cột hàng rào lung lay cách căn nhà chưa đầy hai mươi thước. Khi c̣n cách con ḅ khoảng một bước chân, ông giáo già rút ra một con dao găm mà ông mang theo bên ḿnh. Người học tṛ cảm thấy hoang mang. Khi ông giáo giơ tay lên, anh như chết điếng khi nhận ra điều thầy ḿnh sắp làm. Anh ta hầu như không tin vào mắt ḿnh khi ông giáo già đưa lưỡi dao cứa ngọt một đường ngang cổ con ḅ. Vết cắt chí mạng làm cho con vật ngă quỵ.
“Nh́n xem thầy đă làm ǵ?”, anh đau đớn hỏi ông giáo bằng một giọng th́ thầm v́ sợ đánh thức mọi người. “Làm sao thầy lại có thể giết chết con vật tội nghiệp đó chứ? Đây là loại bài học ǵ mà có thể khiến cho gia đ́nh đó phải lâm vào cảnh suy sụp hoàn toàn? Đây là tất cả những ǵ họ có. Rồi họ sẽ ra sao?”
Chẳng chút xao động vói thái độ đau khổ của người học tṛ và làm ngơ trước những thắc mắc của anh ta, ông giáo bỏ đi, để lại cảnh tượng hăi hùng phía sau, bàng quang trước thảm cảnh mà gia đ́nh đó sẽ phải đối mặt khi mà họ đă mất đi con ḅ. Anh học tṛ bước theo sau, trong ḷng vẫn c̣n nhiều khúc mắc, và họ tiếp tục lên đường.
C̣n cái gia đ́nh đó bị buộc phải đối mặt vói một t́nh trạng bấp bênh, đầy rẫy những khó khăn và khả năng bần cùng hơn nữa. Trong suốt những ngày sau đó, anh học tṛ bị ám ảnh không thôi v́ ư nghĩ khủng khiếp rằng cả gia đ́nh đó sẽ chết đói hết nếu họ không có con ḅ. Liệu anh c̣n có thể rút ra kết luận nào khác từ sự mất mát nguồn sống duy nhất của họ? Trong nhiều tháng sau, anh lúc nào cũng ray rứt với những ư nghĩ này và với cảnh tưọng của buổi sáng đau buồn hôm ấy.
Một năm qua đi và một buổi chiều nọ, ông giáo già gợi ư họ trở lại ngôi làng đó xem thử chuyện ǵ đă xảy ra với gia đ́nh kia. Chỉ một gợi ư nhỏ về một sự kiện dường như đă đi vào quên lăng nhưng cũng đủ để đánh thức trong ḷng người học tṛ cái kư ức sống động về bài học mà, cho đến tận bây giờ, anh vẫn không thể nào hiểu hết.
Một lần nữa, đầu óc anh học tṛ lại ch́m ngập trong những suy nghĩ về gia đ́nh khốn khổ kia và vai tṛ mà anh đă tham gia trong phần số của họ. Chuyện ǵ đă xảy ra với họ? Họ có sống sót qua cái đ̣n nặng nề đó không? Họ có bắt đầu nổi một cuộc sống mới không? Liệu ḿnh có thể giáp mặt với họ sau những ǵ mà thầy đă làm?
Mặc cho những ư nghĩ rối beng trong đầu, người học tṛ bất đắc dĩ nhận lời và miễn cưỡng tham dự chuyến đi có thể làm sáng tỏ sự việc đă khiến anh phải khốn khổ cả năm qua.
Sau nhiều ngày, hai người đến ngôi làng cũ. Họ t́m kiếm căn lều năm trước trong vô vọng. Cảnh vật xung quanh trông vẫn như xưa, nhưng chẳng thấy bóng dáng cái nơi tồi tàn mà họ đă qua đêm ngày ấy đâu cả, thay vào đó là một căn nhà xinh xắn vừa mới được xây dụng trên nền đất cũ. Họ dừng chân và hết nh́n ngược lại nh́n xuôi để biết chắc ḿnh đă đến đúng chỗ.
Người học tṛ lo ngại rằng cái chết của con ḅ là một đ̣n giáng quá mạnh khiến một gia đ́nh trơ trụi như họ không thể nào qua nổi. Có lẽ họ đă bị buộc phải bỏ đi và một gia đ́nh khác khá giả hơn đă may mắn làm chủ mảnh đất và dựng nên ngôi nhà mới này. C̣n khả năng nào khác đâu chứ? Chắc hẳn sự xấu hổ đă khiến họ phải tha hương.
