florida80
02-21-2022, 22:37
Đến nay, vẫn chưa thấy ai phản bác ư kiến này của Vũ Bằng về nhà văn Phạm Duy Tốn (1883-1924): “Người đầu tiên có sáng kiến gom góp các chuyện cười “đặc biệt Việt Nam” để giải trí cho người ta và làm tài liệu cho người ngoại quốc biết cái cười của người Việt ra sao chính là Phạm Duy Tốn”; “Biết khai thác cái cười và hiểu biết giá trị của tiếng cười sớm nhất trong các nhà văn hiện đại, theo tôi Phạm Duy Tốn là người tiên phong” (Tạp chí Văn số 169 ra ngày 1.1.1971).
Được biết, thuở sinh thời với bút danh Thọ An, ông Phạm Duy Tốn đă cho xuất bản tập sách Tiếu lâm An Nam do hiệu Ích Kư 58 Phố Hàng Giấy-Hà Nội in năm 1924. Trong lời Tựa, ông cho biết: “Những chuyện này cũng có nhiều câu lư thú nhưng mà nhời nhẽ thường không được thanh nhă lắm; bởi v́ rặt chuyện góp: khi năm ba anh em vui chơi, hoặc thấy lắm sự buồn cười, hoặc thấy điều trái dở, cho nên đặt ra chuyện để mà bài bác, không giữ ǵn nhời nhẽ. Tuy rằng suồng să, song vẫn là câu nó thường, ư tứ không cao xa nhưng chính là sự thực… Vả chăng thường có nhiều chuyện hay mà không mấy người biết”.
Khi nhà văn Phạm Duy Tốn cho biết có nhiều chuyện “suồng să”, đọc lại, ta thấy đúng là thế. Có khá nhiều chuyện thuộc loại “tiếu lâm mặn”, khiến đàn ông đàn ang tủm tỉm cười nhưng chắc ǵ quư bà quư cô không đỏ mặt? Chi tiết này cho thấy, một trong những thủ pháp gây cười c̣n là đem cả “cái ấy”, “chuyện ấy” nhằm mua vui, do đó, nếu đứng về phương diện đạo đức mà phê phán e phiến diện và cũng không đánh giá đúng tâm lư cười của người Việt. Xin dẫn chứng một thí dụ:
“Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm đương đi ngoài đường, chợt có đứa bé con trông thấy; nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng:
- Mẹ ơi, mau ra mà xem người không có mồm! -Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên:
- A! A! A! Ông này không có mồm!
Ông rậm râu tức quá, quay mặt lại, vạch râu chửi nó rằng:
- Chẳng có mồm là l… mẹ mày à!”.
Về râu, c̣n thêm mẩu chuyện này cũng… “thi vị” lém lỉnh không kém. Có lẽ cũng cần nên biết, qua đó, ta thấy trước kia người ta tinh quái đến cỡ nào khi bịa ra chuyện để gây cười. Rằng, ngày nọ ông chánh tổng có râu quai nón cưỡi ngựa đi làm thuế, đến quăng đường nhỏ, ngựa không đi được, ông ta gửi cho thầy bói mù ngồi trong quán nhờ trông hộ. Vậy, khi đến đ̣i ngựa làm sao biết đúng người mà trả, chánh tổng bảo cứ sờ râu quai nón của ông. Rồi cho thầy bói mù sờ râu của ḿnh. Nẫy giờ, có mụ ṃ cua đứng sau quán nghe trộm, bèn lập kế giả giọng ông chánh để lấy con ngựa. Và đây, chính là “cao trào” gây cười:
“- Nào, xin ông con ngựa nào!
- Ông chánh đấy, phải không?
- Phải, tôi đây. Tôi đi làm thuế về đây.
- Vậy th́ ông cho tôi xem râu, nào!
Mụ nọ lại gần, tốc ngược váy lên cho ông thầy bói xờ râu. Ông thầy vuốt măi, khen măi:
- Phải ông chánh đây. Quư hóa quá! Râu đâu mà lại có râu quí thế này!
