florida80
02-21-2022, 21:49
Ông Ngoại Ái Vân là bạn thân với Bác Hồ, nhưng tài sản của gia đ́nh Ái Vân cũng bị cướp trắng...
" Sau ngày đó, miền Bắc mọi thứ được đưa vào công hữu. Ba không c̣n là công tử Hà Thành, không c̣n là ông bán xe hơi túi tiền rủng rẻng, không c̣n là ông chủ đại diện hăng xe đạp Dura Mercier tiền vào như nước, rồi ông chủ hăng Vietfilm làm phim một vốn bốn lời cũng không nốt. Ba nói “Tất cả cứ thế mà không. Chả hiểu v́ sao.”
Ông tư sản Hà Quang Định trở thành kẻ thất nghiệp. Gánh nặng gia đ́nh đổ lên lưng má từ đấy. Với một người yêu vợ con đến mê muội như ba tôi, đó là nỗi đắng cay
Trg. 40: Với tôi ông nội thật hiền, có khi cả tuần mới nghe ông nói một tiếng. Ông sống khép kín, loanh ới. Má kể năm tôi sinh ra cũng là năm ông mất của (10-1954).
Của cải ông thừa kế của cụ nội đều bị quốc hữu hóa. Tôi lên hai tuổi ông chẳng c̣n ǵ, chỉ c̣n cái bóng thu lu trên gác. Tội nghiệp ông nội. Ông cố nấp vào cái bóng của chính ông, giấu kín hai tiếng “tư sản”, giấu kín đến nỗi ba tiếng “tiểu tư sản” người ta gán cho ba má tôi ông cũng sợ. Ông sống ẩn dật không hề tiếp xúc với một ai, kể cả con cháu trong nhà. Rất ít khi nghe tiếng ông. Thi thoảng lắm mới thấy ông nhóng cổ qua cửa sổ nói với ai đó dưới đường phố: “Tôi nhất trí…nhất trí…nhá, nhá!”. Chẳng có ai cả, ông cứ nhất trí vậy thôi.
Trg. 55: Tôi nhớ gia tài của cả nhà tôi dần dần thu bé lại chỉ c̣n có 4 món đáng giá nhất: chiếc xe đạp Dura của Pháp, quạt máy Morelli, chiếc máy khâu Singer và đài bán dẫn hiệu Philips. Dàn xe đạp Dura Mercier dàn hàng ngang trước cửa nhà đă biến mất, chỉ c̣n một chiếc nằm chỏng gọng ở lối vào, phương tiện đi lại duy nhất của cả nhà.
Bẩy tuổi tôi biết sau tiếp quản Thủ đô, cuộc đời ba tôi đột ngột thay đổi. H́nh ảnh ông bầu của rạp hát lẫy lừng, người quản lư cho nghệ sĩ nổi tiếng Ái Liên không c̣n nữa. Đang là người đàn ông trụ cột gia đ́nh rất phong lưu hào hoa bỗng dưng ba tôi mất trắng, không c̣n ǵ cả.
Ba gần như thành kẻ thất nghiệp, c̣n má bất đắc dĩ thành trụ cột gia đ́nh. Thỉnh thoảng ba cũng nhận được về nhà việc đánh máy chữ các kịch bản cải lương, phần c̣n lại chủ yếu dựa vào đồng lương của má.
Tuy thất nghiệp ba vẫn cố giữ chút phong lưu thời vang bóng c̣n sót lại. Tôi nhớ những sáng được ba đưa cả nhà sang hàng ông Bảy ở phố Nguyễn Du ăn bánh ḿ chim quay, món quà sáng sang trọng lúc bấy giờ.
Ba mặc complet trắng, đội mũ phớt, má mặc áo len dài mầu đỏ khoác tay ba đi trước, cả đàn con lít nhít đi theo sau. Con trai mặc cotton trắng, con gái mặc đồ đầm hoa sặc sỡ dắt díu theo sau, trước ánh mắt ngưỡng mộ của dân hàng phố.
Có lẽ đó là h́nh ảnh phong lưu cuối cùng của nhà tôi. Sau đó không c̣n nữa, không bao giờ nữa.
