florida80
02-15-2022, 20:10
Ta cùng nhau đón thêm mùa xuân…
Câu hát quen thuộc trong bài nhạc xuân “Câu chuyện đầu năm” của nhạc sĩ Hoài An, cách đây cũng đến hơn nửa thế kỷ.
Xuân này Xuân Covid thứ ba rồi
Câu này th́ không có trong bài hát ấy, ông bạn tôi “chế” ra trong lúc hát karaoke để làm mới một bài hát cũ, gọi là cho phù hợp với t́nh thế mới.
Những mùa xuân Covid theo nhau
Cứ thế, xuân sau và xuân sau nữa, chỉ cần đổi “thứ ba” thành “thứ tư”, “thứ năm”…, bài hát như được tân trang thành bài nhạc xuân mới, hợp thời trang. Có điều, chắc không ai muốn ngồi đếm măi những mùa xuân Covid đă đi qua đời ḿnh. Người ta chỉ muốn nó đi luôn, đi biệt, một đi không trở lại. Thế nhưng, nếu nó không chịu đi đâu cả mà cứ ở ĺ ra đó th́ làm sao bây giờ? Chắc không có cách nào khác là đành phải thỏa hiệp với nó, phải gắng gượng làm vui mà sống chung ḥa b́nh với nó.
Câu hát chế biến ấy cũng cho thấy một điều, người ta cũng đă chuẩn bị tâm lư sẵn sàng để mà sống chung với nó cho dù có miễn cưỡng, chỉ v́ không c̣n sự lựa chọn nào khác hơn.
Tính từ ngày 11 tháng Hai năm 2020 là ngày Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức đặt tên cho bệnh dịch quái ác này là “Covid-19” (viết tắt của “Coronavirus disease 2019”), Tết này được kể là cái Tết Covid thứ ba của người Việt ḿnh.
Người ta quen gọi những ngày tháng năm này là “mùa dịch” hay “mùa Covid”, tương tự cách gọi “mùa cúm”, từ khi dịch bệnh đến từ loài siêu vi tên là Coronavirus được phát hiện và lây lan. Gọi “mùa” trong ư nghĩ là cho dù nó có hoành hành, có quậy phá tới đâu th́ cũng đến một lúc nào phải chia tay, nhiều lắm là hẹn lại… mùa sau. Những “mùa màng” thường không kéo dài lâu, chỉ đôi ba tháng hay nhiều lắm là sáu tháng, nửa năm như “miền Nam mưa nắng hai mùa”, ngoại trừ… mùa chiến chinh. Không ai nghĩ là loài siêu vi này lại bám trụ dai dẳng đến thế và tới nay cũng chưa có dấu hiệu nào cho thấy là “mùa” ấy sắp sửa lụi tàn.
Mùa đại dịch, mùa dịch bệnh, mùa dịch giă, mùa giăn cách, mùa cách ly…, cách gọi nào nghe cũng buồn bă, cũng tái tê khi cơn băo Covid-19 quét ngang những miền đất nước và dịch bệnh tràn lan xới tung cuộc sống. Những đường phố vắng lạnh như giờ giới nghiêm, như thành phố chết. Ở trong nước là những cuộc “di tản chiến thuật” vội vă khi dịch bệnh lên đến đỉnh điểm. Những vẻ mặt thất thần, những cuộc trốn chạy hoảng loạn mong vượt thoát khỏi những thành phố lớn đang ch́m trong bóng đêm đại dịch.
Giữa những ngày này thỉnh thoảng lại hay tin người thân quen nào đó đột ngột qua đời, và người ta quay sang hỏi nhau “Covid phải không?” Những cái chết âm thầm, những đám tang lặng lẽ. Những bạn bè ít ỏi cùng đồng hành trên con đường đời bỗng lần lượt ngă lăn ra như người lính bị bắn sẻ. Cứ thế, không biết bao giờ th́ đến lượt ḿnh.
Covid-19, chúng ta không thể làm như không biết đến nó, làm như nó không có mặt trên đời này, làm như chuyện người này dương tính, người kia phải nhập viện hoặc qua đời v́ Covid là chuyện của người khác chứ không phải chuyện ḿnh, cho đến lúc người thân nào của ḿnh được nó chiếu cố hoặc bản thân ḿnh được vị khách không mời ấy “gơ cửa ghé thăm”.