Trong lúc những ư nghĩ đó đang lẩn quẩn trong đầu, anh học tṛ cứ lưỡng lự giữa ư muốn biết chuyện ǵ đă xảy ra cho gia đ́nh nọ và việc mặc kệ họ để tiếp tục lên đường, né tránh cái việc chẳng thú vị ǵ là xác minh sự nghi ngờ tồi tệ trong đầu ḿnh, nhưng cuối cùng anh quyết định khám phá – ḿnh cần phải biết, cho nên anh gơ cửa ngôi nhà và đứng đợi.
Trong chốc lát, một người đàn ông vui vẻ từ trong nhà bước ra. Thoạt tiên anh học tṛ không nhận ra ông ta. Nhưng rồi anh không thể giấu được vẻ thảng thốt khi nhận ra đó chính là người đă cho họ ngủ trọ năm ngoái. Hiển nhiên cùng là một người, nhưng có cái ǵ đó rất khác lạ ở con người này.
Ông ta mặc quần áo sạch sẽ và chải chuốt gọn gàng. Ông ta có nụ cười trên đôi môi và sự linh lợi trong đôi mắt. Rơ ràng đă xảy ra một điều ǵ đó có ư nghĩa to lớn trong đời ông ta. Người thanh niên gần như không tin vào mắt ḿnh. Làm sao lại có thể như thế? Liệu chuyện ǵ có thể xảy ra chỉ trong thời gian một năm? Anh ta bổ nhào lại chào hỏi người đàn ông nọ và ngay lập tức “truy vấn” ông ta về vận may nào đă đến với ông và gia đ́nh.
“Chỉ năm ngoái, khi chúng tôi ghé qua đây…”, anh nói, “… các ông dường như đang sống trong t́nh trạng bất hạnh và vô vọng. Hăy cho tôi biết đă xảy ra chuyện ǵ làm các ông thay đổi nhiều như thế. Điều ǵ đă khiến các ông gặp may đến vậy?”
Không đếm xỉa ǵ đến việc chính hai người khách này đă là thủ phạm giết con ḅ, người đàn ông mời họ vào nhà và bắt đầu kể câu chuyện ly kỳ của gia đ́nh ḿnh.
Câu chuyện sẽ làm thay đổi cuộc đời anh bạn trẻ của chúng ta măi măi.
Ông chủ nhà kể rằng thật là một sự trùng hợp kỳ lạ, khi ngay cái ngày mà hai thầy tṛ rời đi, không biết kẻ bất lương nào do ganh ghét với tài sản hiếm hoi của gia đ́nh ông, đă nhẫn tâm cắt cổ con vật tội nghiệp đó.
“Tôi phải thừa nhận rằng…”, người đàn ông nói, ” … phản ứng đầu tiên của chúng tôi là vô cùng tuyệt vọng và đau khổ. Trong suốt một thời gian dài, sữa của con ḅ đó là nguồn sống duy nhất của chúng tôi. Hơn nữa, nó c̣n là tài sản duy nhất mà chúng tôi có; cuộc sống của chúng tôi phụ thuộc vào nó. Con ḅ đó là tâm điểm cho sự tồn tại hằng ngày của chúng tôi, nói thật ḷng, việc có được con vật ấy tạo cho chúng tôi một cảm giác an toàn và mang lại cho chúng tôi sự ngưỡng mộ từ hàng xóm…”
“… Không lâu sau cái ngày bi đát ấy, chúng tôi nhận ra rằng nếu không làm một cái ǵ đó, chúng tôi chỉ có thể rơi vào t́nh huống tệ hại hơn. Chúng tôi đă xuống tới đáy cuộc đời khi mất đi con vật ấy. Chúng tôi cũng cần phải ăn và nuôi nấng con cái nữa. Và rồi chúng tôi phát hoang một miếng đất phía sau nhà, gieo vài hạt rau củ quả. Đó là cách mà chúng tôi sống qua ngày trong vài tháng đầu”.
“… Một thời gian sau, chúng tôi nhận thấy rằng mảnh vườn đó cung cấp nhiều lương thực hơn mức chúng tôi cần. Nếu có thể bán cho những người xung quanh, chúng tôi có thể mua thêm hạt giống. Thế là, không lâu sau, chúng tôi không những đủ ăn mà c̣n có thể đem ra chợ bán”.
” … Và rồi điều đó xảy ra!”, người đàn ông hồ hỏi nói, “… Lần đầu tiên trong đời chúng tôi có tiền mua thực phẩm và quần áo. Và chúng tôi nhận thấy niềm hy vọng cho một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa bao giờ nghĩ, ngay cả trong mơ, là có thể trở thành hiện thực. Chúng tôi xây căn nhà nhỏ này hồi tháng trưóc. Có vẻ như chuyện mất con ḅ đă mở mắt cho chúng tôi thấy một cuộc sống khác có triển vọng”.