Trg. 107: Năm 1965 Bộ Văn Hóa trưng dụng nhà số 38 Phố Huế làm nhà ăn tập thể của Bộ.
Trg. 140-143: Mất nhà.
Nếu bỏ qua việc mất nhà, chính xác là bị cướp mất nhà, chính là bỏ qua một mất mát to lớn, một nỗi đau dai dẳng của gia đ́nh tôi. Khu nhà 36-38 phố Huế rất rộng, thực tế gia đ́nh tôi chỉ sống ở nhà số 36 với diện tích 136 m2, c̣n nhà số 38 với diện tích 600 m2 chỉ dùng làm sân chơi. Sau 1945 ba tôi cho làm sàn nhẩy Paramount rất nổi tiếng, hàng đêm thanh niên Hà Nội tụ tập về đây rất đông. Măi đến năm 1952, gánh hát Ái Liên sau nhiều năm lưu diễn khắp Đông Dương về “định cư” ở Hà Nội, ba dùng mảnh đất 600 m2 của nhà số 38 xây Rạp Ái Liên.
Gánh hát Ái Liên ta ră vào cuối năm 1953. Ba tôi chuyển sang làm phim, ông sử dụng rạp Ái Liên là trụ sở Hăng Phim Vietfilm.
Sau Giải phóng Thủ đô năm 1954 hăng Vietfilm cũng tan ră nốt. Ngay sau đó Đoàn Ca Kịch Liên Khu 4 từ Thanh Hóa trở về Thủ Đô, mượn ngôi nhà này làm nơi tập luyện và biểu diễn. Khi Đoàn Ca Kịch Liên Khu 4 hỏi mượn ngôi nhà 38 làm trụ sở và rạp hát, ba má tôi rất phấn khởi. C̣n bao nhiêu vốn liếng ba má tôi bỏ ra tu sửa rạp, mua thêm ghế ngồi, lắp quạt trần, trang bị âm thanh cho rạp hát.
Má tôi và chị Ái Loan cũng đầu quân vào Đoàn này, coi đây như gánh hát của gia đ́nh, rất gần gũi thân thiết.
Một thời gian sau Vụ Nghệ Thuật-Bộ Văn Hóa đề nghị cho Vụ thuê, tiền thuê nhà mỗi tháng là 24 đồng. Số tiền chẳng đáng là bao nhưng ba má chấp thuận v́ đây là nơi diễn của hai má con Ái Liên, Ái Loan.
Ngày 3 tháng 5 năm 1959, ông Mai Vy, Vụ Phó Vụ Nghệ Thuật viết cho ba má một tờ giấy là văn pḥng Bộ định sửa chữa nhà 38 phố Huế, muốn mượn giấy tờ ngôi nhà. Ba má tôi vui vẻ đưa liền, không nghi ngờ ǵ.
Từ đó giấy tờ không trả lại, đ̣i thế nào cũng không trả lại. Rồi Vụ Nghệ thuật ra thông báo không thuê nhà 38 nữa mà “chuyển lên Bộ quản lư”. Tưởng “Chuyển lên Bộ quản lư” thế nào, té ra Bộ tiếp tục đưa Đoàn múa rối đến diễn ở đây. Đoàn Múa rối bỏ đi th́ Bộ nhanh chóng biến nơi đây thành nhà ăn tập thể, rồi dần dà cho các gia đ́nh cán bộ, công nhân viên của Bộ Văn Hóa tới ở, biến nơi đây thành một khu tập thể nho nhỏ của Bộ Văn Hóa. Nhà 38 phố Huế của gia đ́nh tôi mất trắng từ đó.
Năm 2007 ba tôi chuẩn bị về trời, ông cho gọi con cháu về đầy đủ. Ba lần lượt cầm tay các con nói: “Ba má không có ǵ để lại cho các con hết, chỉ có khu nhà 36-38 phố Huế nhưng đă bị người ta lừa lấy gần hết. Tại bố mẹ cả tin…” Ba nghẹn lại không nói thêm được lời nào nữa, nước mắt lưng tṛng. Ít lâu sau ông đi.