Covid-19, đợi măi mà nó vẫn chưa chịu đi cho, vẫn cứ lượn lờ quanh quẩn trong lúc người ta vẫn phải tiếp tục sống, phải học hành, phải làm lụng, phải thăm viếng nhau, phải đi đây đi đó chứ chả nhẽ cứ tự nhốt ḿnh, gọi là “stay home” th́ đến chết v́ buồn và v́… đói, trước khi con virus kịp ghé thăm. Những kẻ yêu nhau vẫn phải hẹn ḥ chứ chả nhẽ cứ “giăn cách” măi kiểu “Em ngồi trong song cửa / Anh đứng dựa tường hoa / Nh́n nhau mà lệ ứa / Một ngày một cách xa” như những câu thơ tả oán của Lưu Trọng Lư.
Những kẻ yêu chuộng văn chương, thơ phú có thể phóng bút viết xuống những bài văn, bài thơ có chút thi vị để tạm quên nỗi buồn chán, âu lo, đại để “Đi giữa mùa dịch”, “Mùa Covid lại về”, “Mùa Covid nào cho em”, “Những mùa xuân Covid theo nhau”, “Những mùa xuân Covid đă đi qua đời tôi” (cũng tựa “Người đi qua đời tôi”). Thực tế, người ta chỉ mong sao “Mùa dịch đến rồi đi”, “Mùa Covid sắp tàn” hay “Mùa Covid không trở lại”.
Kể từ sau đại dịch Covid-19, thế giới không c̣n như trước nữa, ta vẫn nghe vậy và quả là vậy. Cuộc sống của người Việt ḿnh cũng có lắm cái “không c̣n như trước nữa”, chỉ kể sơ một vài trong những sinh hoạt thường ngày.
Con người vốn đă yếu ớt, nhỏ nhoi trước thiên tai, dịch bệnh, lại càng để lộ bản chất yếu đuối, nhút nhát, sợ sệt trước đại dịch Covid. Ǵ cũng sợ, sợ bóng sợ vía, sợ đặt chân đến nhà người khác, sợ người khác bước vào nhà ḿnh, sợ con virus vô h́nh lảng vảng đâu đây.
“Tao chỉ cần ho một tiếng là cả đám chạy mất dép.” Câu phát ngôn lớn lối ấy không c̣n là lời dọa dẫm khoác lác mà là sự thật. Một tràng ho sặc sụa hay hắt x́ hơi liên tục giữa đám đông cũng khiến mọi người hoảng vía, vội vàng nhanh chân tránh xa “kẻ khủng bố”. Thậm chí, người ta c̣n mách nhau cái gọi là “cẩm nang mua sắm mùa dịch”. Mỗi khi phải xếp hàng dài theo thứ tự ưu tiên, nếu không đủ kiên nhẫn chờ đến lượt ḿnh để trả tiền hay lựa chọn món hàng ưng ư th́ cứ gập người xuống mà ho sù sụ chả cần phải che miệng là bà con khiếp đảm tự động dạt ra cho ḿnh thong thả tiến lên.
Thế giới không c̣n như trước nữa
Tôi có ông bạn, mấy năm trước về thăm nhà sau nhiều năm sống ở xứ người. Khi về lại Mỹ, ông thuật lại một trong những điều mắt thấy tai nghe.
“Đường phố đầy bụi và khói, con gái Sài G̣n bây giờ cứ ra đường là đeo khẩu trang sùm sụp, chẳng c̣n thấy đâu diện mạo dung nhan. Thật chán đời!”
Ông bạn tôi không thể ngờ rằng, chỉ một năm sau đó, ông c̣n “chán đời” hơn nữa khi mà ngay trên những đường phố lớn của đất nước ông đang sống, không chỉ phụ nữ mà đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé và cả ông nữa cũng đều sùm sụp khẩu trang. Chiếc khẩu trang không mấy thẩm mỹ ấy đến nay mọi người đều đă quen mắt, trở nên gần gũi, thân thiết như vật bất ly thân. Đến một nơi mọi người đều đeo khẩu trang cả mà ḿnh không đeo th́ trông chẳng giống ai và bị mọi người lánh xa.