Anh bạn trẻ lấy làm kinh ngạc khi nghe câu chuyện. Cuối cùng anh cũng nhận ra bài học mà người thầy đáng kính đă muốn dạy cho anh. Đột nhiên mọi thứ trở nên rơ ràng. Cái chết của con ḅ không hề là dấu chấm hết dành cho họ như anh đă lo sợ, mà đă mở ra một cuộc sống mới với nhiều cơ hội tốt hơn.
Người chủ nhà mời hai thầy tṛ ở lại qua đêm và họ vui vẻ nhận lời. Sáng hôm sau, họ chào tạm biệt ông chủ và gia đ́nh, tiếp tục cuộc hành tŕnh của ḿnh.
Ông giáo, vốn lặng thinh từ bấy đến giờ, hỏi anh học tṛ, vốn vẫn đang c̣n kinh ngạc với những ǵ anh ta được nghe kể và chứng kiến:
“Con có nghĩ là gia đ́nh nọ vẫn có thể đạt được những điều mà họ gặt hái trong năm vừa qua nếu như họ vẫn c̣n con ḅ đó?”.
“Có lẽ không!”, người học tṛ trả lời không do dự.
“Vậy bây giờ con hiểu chưa? Con ḅ mà họ yêu quư như báu vật chính là sợi dây xích trói buộc cuộc đ̣i họ với đói nghèo khổ cực. Họ đă đinh ninh rằng con ḅ đó giúp họ khỏi bị suy sụp, nhưng phải đợi đến khi mất đi sự an toàn giả tạo đó th́ họ mới bị buộc phải nh́n sang một hưóng mới”.
“Nói cách khác…”, anh học tṛ tiếp lời, “… con ḅ – con vật mà hàng xóm của họ coi như là ơn phước – đă cho họ cái cảm giác ḿnh không phải đang sống trong sự bần cùng, nhưng thực ra cuộc sống của họ rất thảm hại”.
“Đúng là như thế!”, ông giáo già lên tiếng, “… Đó là điều sẽ xảy ra khi con tin rằng cái thứ ít ỏi ḿnh có được là đă đủ lắm rồi. Chỉ một ư nghĩ đó thôi đă là sợi xích nặng nề ngăn không cho con t́m kiếm những thứ khác tốt hơn. Sự thỏa măn bắt đầu hủy hoại cuộc đời con. Con chấp nhận các hoàn cảnh của ḿnh dù không hài ḷng với chúng. Con biết rằng con không vui sướng với vị trí của ḿnh trong cuộc sống, nhưng con cũng không thấy khốn khổ. Con thất vọng với cuộc sống mà ḿnh được hưởng nhưng sự bất măn không đủ lớn để con t́m cách làm một cái ǵ đó với nó. Con có thấy điều đó bi đát như thế nào không?”.
“Khi con có một công việc mà con không thích, cái công việc mà thậm chí chẳng đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu và cũng chẳng mang lại cho con bất cứ sự thỏa măn cá nhân nào hoặc cho con cuộc đời mà con muốn, th́ quyết định bỏ đi và t́m công việc khác là điều dễ dàng. Nhưng khi cái công việc mà con không thích đó giúp con trả được nợ, sống sót, và cũng tận hưởng được một vài tiện nghi nho nhỏ, th́ con dễ dàng rơi vào cái bẫy hài ḷng với suy nghĩ rằng ít nhất th́ ḿnh cũng có được một cái ǵ đó. Cuối cùng, con biện minh rằng khối người muốn cái công việc đó mà có được đâu”.
“Cũng giống như con ḅ, thái độ đó luôn luôn kiềm hăm con. Nếu không gạt bỏ nó đi, măi măi con sẽ không thể thấy được ǵ khác hơn ngoài những thứ con đă biết lâu nay. Con sẽ trở thành một nạn nhân chung thân của những giới hạn mà con tự đặt ra trong cuộc sống của ḿnh. Điều đó cũng giống như con tự bịt mắt ḿnh ở vạch xuất phát và cầu nguyện cho ḿnh thắng cuộc”.
Người học tṛ càng nghe càng kinh ngạc. Anh cảm thấy thích thú với những nhận định của thầy ḿnh và bắt đầu hiểu cặn kẽ những vấn đề đó.
“Chúng ta ai cũng có những con ḅ trong đời ḿnh. Chúng ta mang trên ḿnh gánh nặng của những niềm tin sai lầm, những lời biện bạch, những nỗi sợ và những định kiến. Bi đát thay, tất cả những hạn chế do ta tự áp đặt cho ḿnh đă trói buộc chúng ta vào một cuộc sống tầm thường”.