Trg. 143: Khu nhà 38 rộng, có đến 600 m2, xung quanh sân khấu múa rối vẫn thừa nhiều đất. Để cải thiện bữa ăn, ba má tôi nuôi lợn, nuôi ngỗng, thỏ, gà và trồng một giàn nho xanh mướt, cây lá che kín khắp cả miếng sân trước nhà. Chiều chiều mấy anh em tôi mang thùng sang Đoàn Cải Lương Nam Bộ số 23 Ngô Th́ Nhậm xin nước gạo về để nấu cám cho lợn ăn.
Trg. 145-147: Lúc này chẳng những nhà 38 bị chiếm dụng mà một phần gác trên của nhà 36 cũng bị Bộ Văn Hóa “bố trí” cho ba gia đ́nh của Bộ tới ở. Cuối năm 1967 Bộ Văn Hóa rút luôn nhà ăn tập thể, dần dà cấp đất cấp nhà cho các gia đ́nh của Bộ về đây ở mà không thèm hỏi ba má tôi một câu nào.
Lúc này chẳng những nhà 38 bị chiếm dụng mà phần lớn gác trên của nhà 36-38 cũng bị “bố trí” cho các gia đ́nh của Bộ. Ba má tôi phản đối, đơn từ khiếu kiện rất nhiều nhưng chẳng ăn thua, đành thủ phận sống chung với lũ”.
Kể từ khi biến thành khu tập thể, nhà 36-38 phát sinh nhiều khó khăn mới trước đây chưa từng có, đặc biệt nước và vệ sinh. Cái ṿi nước ngày xưa chỉ là chỗ rửa chân cho chúng tôi mỗi khi đi chơi về, nay là ṿi nước chung của cả xóm. Suốt ngày đêm luôn luôn có một dẫy xô chậu xếp hàng lấy nước.
Rồi nước thành phố cấp cũng yếu dần, lắm lúc chỉ nhỏ giọt hứng cả giờ không đầu xô. Bí thế phải đào giếng. Thế rồi cái giếng nước trở thành nơi sinh hoạt của xóm. Lâu ngày nó giống như một hăng thông tấn. Ai muốn biết thông tin thời sự cứ ra đây ngồi hóng chuyện, biết hết.
Cái nhà vệ sinh cũng trở thành hăng thông tấn. Sáng nào cũng vậy, cả mấy chục người xếp hàng dài trước nhà vệ sinh, mỗi người một tờ báo đọc và chuyện tṛ đợi đến lượt ḿnh. Đàn bà con gái ớn nhất mấy vụ này nhưng chẳng biết sao, đành “ngồi trên hố xí đợi ngày mai”. Lâu ngày cũng chai mặt, cũng xếp hàng chuyện tṛ ỏm tỏi, hứng lên c̣n hát nữa.
Rồi chiến tranh, hết sơ tán tới đào hầm. Xóm nhà 36-38 chúng tôi đào hầm ngay nền nhà ăn tập thể, tức là sân khấu rạp hát xưa kia. Chiếc hầm chiếm trọn chiều ngang gian nhà, được trát xi măng rất kiên cố.
Hầm rộng, có thể chứa được khoảng 20 người. Những lần có báo động, người lớn trẻ con hốt hoảng xuống hầm. Về sau, khi đă quen, việc chạy xuống hầm đă thành b́nh thường, thậm chí nhiều người c̣n mang cơm xuống ăn uống và chuyện tṛ rôm rả. Cái hầm lại trở thành một hăng thông tấn. Muốn biết thông tin từ thượng vàng hạ cám cứ chui xuống hầm.
Ở nhà 36 ba tôi cũng đào một chiếc hầm ngay dưới gầm giường…khi có báo động trẻ con được xuống hầm, người lớn th́ chui xuống nằm dưới gầm giường, c̣n ba tôi ở bên trên phủ vài chiếc chăn bông và những chiếc gối, để pḥng có bom bi.
Thời chiến di tản liên tục, để tránh đồ đạc thất lạc, mất mát thứ ǵ ba đánh dấu tên má bằng hai chữ AL. Xoong nồi AL, công tác điện AL, xô chậu AL, th́a muỗng AL, chén bát AL…thậm chí đển cả bức tường của nhà vệ sinh công cộng, ông cũng viết lên đó hai chữ AL.
Tháng 8/2011, khi quay trở về Việt Nam, tôi có tới thăm căn nhà phố Huế của ḿnh, vẫn nh́n thấy cái công-tắc có chữ A.L. được khắc trên đó.