Để bớt “chán đời”, các nhà thiết kế mẫu mă thời trang bèn sáng tạo ra các kiểu khẩu trang bắt mắt cho nữ giới hoặc “ton sur ton” với bộ trang phục, cố gắng biến khẩu trang thành món trang sức duyên dáng, quyến rũ không kém mạng che mặt hay khăn quàng cổ nhưng không mấy hiệu quả, khẩu trang th́ vẫn là… khẩu trang.
Khẩu trang cũng không giống như chiếc cà-vạt nơ (bow-tie) của quư ông. Khi thấy ngột ngạt hay muốn nói chuyện cho thoải mái nhiều ông bèn kéo khẩu trang xuống dưới cằm hay máng tọng teng trên cổ, trông vừa kém thẩm mỹ, vừa kém vệ sinh. Chẳng thà gấp lại cho vào túi.
Từ khi mũi, miệng bị che kín, chỉ chừa lại có hai con mắt trên khuôn mặt th́ mắt trở nên “cửa sổ của tâm hồn” hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ người ta nói bằng ánh mắt nhiều hơn thế. Những khóe mắt nặng trĩu âu lo hay mệt mỏi, ḍ xét hay nghi ngại. Những tia mắt ấm áp thay câu chào hay lời hỏi han. Những ánh mắt sáng lên nỗi mừng vui thay nụ cười giấu kín dưới lớp khẩu trang, và cả những mắt long lanh gợn sóng t́nh thay lời yêu trên đôi môi bị dán kín. Mới đây, nhà tiến sĩ tâm lư học người Anh, Michael Lewis, c̣n chỉ ra rằng đàn ông trông thu hút, quyến rũ hơn dưới mắt phụ nữ khi đeo khẩu trang v́ chúng hướng sự chú ư vào đôi mắt, và tính thẩm mỹ cũng được nâng cao nhờ che giấu được những khuyết điểm ở phần dưới khuôn mặt.
Rất nhiều cái trở nên lỗi thời hay hết thời. Con người né tránh những đụng chạm thân mật, từ những bắt tay, vỗ vai đến những ôm hôn thắm thiết. Nhằm hạn chế lây nhiễm, những cú bắt tay đổi thành cụng cùi chỏ hay cụng nắm đấm (trông không được đẹp mắt lắm, nhất là với phụ nữ).
Khi nói câu chúc “Peace to you” trong các thánh lễ, giáo dân chỉ khẽ cúi đầu hay ngoắc ngoắc tay chứ không c̣n quay sang bắt tay nhau, cũng như không c̣n nắm lấy tay nhau khi cùng đọc Kinh Lạy Cha.
Người Việt ḿnh vẫn có năng khiếu tiếp thu rất nhanh, bắt chước rất giỏi những kiểu cách văn minh lịch sự của người tây phương để ra vẻ ta cũng lịch lăm không kém ai, trong đó có màn chào hỏi thân mật kiểu ôm ấp và hôn phớt lên má.
Trong nước, trước và sau năm 1975 hiếm thấy màn biểu diễn này, nhiều lắm chỉ thể hiện giữa những người thân yêu trong gia đ́nh hoặc bạn bè thân thiết như một cách bộc lộ cảm xúc trong những dịp vui hiếm hoi hoặc chia sẻ nỗi khổ đau, mất mát. C̣n ngoài ra, như câu hát nào, “Đời tôi chỉ… ôm một người.”
Người bản xứ nay cũng từ bỏ kiểu ôm hôn thắm thiết này, đến cả phong trào Free Hugs cũng bạo phát, bạo tàn th́ người Việt ḿnh là kẻ ăn theo cũng đành quay về với văn hóa Việt là cúi đầu chào và giữ khoảng cách “nam nữ thọ thọ bất thân”, không để con Covid được lợi dụng cơ hội.