Rồi lại vuốt râu ḿnh mà nói rằng:
- Râu của tôi cũng khá, nhưng mà so với râu ông c̣n kém sa! Ừ, ừ! Ông này đă ăn mắm tôm, đă đánh chén trong làng rồi mới ra đây! Thế mà chẳng có phần cho tôi, công ch́nh giữ ngựa nẫy giờ. Tệ lắm, ông chánh nhé!”.
Lại có không ít chuyện cười thầy đồ được bà lăo chủ nhà nuôi trong nhà, dạy học cho con cái nhưng thầy lại có máu dê xồm, cứ hăm he tăm tia con gái lớn người ta. Khuya nọ, thầy muốn ṭm tem bèn ṃ qua pḥng, vừa ngang qua bếp, bà lăo nghe tiếng động, hỏi, hoảng quá, thầy đồ nói trớ: “Thưa… tôi… xuống lấy vài cái rế đựng sách”. Thua keo này, bày keo khác. Qua dăm hôm sau, cũng nửa khuya thầy đồ ḷ ḍ trèo lên mái nhà dở rơm để tuột xuống đúng pḥng cô con gái đang ngủ, bỗng bà lăo cất tiếng:
- Ai ở trên kia?
- Thưa, tôi đây ạ.
- Tôi là ai?
- Tôi là thầy đồ!
- Chứ ông làm ǵ trên ấy thế?
- Thưa… tôi… hỏi thế này th́ khí không phải: có phải đường này lên giời được không?”.
Câu trả lời này, đố ai nín được cười. Xin chọn nhón và kể thêm mẩu chuyện nữa, có liên quan đến tính cách cố hữu của người Việt là… khoái làm thơ! Rằng, có cô con gái nhà quan kén chồng nhưng lại thích thơ; anh chàng nọ biết thế bèn làm thơ ve. Thơ rằng:
Huynh đây chẳng phải đứa bờm xơm
Vả lại trong nhà túc bát cơm
Trong bếp lam nham tam chĩnh mắm
Ngoài sân lúc nhúc lục cây rơm
Trông thấy cô ḿnh, anh phải dục
Đêm mơ nằm ngủ tiểu ra đờm”
Bài thơ này, mỗi câu đều có chữ nho như “huynh, túc, tam, lục, dục” nhưng hạ thủ bằng “đờm” th́ quả là… “tuyệt bút”.
T.N
Được biết, thuở sinh thời với bút danh Thọ An, ông Phạm Duy Tốn đă cho xuất bản tập sách Tiếu lâm An Nam do hiệu Ích Kư 58 Phố Hàng Giấy-Hà Nội in năm 1924. Trong lời Tựa, ông cho biết: “Những chuyện này cũng có nhiều câu lư thú nhưng mà nhời nhẽ thường không được thanh nhă lắm; bởi v́ rặt chuyện góp: khi năm ba anh em vui chơi, hoặc thấy lắm sự buồn cười, hoặc thấy điều trái dở, cho nên đặt ra chuyện để mà bài bác, không giữ ǵn nhời nhẽ. Tuy rằng suồng să, song vẫn là câu nó thường, ư tứ không cao xa nhưng chính là sự thực… Vả chăng thường có nhiều chuyện hay mà không mấy người biết”.
Khi nhà văn Phạm Duy Tốn cho biết có nhiều chuyện “suồng să”, đọc lại, ta thấy đúng là thế. Có khá nhiều chuyện thuộc loại “tiếu lâm mặn”, khiến đàn ông đàn ang tủm tỉm cười nhưng chắc ǵ quư bà quư cô không đỏ mặt? Chi tiết này cho thấy, một trong những thủ pháp gây cười c̣n là đem cả “cái ấy”, “chuyện ấy” nhằm mua vui, do đó, nếu đứng về phương diện đạo đức mà phê phán e phiến diện và cũng không đánh giá đúng tâm lư cười của người Việt. Xin dẫn chứng một thí dụ:
“Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm đương đi ngoài đường, chợt có đứa bé con trông thấy; nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng:
- Mẹ ơi, mau ra mà xem người không có mồm! -Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên:
- A! A! A! Ông này không có mồm!