" Sau ngày đó, miền Bắc mọi thứ được đưa vào công hữu. Ba không c̣n là công tử Hà Thành, không c̣n là ông bán xe hơi túi tiền rủng rẻng, không c̣n là ông chủ đại diện hăng xe đạp Dura Mercier tiền vào như nước, rồi ông chủ hăng Vietfilm làm phim một vốn bốn lời cũng không nốt. Ba nói “Tất cả cứ thế mà không. Chả hiểu v́ sao.”
Ông tư sản Hà Quang Định trở thành kẻ thất nghiệp. Gánh nặng gia đ́nh đổ lên lưng má từ đấy. Với một người yêu vợ con đến mê muội như ba tôi, đó là nỗi đắng cay
Trg. 40: Với tôi ông nội thật hiền, có khi cả tuần mới nghe ông nói một tiếng. Ông sống khép kín, loanh ới. Má kể năm tôi sinh ra cũng là năm ông mất của (10-1954).
Của cải ông thừa kế của cụ nội đều bị quốc hữu hóa. Tôi lên hai tuổi ông chẳng c̣n ǵ, chỉ c̣n cái bóng thu lu trên gác. Tội nghiệp ông nội. Ông cố nấp vào cái bóng của chính ông, giấu kín hai tiếng “tư sản”, giấu kín đến nỗi ba tiếng “tiểu tư sản” người ta gán cho ba má tôi ông cũng sợ. Ông sống ẩn dật không hề tiếp xúc với một ai, kể cả con cháu trong nhà. Rất ít khi nghe tiếng ông. Thi thoảng lắm mới thấy ông nhóng cổ qua cửa sổ nói với ai đó dưới đường phố: “Tôi nhất trí…nhất trí…nhá, nhá!”. Chẳng có ai cả, ông cứ nhất trí vậy thôi.
Trg. 55: Tôi nhớ gia tài của cả nhà tôi dần dần thu bé lại chỉ c̣n có 4 món đáng giá nhất: chiếc xe đạp Dura của Pháp, quạt máy Morelli, chiếc máy khâu Singer và đài bán dẫn hiệu Philips. Dàn xe đạp Dura Mercier dàn hàng ngang trước cửa nhà đă biến mất, chỉ c̣n một chiếc nằm chỏng gọng ở lối vào, phương tiện đi lại duy nhất của cả nhà.
Bẩy tuổi tôi biết sau tiếp quản Thủ đô, cuộc đời ba tôi đột ngột thay đổi. H́nh ảnh ông bầu của rạp hát lẫy lừng, người quản lư cho nghệ sĩ nổi tiếng Ái Liên không c̣n nữa. Đang là người đàn ông trụ cột gia đ́nh rất phong lưu hào hoa bỗng dưng ba tôi mất trắng, không c̣n ǵ cả.
Ba gần như thành kẻ thất nghiệp, c̣n má bất đắc dĩ thành trụ cột gia đ́nh. Thỉnh thoảng ba cũng nhận được về nhà việc đánh máy chữ các kịch bản cải lương, phần c̣n lại chủ yếu dựa vào đồng lương của má.
Tuy thất nghiệp ba vẫn cố giữ chút phong lưu thời vang bóng c̣n sót lại. Tôi nhớ những sáng được ba đưa cả nhà sang hàng ông Bảy ở phố Nguyễn Du ăn bánh ḿ chim quay, món quà sáng sang trọng lúc bấy giờ.
Ba mặc complet trắng, đội mũ phớt, má mặc áo len dài mầu đỏ khoác tay ba đi trước, cả đàn con lít nhít đi theo sau. Con trai mặc cotton trắng, con gái mặc đồ đầm hoa sặc sỡ dắt díu theo sau, trước ánh mắt ngưỡng mộ của dân hàng phố.
Có lẽ đó là h́nh ảnh phong lưu cuối cùng của nhà tôi. Sau đó không c̣n nữa, không bao giờ nữa.
Trg. 107: Năm 1965 Bộ Văn Hóa trưng dụng nhà số 38 Phố Huế làm nhà ăn tập thể của Bộ.