Con người cũng ăn ở vệ sinh sạch sẽ hơn, một ngày rửa tay thật kỹ với xà-pḥng không biết bao nhiêu lần. Các bà nội trợ mỗi lần đi chợ cũng trang bị đầy đủ khẩu trang, găng tay và lo đi nhanh về sớm chứ không c̣n nhởn nhơ đi dạo như trước đây.
Những cuộc họp bạn cũng thưa thớt dần, giảm thiểu đến mức thấp nhất. Nhà nhà đóng kín cửa. Con người tự cô lập, tự pḥng thủ, tự trói chân ḿnh, né tránh mọi mối “giao lưu t́nh cảm” không thực sự cần thiết.
Những mối tương quan bè bạn cũng ít nhiều đổi thay. Mùa dịch giă là mùa khá thích hợp để gạn lọc bạn, bè. Nh́n quanh chỉ c̣n lác đác ít người gọi là “bạn”. Những “bè” ngày trước vẫn tới lui đàn đúm lần lần giăn ra, chẳng c̣n t́m đến ta và ta cũng chẳng c̣n hứng thú ǵ để “kết bè” với họ. Trong những ngày thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ ấy, chỉ một cú phone người bạn ở xa gọi đến, chỉ ít câu thăm hỏi gia đ́nh có b́nh an không cũng đủ làm ta thấy ấm ḷng. C̣n lại, những kẻ biệt tăm biệt tích, chẳng hề liên lạc, chẳng thèm hỏi han xem là ta đă sống như thế nào trong suốt mùa dịch giă thê lương ấy, thậm chí c̣n sống sót hay đă được con Covid tha đi rồi, th́ ta có thể hoàn toàn yên tâm trước sau họ vẫn chỉ là “bè” chứ chẳng phải “bạn”.
Xuân năm nay, người Việt ở nước ngoài đón Tết nửa vui, nửa buồn. Buồn, v́ biến chủng Omicron bỗng dưng “được mùa”, rộ lên suốt từ mùa Giáng Sinh năm cũ đến những ngày đầu năm mới. Mức lây nhiễm lan rộng, lan nhanh đến nỗi tiến sĩ Anthony Fauci phải lên tiếng trấn an bà con là… sớm muộn ǵ mọi người cũng sẽ nhiễm Omicron thôi, cho dù có chích ngừa hay không chích ngừa. Được cái là tỷ lệ tử vong v́ Omicron có thấp hơn các biến thể khác.
Vui, v́ trận tuyến pḥng chống Covid-19 được củng cố khá vững chắc. Trừ những người nhất định không chịu tin con siêu vi khuẩn ấy là… có thật, phần lớn mọi người đều đă chích đến mũi thứ ba, và đều sẵn sàng vén cánh tay áo lên cho mũi chích tiếp theo nếu cần. Những liều thuốc chủng ngừa và trị liệu hữu hiệu đến từ những thành tựu y học. Những bộ xét nghiệm Covid-19 và những khẩu trang y tế tốt nhất được gửi đến tận nhà cho mỗi gia đ́nh. Tất cả, giúp người dân tự tin hơn để đối phó với loài siêu vi ấy cho dù nó có tác yêu tác quái đến đâu, trước khi tiến tới một thỏa hiệp chung sống có tính cách tạm thời hay bền vững lâu dài.
Sống chung với Covid nghĩa là chung đụng với con Covid mỗi ngày, là “hăy cố yêu người mà sống”, là cố gắng thích nghi với t́nh thế mới để tiến tới “b́nh thường mới”, như cách gọi ở trong nước.
Cho đến một lúc nào đó, những cái “không c̣n như trước nữa” không làm chúng ta bận tâm nữa v́ đă làm quen, đă gắn bó lâu dài với chúng đến độ thân thiết. Những cái khác thường khi ấy trở thành b́nh thường. Giá dụ đến một ngày nào sạch bóng Covid, quay về lại với cung cách sống thời “tiền Covid”, có khi ta lại cảm thấy hụt hẫng, cảm thấy nhơ nhớ, thiêu thiếu cái ǵ đó thân quen như thiếu tấm khẩu trang trên khuôn mặt người. Khi ấy không khéo chúng ta lại ngẩn ngơ mà nhận ra rằng mọi thứ đă… không c̣n như trước nữa.