“Không chỉ có vậy”, ông giáo già tiếp lời, “nhiều người ngoan cố giữ lại cái lư do họ không thể sống cuộc đời mà họ luôn mơ ước. Họ tạo nên những lời bào chữa hầu như rất đáng tin để biện hộ với chính ḿnh và với ngựi khác, và tiếp tục sống với những xáo động nội tâm khi họ nhận ra rằng những lư lẽ đó có lẽ đánh lừa được người khác chứ không lừa được bản thân ḿnh”.
“Thật là một bài học lớn”.
Người học tṛ trầm ngâm nói, đồng thời hướng suy nghĩ về những con ḅ của ḿnh. Trên đường về, anh cẩn thận xem xét tất cả những hạn chế mà anh đă vận vào ḿnh trong cuộc đời. Và anh quyết định sẽ loại bỏ tất cả những niềm tin đă trói buộc anh vào một cuộc đời làng nhàng và tầm thường, cũng như đă ngăn cản anh thể hiện tiềm năng thật sự của ḿnh.
Không nghi ngờ ǵ nữa, anh tự nhủ, ngày hôm đó đă đánh dấu sự bắt đầu một cuộc đời mới, một cuộc đời không có ḅ.
VietBF@sưu tập
Ngày xửa ngày xưa, có một ông thầy giáo khôn ngoan và giàu kinh nghiệm. Ông muốn truyền cho một trong số các học tṛ của ḿnh các bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và thịnh vượng. Vốn biết những khó khăn và rào cản quá nặng nề mà nhiều người gặp phải trên con đường mưu cầu hạnh phúc, ông nghĩ rằng bài học đầu tiên là nên giải thích cho mọi ngựi hiểu v́ sao nhiều người chỉ sống cuộc đời b́nh b́nh và tầm thường.
Xét cho cùng, ông giáo nghĩ, có quá nhiều người, cả nam lẫn nữ dường như không thể vượt qua các trở ngại ngăn cản họ thành công và đành bằng ḷng sống một cuộc đời thiếu hụt và khốn khó. Ông giáo biết rằng để một người trẻ tuổi lănh hội được bài học rất quan trọng này, người đó nên tận mắt chứng kiến chuyện ǵ sẽ xảy ra nếu chúng ta cho phép sự tầm thường chi phối cuộc đời ḿnh.
https://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1975104&stc=1&d=1641869563
Để dạy được những bài học quan trọng này, ông giáo quyết định cùng vói người học tṛ của ḿnh lên đường đi đến một ngôi làng nghèo khổ trong vùng. Cảnh khổ đau và hoang tàn bày ra khắp nơi, và cư dân ở đó có vẻ như đă phó thác cuộc đời ḿnh cho số mệnh.
Ngay khi đến nơi, ông giáo yêu cầu ngựi học tṛ t́m giúp ḿnh một gia đ́nh nghèo nhất trong khu vực. Đó sẽ là nơi họ tạm trú qua đêm. Đi bộ một lúc th́ họ ra đến ŕa thị trấn. Và ở đó, giữa mênh mông, hai người dừng chân trước một căn lều nhỏ tồi tàn rệu ră nhất mà họ từng nh́n thấy.
Cái cấu trúc sắp sụp đổ này nằm ở ngoài ŕa xa nhất của một nhóm nhỏ vài căn nhà vùng thôn quê. Hiển nhiên là căn lều này thuộc về một gia đ́nh nghèo khó nhất làng. Những bức vách đứng đó như chỉ nhờ vào phép lạ, đe dọa sẽ sụp đổ bất cứ lúc nào. Nước thấm qua cái mái nhà tạm bợ vốn trông chẳng có sức đâu mà che chắn được thứ ǵ, và đủ mọi thứ rác rưởi được gom góp lại chất dựa vào các bức vách của ngôi nhà càng làm tăng thêm vẻ rệu ră.
Chủ nhà được một chú nhóc con báo động về sự có mặt của hai vị khách lạ, đă bước ra và chào đón nhiệt t́nh.
“Xin chào, ông bạn quư!”
Ông giáo đáp lễ: “Không biết ông có vui ḷng cho hai kẻ bộ hành mệt lả này tá túc một đêm ở đây không?”
“Ở đây chật chội lắm, nhưng nếu các vị không ngại ǵ th́ chúng tôi xin mời”.