Trg. 140-143: Mất nhà.
Nếu bỏ qua việc mất nhà, chính xác là bị cướp mất nhà, chính là bỏ qua một mất mát to lớn, một nỗi đau dai dẳng của gia đ́nh tôi. Khu nhà 36-38 phố Huế rất rộng, thực tế gia đ́nh tôi chỉ sống ở nhà số 36 với diện tích 136 m2, c̣n nhà số 38 với diện tích 600 m2 chỉ dùng làm sân chơi. Sau 1945 ba tôi cho làm sàn nhẩy Paramount rất nổi tiếng, hàng đêm thanh niên Hà Nội tụ tập về đây rất đông. Măi đến năm 1952, gánh hát Ái Liên sau nhiều năm lưu diễn khắp Đông Dương về “định cư” ở Hà Nội, ba dùng mảnh đất 600 m2 của nhà số 38 xây Rạp Ái Liên.
Gánh hát Ái Liên ta ră vào cuối năm 1953. Ba tôi chuyển sang làm phim, ông sử dụng rạp Ái Liên là trụ sở Hăng Phim Vietfilm.
Sau Giải phóng Thủ đô năm 1954 hăng Vietfilm cũng tan ră nốt. Ngay sau đó Đoàn Ca Kịch Liên Khu 4 từ Thanh Hóa trở về Thủ Đô, mượn ngôi nhà này làm nơi tập luyện và biểu diễn. Khi Đoàn Ca Kịch Liên Khu 4 hỏi mượn ngôi nhà 38 làm trụ sở và rạp hát, ba má tôi rất phấn khởi. C̣n bao nhiêu vốn liếng ba má tôi bỏ ra tu sửa rạp, mua thêm ghế ngồi, lắp quạt trần, trang bị âm thanh cho rạp hát.
Má tôi và chị Ái Loan cũng đầu quân vào Đoàn này, coi đây như gánh hát của gia đ́nh, rất gần gũi thân thiết.
Một thời gian sau Vụ Nghệ Thuật-Bộ Văn Hóa đề nghị cho Vụ thuê, tiền thuê nhà mỗi tháng là 24 đồng. Số tiền chẳng đáng là bao nhưng ba má chấp thuận v́ đây là nơi diễn của hai má con Ái Liên, Ái Loan.
Ngày 3 tháng 5 năm 1959, ông Mai Vy, Vụ Phó Vụ Nghệ Thuật viết cho ba má một tờ giấy là văn pḥng Bộ định sửa chữa nhà 38 phố Huế, muốn mượn giấy tờ ngôi nhà. Ba má tôi vui vẻ đưa liền, không nghi ngờ ǵ.
Từ đó giấy tờ không trả lại, đ̣i thế nào cũng không trả lại. Rồi Vụ Nghệ thuật ra thông báo không thuê nhà 38 nữa mà “chuyển lên Bộ quản lư”. Tưởng “Chuyển lên Bộ quản lư” thế nào, té ra Bộ tiếp tục đưa Đoàn múa rối đến diễn ở đây. Đoàn Múa rối bỏ đi th́ Bộ nhanh chóng biến nơi đây thành nhà ăn tập thể, rồi dần dà cho các gia đ́nh cán bộ, công nhân viên của Bộ Văn Hóa tới ở, biến nơi đây thành một khu tập thể nho nhỏ của Bộ Văn Hóa. Nhà 38 phố Huế của gia đ́nh tôi mất trắng từ đó.
Năm 2007 ba tôi chuẩn bị về trời, ông cho gọi con cháu về đầy đủ. Ba lần lượt cầm tay các con nói: “Ba má không có ǵ để lại cho các con hết, chỉ có khu nhà 36-38 phố Huế nhưng đă bị người ta lừa lấy gần hết. Tại bố mẹ cả tin…” Ba nghẹn lại không nói thêm được lời nào nữa, nước mắt lưng tṛng. Ít lâu sau ông đi.
Trg. 143: Khu nhà 38 rộng, có đến 600 m2, xung quanh sân khấu múa rối vẫn thừa nhiều đất. Để cải thiện bữa ăn, ba má tôi nuôi lợn, nuôi ngỗng, thỏ, gà và trồng một giàn nho xanh mướt, cây lá che kín khắp cả miếng sân trước nhà. Chiều chiều mấy anh em tôi mang thùng sang Đoàn Cải Lương Nam Bộ số 23 Ngô Th́ Nhậm xin nước gạo về để nấu cám cho lợn ăn.