Lê Hữu
Câu hát quen thuộc trong bài nhạc xuân “Câu chuyện đầu năm” của nhạc sĩ Hoài An, cách đây cũng đến hơn nửa thế kỷ.
Xuân này Xuân Covid thứ ba rồi
Câu này th́ không có trong bài hát ấy, ông bạn tôi “chế” ra trong lúc hát karaoke để làm mới một bài hát cũ, gọi là cho phù hợp với t́nh thế mới.
Những mùa xuân Covid theo nhau
Cứ thế, xuân sau và xuân sau nữa, chỉ cần đổi “thứ ba” thành “thứ tư”, “thứ năm”…, bài hát như được tân trang thành bài nhạc xuân mới, hợp thời trang. Có điều, chắc không ai muốn ngồi đếm măi những mùa xuân Covid đă đi qua đời ḿnh. Người ta chỉ muốn nó đi luôn, đi biệt, một đi không trở lại. Thế nhưng, nếu nó không chịu đi đâu cả mà cứ ở ĺ ra đó th́ làm sao bây giờ? Chắc không có cách nào khác là đành phải thỏa hiệp với nó, phải gắng gượng làm vui mà sống chung ḥa b́nh với nó.
Câu hát chế biến ấy cũng cho thấy một điều, người ta cũng đă chuẩn bị tâm lư sẵn sàng để mà sống chung với nó cho dù có miễn cưỡng, chỉ v́ không c̣n sự lựa chọn nào khác hơn.
Tính từ ngày 11 tháng Hai năm 2020 là ngày Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức đặt tên cho bệnh dịch quái ác này là “Covid-19” (viết tắt của “Coronavirus disease 2019”), Tết này được kể là cái Tết Covid thứ ba của người Việt ḿnh.
Người ta quen gọi những ngày tháng năm này là “mùa dịch” hay “mùa Covid”, tương tự cách gọi “mùa cúm”, từ khi dịch bệnh đến từ loài siêu vi tên là Coronavirus được phát hiện và lây lan. Gọi “mùa” trong ư nghĩ là cho dù nó có hoành hành, có quậy phá tới đâu th́ cũng đến một lúc nào phải chia tay, nhiều lắm là hẹn lại… mùa sau. Những “mùa màng” thường không kéo dài lâu, chỉ đôi ba tháng hay nhiều lắm là sáu tháng, nửa năm như “miền Nam mưa nắng hai mùa”, ngoại trừ… mùa chiến chinh. Không ai nghĩ là loài siêu vi này lại bám trụ dai dẳng đến thế và tới nay cũng chưa có dấu hiệu nào cho thấy là “mùa” ấy sắp sửa lụi tàn.
Mùa đại dịch, mùa dịch bệnh, mùa dịch giă, mùa giăn cách, mùa cách ly…, cách gọi nào nghe cũng buồn bă, cũng tái tê khi cơn băo Covid-19 quét ngang những miền đất nước và dịch bệnh tràn lan xới tung cuộc sống. Những đường phố vắng lạnh như giờ giới nghiêm, như thành phố chết. Ở trong nước là những cuộc “di tản chiến thuật” vội vă khi dịch bệnh lên đến đỉnh điểm. Những vẻ mặt thất thần, những cuộc trốn chạy hoảng loạn mong vượt thoát khỏi những thành phố lớn đang ch́m trong bóng đêm đại dịch.
Giữa những ngày này thỉnh thoảng lại hay tin người thân quen nào đó đột ngột qua đời, và người ta quay sang hỏi nhau “Covid phải không?” Những cái chết âm thầm, những đám tang lặng lẽ. Những bạn bè ít ỏi cùng đồng hành trên con đường đời bỗng lần lượt ngă lăn ra như người lính bị bắn sẻ. Cứ thế, không biết bao giờ th́ đến lượt ḿnh.
Covid-19, chúng ta không thể làm như không biết đến nó, làm như nó không có mặt trên đời này, làm như chuyện người này dương tính, người kia phải nhập viện hoặc qua đời v́ Covid là chuyện của người khác chứ không phải chuyện ḿnh, cho đến lúc người thân nào của ḿnh được nó chiếu cố hoặc bản thân ḿnh được vị khách không mời ấy “gơ cửa ghé thăm”.