Khi hai thầy tṛ bước vào trong, họ thật sự sốc khi nh́n thấy một không gian tí tẹo, không rộng hơn mười lăm thước vuông, là nơi ở của tám con người. Bố, mẹ, bốn đứa con và hai ông bà cụ cố gắng hết sức để nhường mỗi người một chút khoảng trống trong t́nh trạng tù túng chật hẹp này. Những thân h́nh nhếch nhác và gầy g̣ một cách đau đớn cùng với quần áo rách rưới là bằng chứng rơ ràng của sự thiếu thốn phô bày cuộc sống hằng ngày của họ. Những gương mặt buồn bă và dáng vẻ ḷm kḥm cho thấy rơ sự bần cùng không chỉ đă chiếm lĩnh cơ thể họ, mà c̣n ăn sâu vào tâm hồn họ.
Hai vị khách không cưỡng được cái nh́n xung quanh, trong ḷng tự hỏi liệu trong cái nơi khốn cùng này c̣n có thứ ǵ đáng giá không. Chả có ǵ!
Tuy nhiên, khi bước ra ngoài, họ mới nhận ra ḿnh đă lầm. Thật đáng kinh ngạc v́ gia đ́nh này c̣n có một thứ tài sản bất thường – khá đặc biệt trong hoàn cảnh này…một con ḅ.
Con ḅ th́ chẳng có ǵ đáng nói, nhưng cuộc sống và hoạt động hàng ngày của họ có vẻ như chỉ xoay quanh con vật này.
“Cho ḅ ăn đi”.
“Đừng để nó khát”.
“Buộc nó lại cho chắc”.
“Đừng quên dẫn nó đi ăn”.
“Vắt sữa ḅ đi!”.
Vậy đó, ta có thể thấy con ḅ giữ một vai tṛ quan trọng trong gia đ́nh này, mặc dù chút sữa ít ỏi do nó cung cấp chỉ đủ để họ sống vật vă qua ngày. Tuy nhiên, con ḅ có vẻ phục vụ một mục đích lớn hơn: Nó là thứ duy nhất giữ cho họ khỏi rơi vào đường cùng.
Ở một nơi mà mọi thứ đều khan hiếm, việc sở hữu một tài sản có giá trị như vậy đă mang lại cho họ sự ngưỡng mộ, nếu không muốn nói là sự ghen tị, từ những người hàng xóm. Và ở nơi đó – trong chỗ bẩn thỉu và nháo nhác đó – hai thầy tṛ đă đặt lưng xuống nghỉ qua đêm.
Sáng hôm sau, trước khi b́nh minh kịp ló dạng, hai thầy tṛ lặng lẽ lên đường một cách thận trọng để không đánh thức những người khác. Người học tṛ nh́n lại, như muốn một lần nữa ghi nhận vào tâm khảm khung cảnh tồi tàn đó. Từ trong thâm tâm, anh hoàn toàn không hiểu được v́ sao thầy lại dẫn ḿnh đến đây.
Tuy nhiên, trước khi ra đến đường cái, ông giáo già th́ thầm:
“Đă đến lúc cho con biết cái ǵ đă đưa chúng ta đến cái nơi tồi tàn này”.
Trong chuyến viếng thăm ngắn ngủi của ḿnh, họ đă chứng kiến một cuộc sống hầu như hoàn toàn bị ruồng bỏ, nhưng người học tṛ vẫn chưa hiểu được lư do khiến gia đ́nh đó lại sống cực khổ đến vậy. V́ sao họ lại ra nông nỗi này? Điều ǵ đă buộc họ phải ở lại đây?
Ông giáo đi chầm chậm về phía con ḅ đang bị buộc vào một cái cột hàng rào lung lay cách căn nhà chưa đầy hai mươi thước. Khi c̣n cách con ḅ khoảng một bước chân, ông giáo già rút ra một con dao găm mà ông mang theo bên ḿnh. Người học tṛ cảm thấy hoang mang. Khi ông giáo giơ tay lên, anh như chết điếng khi nhận ra điều thầy ḿnh sắp làm. Anh ta hầu như không tin vào mắt ḿnh khi ông giáo già đưa lưỡi dao cứa ngọt một đường ngang cổ con ḅ. Vết cắt chí mạng làm cho con vật ngă quỵ.
“Nh́n xem thầy đă làm ǵ?”, anh đau đớn hỏi ông giáo bằng một giọng th́ thầm v́ sợ đánh thức mọi người. “Làm sao thầy lại có thể giết chết con vật tội nghiệp đó chứ? Đây là loại bài học ǵ mà có thể khiến cho gia đ́nh đó phải lâm vào cảnh suy sụp hoàn toàn? Đây là tất cả những ǵ họ có. Rồi họ sẽ ra sao?”