Trg. 145-147: Lúc này chẳng những nhà 38 bị chiếm dụng mà một phần gác trên của nhà 36 cũng bị Bộ Văn Hóa “bố trí” cho ba gia đ́nh của Bộ tới ở. Cuối năm 1967 Bộ Văn Hóa rút luôn nhà ăn tập thể, dần dà cấp đất cấp nhà cho các gia đ́nh của Bộ về đây ở mà không thèm hỏi ba má tôi một câu nào.
Lúc này chẳng những nhà 38 bị chiếm dụng mà phần lớn gác trên của nhà 36-38 cũng bị “bố trí” cho các gia đ́nh của Bộ. Ba má tôi phản đối, đơn từ khiếu kiện rất nhiều nhưng chẳng ăn thua, đành thủ phận sống chung với lũ”.
Kể từ khi biến thành khu tập thể, nhà 36-38 phát sinh nhiều khó khăn mới trước đây chưa từng có, đặc biệt nước và vệ sinh. Cái ṿi nước ngày xưa chỉ là chỗ rửa chân cho chúng tôi mỗi khi đi chơi về, nay là ṿi nước chung của cả xóm. Suốt ngày đêm luôn luôn có một dẫy xô chậu xếp hàng lấy nước.
Rồi nước thành phố cấp cũng yếu dần, lắm lúc chỉ nhỏ giọt hứng cả giờ không đầu xô. Bí thế phải đào giếng. Thế rồi cái giếng nước trở thành nơi sinh hoạt của xóm. Lâu ngày nó giống như một hăng thông tấn. Ai muốn biết thông tin thời sự cứ ra đây ngồi hóng chuyện, biết hết.
Cái nhà vệ sinh cũng trở thành hăng thông tấn. Sáng nào cũng vậy, cả mấy chục người xếp hàng dài trước nhà vệ sinh, mỗi người một tờ báo đọc và chuyện tṛ đợi đến lượt ḿnh. Đàn bà con gái ớn nhất mấy vụ này nhưng chẳng biết sao, đành “ngồi trên hố xí đợi ngày mai”. Lâu ngày cũng chai mặt, cũng xếp hàng chuyện tṛ ỏm tỏi, hứng lên c̣n hát nữa.
Rồi chiến tranh, hết sơ tán tới đào hầm. Xóm nhà 36-38 chúng tôi đào hầm ngay nền nhà ăn tập thể, tức là sân khấu rạp hát xưa kia. Chiếc hầm chiếm trọn chiều ngang gian nhà, được trát xi măng rất kiên cố.
Hầm rộng, có thể chứa được khoảng 20 người. Những lần có báo động, người lớn trẻ con hốt hoảng xuống hầm. Về sau, khi đă quen, việc chạy xuống hầm đă thành b́nh thường, thậm chí nhiều người c̣n mang cơm xuống ăn uống và chuyện tṛ rôm rả. Cái hầm lại trở thành một hăng thông tấn. Muốn biết thông tin từ thượng vàng hạ cám cứ chui xuống hầm.
Ở nhà 36 ba tôi cũng đào một chiếc hầm ngay dưới gầm giường…khi có báo động trẻ con được xuống hầm, người lớn th́ chui xuống nằm dưới gầm giường, c̣n ba tôi ở bên trên phủ vài chiếc chăn bông và những chiếc gối, để pḥng có bom bi.
Thời chiến di tản liên tục, để tránh đồ đạc thất lạc, mất mát thứ ǵ ba đánh dấu tên má bằng hai chữ AL. Xoong nồi AL, công tác điện AL, xô chậu AL, th́a muỗng AL, chén bát AL…thậm chí đển cả bức tường của nhà vệ sinh công cộng, ông cũng viết lên đó hai chữ AL.
Tháng 8/2011, khi quay trở về Việt Nam, tôi có tới thăm căn nhà phố Huế của ḿnh, vẫn nh́n thấy cái công-tắc có chữ A.L. được khắc trên đó.