Covid-19, đợi măi mà nó vẫn chưa chịu đi cho, vẫn cứ lượn lờ quanh quẩn trong lúc người ta vẫn phải tiếp tục sống, phải học hành, phải làm lụng, phải thăm viếng nhau, phải đi đây đi đó chứ chả nhẽ cứ tự nhốt ḿnh, gọi là “stay home” th́ đến chết v́ buồn và v́… đói, trước khi con virus kịp ghé thăm. Những kẻ yêu nhau vẫn phải hẹn ḥ chứ chả nhẽ cứ “giăn cách” măi kiểu “Em ngồi trong song cửa / Anh đứng dựa tường hoa / Nh́n nhau mà lệ ứa / Một ngày một cách xa” như những câu thơ tả oán của Lưu Trọng Lư.
Những kẻ yêu chuộng văn chương, thơ phú có thể phóng bút viết xuống những bài văn, bài thơ có chút thi vị để tạm quên nỗi buồn chán, âu lo, đại để “Đi giữa mùa dịch”, “Mùa Covid lại về”, “Mùa Covid nào cho em”, “Những mùa xuân Covid theo nhau”, “Những mùa xuân Covid đă đi qua đời tôi” (cũng tựa “Người đi qua đời tôi”). Thực tế, người ta chỉ mong sao “Mùa dịch đến rồi đi”, “Mùa Covid sắp tàn” hay “Mùa Covid không trở lại”.
Kể từ sau đại dịch Covid-19, thế giới không c̣n như trước nữa, ta vẫn nghe vậy và quả là vậy. Cuộc sống của người Việt ḿnh cũng có lắm cái “không c̣n như trước nữa”, chỉ kể sơ một vài trong những sinh hoạt thường ngày.
Con người vốn đă yếu ớt, nhỏ nhoi trước thiên tai, dịch bệnh, lại càng để lộ bản chất yếu đuối, nhút nhát, sợ sệt trước đại dịch Covid. Ǵ cũng sợ, sợ bóng sợ vía, sợ đặt chân đến nhà người khác, sợ người khác bước vào nhà ḿnh, sợ con virus vô h́nh lảng vảng đâu đây.
“Tao chỉ cần ho một tiếng là cả đám chạy mất dép.” Câu phát ngôn lớn lối ấy không c̣n là lời dọa dẫm khoác lác mà là sự thật. Một tràng ho sặc sụa hay hắt x́ hơi liên tục giữa đám đông cũng khiến mọi người hoảng vía, vội vàng nhanh chân tránh xa “kẻ khủng bố”. Thậm chí, người ta c̣n mách nhau cái gọi là “cẩm nang mua sắm mùa dịch”. Mỗi khi phải xếp hàng dài theo thứ tự ưu tiên, nếu không đủ kiên nhẫn chờ đến lượt ḿnh để trả tiền hay lựa chọn món hàng ưng ư th́ cứ gập người xuống mà ho sù sụ chả cần phải che miệng là bà con khiếp đảm tự động dạt ra cho ḿnh thong thả tiến lên.
Thế giới không c̣n như trước nữa
Tôi có ông bạn, mấy năm trước về thăm nhà sau nhiều năm sống ở xứ người. Khi về lại Mỹ, ông thuật lại một trong những điều mắt thấy tai nghe.
“Đường phố đầy bụi và khói, con gái Sài G̣n bây giờ cứ ra đường là đeo khẩu trang sùm sụp, chẳng c̣n thấy đâu diện mạo dung nhan. Thật chán đời!”
Ông bạn tôi không thể ngờ rằng, chỉ một năm sau đó, ông c̣n “chán đời” hơn nữa khi mà ngay trên những đường phố lớn của đất nước ông đang sống, không chỉ phụ nữ mà đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé và cả ông nữa cũng đều sùm sụp khẩu trang. Chiếc khẩu trang không mấy thẩm mỹ ấy đến nay mọi người đều đă quen mắt, trở nên gần gũi, thân thiết như vật bất ly thân. Đến một nơi mọi người đều đeo khẩu trang cả mà ḿnh không đeo th́ trông chẳng giống ai và bị mọi người lánh xa.