Chẳng chút xao động vói thái độ đau khổ của người học tṛ và làm ngơ trước những thắc mắc của anh ta, ông giáo bỏ đi, để lại cảnh tượng hăi hùng phía sau, bàng quang trước thảm cảnh mà gia đ́nh đó sẽ phải đối mặt khi mà họ đă mất đi con ḅ. Anh học tṛ bước theo sau, trong ḷng vẫn c̣n nhiều khúc mắc, và họ tiếp tục lên đường.
C̣n cái gia đ́nh đó bị buộc phải đối mặt vói một t́nh trạng bấp bênh, đầy rẫy những khó khăn và khả năng bần cùng hơn nữa. Trong suốt những ngày sau đó, anh học tṛ bị ám ảnh không thôi v́ ư nghĩ khủng khiếp rằng cả gia đ́nh đó sẽ chết đói hết nếu họ không có con ḅ. Liệu anh c̣n có thể rút ra kết luận nào khác từ sự mất mát nguồn sống duy nhất của họ? Trong nhiều tháng sau, anh lúc nào cũng ray rứt với những ư nghĩ này và với cảnh tưọng của buổi sáng đau buồn hôm ấy.
Một năm qua đi và một buổi chiều nọ, ông giáo già gợi ư họ trở lại ngôi làng đó xem thử chuyện ǵ đă xảy ra với gia đ́nh kia. Chỉ một gợi ư nhỏ về một sự kiện dường như đă đi vào quên lăng nhưng cũng đủ để đánh thức trong ḷng người học tṛ cái kư ức sống động về bài học mà, cho đến tận bây giờ, anh vẫn không thể nào hiểu hết.
Một lần nữa, đầu óc anh học tṛ lại ch́m ngập trong những suy nghĩ về gia đ́nh khốn khổ kia và vai tṛ mà anh đă tham gia trong phần số của họ. Chuyện ǵ đă xảy ra với họ? Họ có sống sót qua cái đ̣n nặng nề đó không? Họ có bắt đầu nổi một cuộc sống mới không? Liệu ḿnh có thể giáp mặt với họ sau những ǵ mà thầy đă làm?
Mặc cho những ư nghĩ rối beng trong đầu, người học tṛ bất đắc dĩ nhận lời và miễn cưỡng tham dự chuyến đi có thể làm sáng tỏ sự việc đă khiến anh phải khốn khổ cả năm qua.
Sau nhiều ngày, hai người đến ngôi làng cũ. Họ t́m kiếm căn lều năm trước trong vô vọng. Cảnh vật xung quanh trông vẫn như xưa, nhưng chẳng thấy bóng dáng cái nơi tồi tàn mà họ đă qua đêm ngày ấy đâu cả, thay vào đó là một căn nhà xinh xắn vừa mới được xây dụng trên nền đất cũ. Họ dừng chân và hết nh́n ngược lại nh́n xuôi để biết chắc ḿnh đă đến đúng chỗ.
Người học tṛ lo ngại rằng cái chết của con ḅ là một đ̣n giáng quá mạnh khiến một gia đ́nh trơ trụi như họ không thể nào qua nổi. Có lẽ họ đă bị buộc phải bỏ đi và một gia đ́nh khác khá giả hơn đă may mắn làm chủ mảnh đất và dựng nên ngôi nhà mới này. C̣n khả năng nào khác đâu chứ? Chắc hẳn sự xấu hổ đă khiến họ phải tha hương.
Trong lúc những ư nghĩ đó đang lẩn quẩn trong đầu, anh học tṛ cứ lưỡng lự giữa ư muốn biết chuyện ǵ đă xảy ra cho gia đ́nh nọ và việc mặc kệ họ để tiếp tục lên đường, né tránh cái việc chẳng thú vị ǵ là xác minh sự nghi ngờ tồi tệ trong đầu ḿnh, nhưng cuối cùng anh quyết định khám phá – ḿnh cần phải biết, cho nên anh gơ cửa ngôi nhà và đứng đợi.
Trong chốc lát, một người đàn ông vui vẻ từ trong nhà bước ra. Thoạt tiên anh học tṛ không nhận ra ông ta. Nhưng rồi anh không thể giấu được vẻ thảng thốt khi nhận ra đó chính là người đă cho họ ngủ trọ năm ngoái. Hiển nhiên cùng là một người, nhưng có cái ǵ đó rất khác lạ ở con người này.
Ông ta mặc quần áo sạch sẽ và chải chuốt gọn gàng. Ông ta có nụ cười trên đôi môi và sự linh lợi trong đôi mắt. Rơ ràng đă xảy ra một điều ǵ đó có ư nghĩa to lớn trong đời ông ta. Người thanh niên gần như không tin vào mắt ḿnh. Làm sao lại có thể như thế? Liệu chuyện ǵ có thể xảy ra chỉ trong thời gian một năm? Anh ta bổ nhào lại chào hỏi người đàn ông nọ và ngay lập tức “truy vấn” ông ta về vận may nào đă đến với ông và gia đ́nh.