Ông rậm râu tức quá, quay mặt lại, vạch râu chửi nó rằng:
- Chẳng có mồm là l… mẹ mày à!”.
Về râu, c̣n thêm mẩu chuyện này cũng… “thi vị” lém lỉnh không kém. Có lẽ cũng cần nên biết, qua đó, ta thấy trước kia người ta tinh quái đến cỡ nào khi bịa ra chuyện để gây cười. Rằng, ngày nọ ông chánh tổng có râu quai nón cưỡi ngựa đi làm thuế, đến quăng đường nhỏ, ngựa không đi được, ông ta gửi cho thầy bói mù ngồi trong quán nhờ trông hộ. Vậy, khi đến đ̣i ngựa làm sao biết đúng người mà trả, chánh tổng bảo cứ sờ râu quai nón của ông. Rồi cho thầy bói mù sờ râu của ḿnh. Nẫy giờ, có mụ ṃ cua đứng sau quán nghe trộm, bèn lập kế giả giọng ông chánh để lấy con ngựa. Và đây, chính là “cao trào” gây cười:
“- Nào, xin ông con ngựa nào!
- Ông chánh đấy, phải không?
- Phải, tôi đây. Tôi đi làm thuế về đây.
- Vậy th́ ông cho tôi xem râu, nào!
Mụ nọ lại gần, tốc ngược váy lên cho ông thầy bói xờ râu. Ông thầy vuốt măi, khen măi:
- Phải ông chánh đây. Quư hóa quá! Râu đâu mà lại có râu quí thế này!
Rồi lại vuốt râu ḿnh mà nói rằng:
- Râu của tôi cũng khá, nhưng mà so với râu ông c̣n kém sa! Ừ, ừ! Ông này đă ăn mắm tôm, đă đánh chén trong làng rồi mới ra đây! Thế mà chẳng có phần cho tôi, công ch́nh giữ ngựa nẫy giờ. Tệ lắm, ông chánh nhé!”.
Lại có không ít chuyện cười thầy đồ được bà lăo chủ nhà nuôi trong nhà, dạy học cho con cái nhưng thầy lại có máu dê xồm, cứ hăm he tăm tia con gái lớn người ta. Khuya nọ, thầy muốn ṭm tem bèn ṃ qua pḥng, vừa ngang qua bếp, bà lăo nghe tiếng động, hỏi, hoảng quá, thầy đồ nói trớ: “Thưa… tôi… xuống lấy vài cái rế đựng sách”. Thua keo này, bày keo khác. Qua dăm hôm sau, cũng nửa khuya thầy đồ ḷ ḍ trèo lên mái nhà dở rơm để tuột xuống đúng pḥng cô con gái đang ngủ, bỗng bà lăo cất tiếng:
- Ai ở trên kia?
- Thưa, tôi đây ạ.
- Tôi là ai?
- Tôi là thầy đồ!
- Chứ ông làm ǵ trên ấy thế?
- Thưa… tôi… hỏi thế này th́ khí không phải: có phải đường này lên giời được không?”.
Câu trả lời này, đố ai nín được cười. Xin chọn nhón và kể thêm mẩu chuyện nữa, có liên quan đến tính cách cố hữu của người Việt là… khoái làm thơ! Rằng, có cô con gái nhà quan kén chồng nhưng lại thích thơ; anh chàng nọ biết thế bèn làm thơ ve. Thơ rằng:
Huynh đây chẳng phải đứa bờm xơm
Vả lại trong nhà túc bát cơm
Trong bếp lam nham tam chĩnh mắm
Ngoài sân lúc nhúc lục cây rơm
Trông thấy cô ḿnh, anh phải dục
Đêm mơ nằm ngủ tiểu ra đờm”
Bài thơ này, mỗi câu đều có chữ nho như “huynh, túc, tam, lục, dục” nhưng hạ thủ bằng “đờm” th́ quả là… “tuyệt bút”.
T.N