Để bớt “chán đời”, các nhà thiết kế mẫu mă thời trang bèn sáng tạo ra các kiểu khẩu trang bắt mắt cho nữ giới hoặc “ton sur ton” với bộ trang phục, cố gắng biến khẩu trang thành món trang sức duyên dáng, quyến rũ không kém mạng che mặt hay khăn quàng cổ nhưng không mấy hiệu quả, khẩu trang th́ vẫn là… khẩu trang.
Khẩu trang cũng không giống như chiếc cà-vạt nơ (bow-tie) của quư ông. Khi thấy ngột ngạt hay muốn nói chuyện cho thoải mái nhiều ông bèn kéo khẩu trang xuống dưới cằm hay máng tọng teng trên cổ, trông vừa kém thẩm mỹ, vừa kém vệ sinh. Chẳng thà gấp lại cho vào túi.
Từ khi mũi, miệng bị che kín, chỉ chừa lại có hai con mắt trên khuôn mặt th́ mắt trở nên “cửa sổ của tâm hồn” hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ người ta nói bằng ánh mắt nhiều hơn thế. Những khóe mắt nặng trĩu âu lo hay mệt mỏi, ḍ xét hay nghi ngại. Những tia mắt ấm áp thay câu chào hay lời hỏi han. Những ánh mắt sáng lên nỗi mừng vui thay nụ cười giấu kín dưới lớp khẩu trang, và cả những mắt long lanh gợn sóng t́nh thay lời yêu trên đôi môi bị dán kín. Mới đây, nhà tiến sĩ tâm lư học người Anh, Michael Lewis, c̣n chỉ ra rằng đàn ông trông thu hút, quyến rũ hơn dưới mắt phụ nữ khi đeo khẩu trang v́ chúng hướng sự chú ư vào đôi mắt, và tính thẩm mỹ cũng được nâng cao nhờ che giấu được những khuyết điểm ở phần dưới khuôn mặt.
Rất nhiều cái trở nên lỗi thời hay hết thời. Con người né tránh những đụng chạm thân mật, từ những bắt tay, vỗ vai đến những ôm hôn thắm thiết. Nhằm hạn chế lây nhiễm, những cú bắt tay đổi thành cụng cùi chỏ hay cụng nắm đấm (trông không được đẹp mắt lắm, nhất là với phụ nữ).
Khi nói câu chúc “Peace to you” trong các thánh lễ, giáo dân chỉ khẽ cúi đầu hay ngoắc ngoắc tay chứ không c̣n quay sang bắt tay nhau, cũng như không c̣n nắm lấy tay nhau khi cùng đọc Kinh Lạy Cha.
Người Việt ḿnh vẫn có năng khiếu tiếp thu rất nhanh, bắt chước rất giỏi những kiểu cách văn minh lịch sự của người tây phương để ra vẻ ta cũng lịch lăm không kém ai, trong đó có màn chào hỏi thân mật kiểu ôm ấp và hôn phớt lên má.
Trong nước, trước và sau năm 1975 hiếm thấy màn biểu diễn này, nhiều lắm chỉ thể hiện giữa những người thân yêu trong gia đ́nh hoặc bạn bè thân thiết như một cách bộc lộ cảm xúc trong những dịp vui hiếm hoi hoặc chia sẻ nỗi khổ đau, mất mát. C̣n ngoài ra, như câu hát nào, “Đời tôi chỉ… ôm một người.”
Người bản xứ nay cũng từ bỏ kiểu ôm hôn thắm thiết này, đến cả phong trào Free Hugs cũng bạo phát, bạo tàn th́ người Việt ḿnh là kẻ ăn theo cũng đành quay về với văn hóa Việt là cúi đầu chào và giữ khoảng cách “nam nữ thọ thọ bất thân”, không để con Covid được lợi dụng cơ hội.