“Chỉ năm ngoái, khi chúng tôi ghé qua đây…”, anh nói, “… các ông dường như đang sống trong t́nh trạng bất hạnh và vô vọng. Hăy cho tôi biết đă xảy ra chuyện ǵ làm các ông thay đổi nhiều như thế. Điều ǵ đă khiến các ông gặp may đến vậy?”
Không đếm xỉa ǵ đến việc chính hai người khách này đă là thủ phạm giết con ḅ, người đàn ông mời họ vào nhà và bắt đầu kể câu chuyện ly kỳ của gia đ́nh ḿnh.
Câu chuyện sẽ làm thay đổi cuộc đời anh bạn trẻ của chúng ta măi măi.
Ông chủ nhà kể rằng thật là một sự trùng hợp kỳ lạ, khi ngay cái ngày mà hai thầy tṛ rời đi, không biết kẻ bất lương nào do ganh ghét với tài sản hiếm hoi của gia đ́nh ông, đă nhẫn tâm cắt cổ con vật tội nghiệp đó.
“Tôi phải thừa nhận rằng…”, người đàn ông nói, ” … phản ứng đầu tiên của chúng tôi là vô cùng tuyệt vọng và đau khổ. Trong suốt một thời gian dài, sữa của con ḅ đó là nguồn sống duy nhất của chúng tôi. Hơn nữa, nó c̣n là tài sản duy nhất mà chúng tôi có; cuộc sống của chúng tôi phụ thuộc vào nó. Con ḅ đó là tâm điểm cho sự tồn tại hằng ngày của chúng tôi, nói thật ḷng, việc có được con vật ấy tạo cho chúng tôi một cảm giác an toàn và mang lại cho chúng tôi sự ngưỡng mộ từ hàng xóm…”
“… Không lâu sau cái ngày bi đát ấy, chúng tôi nhận ra rằng nếu không làm một cái ǵ đó, chúng tôi chỉ có thể rơi vào t́nh huống tệ hại hơn. Chúng tôi đă xuống tới đáy cuộc đời khi mất đi con vật ấy. Chúng tôi cũng cần phải ăn và nuôi nấng con cái nữa. Và rồi chúng tôi phát hoang một miếng đất phía sau nhà, gieo vài hạt rau củ quả. Đó là cách mà chúng tôi sống qua ngày trong vài tháng đầu”.
“… Một thời gian sau, chúng tôi nhận thấy rằng mảnh vườn đó cung cấp nhiều lương thực hơn mức chúng tôi cần. Nếu có thể bán cho những người xung quanh, chúng tôi có thể mua thêm hạt giống. Thế là, không lâu sau, chúng tôi không những đủ ăn mà c̣n có thể đem ra chợ bán”.
” … Và rồi điều đó xảy ra!”, người đàn ông hồ hỏi nói, “… Lần đầu tiên trong đời chúng tôi có tiền mua thực phẩm và quần áo. Và chúng tôi nhận thấy niềm hy vọng cho một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa bao giờ nghĩ, ngay cả trong mơ, là có thể trở thành hiện thực. Chúng tôi xây căn nhà nhỏ này hồi tháng trưóc. Có vẻ như chuyện mất con ḅ đă mở mắt cho chúng tôi thấy một cuộc sống khác có triển vọng”.
Anh bạn trẻ lấy làm kinh ngạc khi nghe câu chuyện. Cuối cùng anh cũng nhận ra bài học mà người thầy đáng kính đă muốn dạy cho anh. Đột nhiên mọi thứ trở nên rơ ràng. Cái chết của con ḅ không hề là dấu chấm hết dành cho họ như anh đă lo sợ, mà đă mở ra một cuộc sống mới với nhiều cơ hội tốt hơn.
Người chủ nhà mời hai thầy tṛ ở lại qua đêm và họ vui vẻ nhận lời. Sáng hôm sau, họ chào tạm biệt ông chủ và gia đ́nh, tiếp tục cuộc hành tŕnh của ḿnh.
Ông giáo, vốn lặng thinh từ bấy đến giờ, hỏi anh học tṛ, vốn vẫn đang c̣n kinh ngạc với những ǵ anh ta được nghe kể và chứng kiến:
“Con có nghĩ là gia đ́nh nọ vẫn có thể đạt được những điều mà họ gặt hái trong năm vừa qua nếu như họ vẫn c̣n con ḅ đó?”.
“Có lẽ không!”, người học tṛ trả lời không do dự.