Con người cũng ăn ở vệ sinh sạch sẽ hơn, một ngày rửa tay thật kỹ với xà-pḥng không biết bao nhiêu lần. Các bà nội trợ mỗi lần đi chợ cũng trang bị đầy đủ khẩu trang, găng tay và lo đi nhanh về sớm chứ không c̣n nhởn nhơ đi dạo như trước đây.
Những cuộc họp bạn cũng thưa thớt dần, giảm thiểu đến mức thấp nhất. Nhà nhà đóng kín cửa. Con người tự cô lập, tự pḥng thủ, tự trói chân ḿnh, né tránh mọi mối “giao lưu t́nh cảm” không thực sự cần thiết.
Những mối tương quan bè bạn cũng ít nhiều đổi thay. Mùa dịch giă là mùa khá thích hợp để gạn lọc bạn, bè. Nh́n quanh chỉ c̣n lác đác ít người gọi là “bạn”. Những “bè” ngày trước vẫn tới lui đàn đúm lần lần giăn ra, chẳng c̣n t́m đến ta và ta cũng chẳng c̣n hứng thú ǵ để “kết bè” với họ. Trong những ngày thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ ấy, chỉ một cú phone người bạn ở xa gọi đến, chỉ ít câu thăm hỏi gia đ́nh có b́nh an không cũng đủ làm ta thấy ấm ḷng. C̣n lại, những kẻ biệt tăm biệt tích, chẳng hề liên lạc, chẳng thèm hỏi han xem là ta đă sống như thế nào trong suốt mùa dịch giă thê lương ấy, thậm chí c̣n sống sót hay đă được con Covid tha đi rồi, th́ ta có thể hoàn toàn yên tâm trước sau họ vẫn chỉ là “bè” chứ chẳng phải “bạn”.
Xuân năm nay, người Việt ở nước ngoài đón Tết nửa vui, nửa buồn. Buồn, v́ biến chủng Omicron bỗng dưng “được mùa”, rộ lên suốt từ mùa Giáng Sinh năm cũ đến những ngày đầu năm mới. Mức lây nhiễm lan rộng, lan nhanh đến nỗi tiến sĩ Anthony Fauci phải lên tiếng trấn an bà con là… sớm muộn ǵ mọi người cũng sẽ nhiễm Omicron thôi, cho dù có chích ngừa hay không chích ngừa. Được cái là tỷ lệ tử vong v́ Omicron có thấp hơn các biến thể khác.
Vui, v́ trận tuyến pḥng chống Covid-19 được củng cố khá vững chắc. Trừ những người nhất định không chịu tin con siêu vi khuẩn ấy là… có thật, phần lớn mọi người đều đă chích đến mũi thứ ba, và đều sẵn sàng vén cánh tay áo lên cho mũi chích tiếp theo nếu cần. Những liều thuốc chủng ngừa và trị liệu hữu hiệu đến từ những thành tựu y học. Những bộ xét nghiệm Covid-19 và những khẩu trang y tế tốt nhất được gửi đến tận nhà cho mỗi gia đ́nh. Tất cả, giúp người dân tự tin hơn để đối phó với loài siêu vi ấy cho dù nó có tác yêu tác quái đến đâu, trước khi tiến tới một thỏa hiệp chung sống có tính cách tạm thời hay bền vững lâu dài.
Sống chung với Covid nghĩa là chung đụng với con Covid mỗi ngày, là “hăy cố yêu người mà sống”, là cố gắng thích nghi với t́nh thế mới để tiến tới “b́nh thường mới”, như cách gọi ở trong nước.
Cho đến một lúc nào đó, những cái “không c̣n như trước nữa” không làm chúng ta bận tâm nữa v́ đă làm quen, đă gắn bó lâu dài với chúng đến độ thân thiết. Những cái khác thường khi ấy trở thành b́nh thường. Giá dụ đến một ngày nào sạch bóng Covid, quay về lại với cung cách sống thời “tiền Covid”, có khi ta lại cảm thấy hụt hẫng, cảm thấy nhơ nhớ, thiêu thiếu cái ǵ đó thân quen như thiếu tấm khẩu trang trên khuôn mặt người. Khi ấy không khéo chúng ta lại ngẩn ngơ mà nhận ra rằng mọi thứ đă… không c̣n như trước nữa.
Lê Hữu