“Vậy bây giờ con hiểu chưa? Con ḅ mà họ yêu quư như báu vật chính là sợi dây xích trói buộc cuộc đ̣i họ với đói nghèo khổ cực. Họ đă đinh ninh rằng con ḅ đó giúp họ khỏi bị suy sụp, nhưng phải đợi đến khi mất đi sự an toàn giả tạo đó th́ họ mới bị buộc phải nh́n sang một hưóng mới”.
“Nói cách khác…”, anh học tṛ tiếp lời, “… con ḅ – con vật mà hàng xóm của họ coi như là ơn phước – đă cho họ cái cảm giác ḿnh không phải đang sống trong sự bần cùng, nhưng thực ra cuộc sống của họ rất thảm hại”.
“Đúng là như thế!”, ông giáo già lên tiếng, “… Đó là điều sẽ xảy ra khi con tin rằng cái thứ ít ỏi ḿnh có được là đă đủ lắm rồi. Chỉ một ư nghĩ đó thôi đă là sợi xích nặng nề ngăn không cho con t́m kiếm những thứ khác tốt hơn. Sự thỏa măn bắt đầu hủy hoại cuộc đời con. Con chấp nhận các hoàn cảnh của ḿnh dù không hài ḷng với chúng. Con biết rằng con không vui sướng với vị trí của ḿnh trong cuộc sống, nhưng con cũng không thấy khốn khổ. Con thất vọng với cuộc sống mà ḿnh được hưởng nhưng sự bất măn không đủ lớn để con t́m cách làm một cái ǵ đó với nó. Con có thấy điều đó bi đát như thế nào không?”.
“Khi con có một công việc mà con không thích, cái công việc mà thậm chí chẳng đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu và cũng chẳng mang lại cho con bất cứ sự thỏa măn cá nhân nào hoặc cho con cuộc đời mà con muốn, th́ quyết định bỏ đi và t́m công việc khác là điều dễ dàng. Nhưng khi cái công việc mà con không thích đó giúp con trả được nợ, sống sót, và cũng tận hưởng được một vài tiện nghi nho nhỏ, th́ con dễ dàng rơi vào cái bẫy hài ḷng với suy nghĩ rằng ít nhất th́ ḿnh cũng có được một cái ǵ đó. Cuối cùng, con biện minh rằng khối người muốn cái công việc đó mà có được đâu”.
“Cũng giống như con ḅ, thái độ đó luôn luôn kiềm hăm con. Nếu không gạt bỏ nó đi, măi măi con sẽ không thể thấy được ǵ khác hơn ngoài những thứ con đă biết lâu nay. Con sẽ trở thành một nạn nhân chung thân của những giới hạn mà con tự đặt ra trong cuộc sống của ḿnh. Điều đó cũng giống như con tự bịt mắt ḿnh ở vạch xuất phát và cầu nguyện cho ḿnh thắng cuộc”.
Người học tṛ càng nghe càng kinh ngạc. Anh cảm thấy thích thú với những nhận định của thầy ḿnh và bắt đầu hiểu cặn kẽ những vấn đề đó.
“Chúng ta ai cũng có những con ḅ trong đời ḿnh. Chúng ta mang trên ḿnh gánh nặng của những niềm tin sai lầm, những lời biện bạch, những nỗi sợ và những định kiến. Bi đát thay, tất cả những hạn chế do ta tự áp đặt cho ḿnh đă trói buộc chúng ta vào một cuộc sống tầm thường”.
“Không chỉ có vậy”, ông giáo già tiếp lời, “nhiều người ngoan cố giữ lại cái lư do họ không thể sống cuộc đời mà họ luôn mơ ước. Họ tạo nên những lời bào chữa hầu như rất đáng tin để biện hộ với chính ḿnh và với ngựi khác, và tiếp tục sống với những xáo động nội tâm khi họ nhận ra rằng những lư lẽ đó có lẽ đánh lừa được người khác chứ không lừa được bản thân ḿnh”.
“Thật là một bài học lớn”.
Người học tṛ trầm ngâm nói, đồng thời hướng suy nghĩ về những con ḅ của ḿnh. Trên đường về, anh cẩn thận xem xét tất cả những hạn chế mà anh đă vận vào ḿnh trong cuộc đời. Và anh quyết định sẽ loại bỏ tất cả những niềm tin đă trói buộc anh vào một cuộc đời làng nhàng và tầm thường, cũng như đă ngăn cản anh thể hiện tiềm năng thật sự của ḿnh.
Không nghi ngờ ǵ nữa, anh tự nhủ, ngày hôm đó đă đánh dấu sự bắt đầu một cuộc đời mới, một cuộc đời không có ḅ.
VietBF@sưu tập