florida80
04-17-2022, 20:30
1- Một bậc trưởng lăo, thọ giới Tỳ-kheo và tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đă hơn 50 năm. Ngài là niền tin và là tấm gương sáng cho nhiều Phật tử. tuy đă lớn tuổi, nhưng Ngài vẫn thường xuyên giữ chánh mạng, chưa hề bỏ quên khất thực hóa duyên, dù chỉ một ngày.
Hôm nọ tin dữ loan truyền khắp thành phố khiến mọi người sửng sốt: Khi đi hóa duyên trở về, ngài đă gặp tai nạn bất ngờ, một chiếc xe gắn máy đụng phải. Ngài đă thâu thần nhập diệt ngay tại hiện trường.
Chúng tôi nghe rất nhiều Phật tử x́ xào to nhỏ: “Ngài tu hành tinh tấn và nghiêm túc, tại sao lại chết thảm như vậy? Chắc là nghiệp của Ngài quá nặng? Nghiệp nặng?
Một vị Ni sư gần 60, xuất gia từ nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, luôn phát tâm hoằng pháp, bố thí, cúng dường. Hôm nọ ngồi sau xe gắn máy, té xuống bị xe hơi cán dập nửa thân ḿnh. Tuy vậy Ni sư vẫn c̣n tỉnh táo, chắp tay niệm Phật và căn dặn đệ tử nên tha thứ cho ngời tài xế vừa gây án, xong mới nhẹ nhàng tắt thở.
Người bạn tôi vô cùng rúng động, vội vă về tường thuật mọi sự và gào to: “Không thể chịu nổi, một người tu hành như vậy sao lại nhận lấy nghiệp nặng như thế?”
Tôi chờ anh ta hết xúc động mới nói: “anh c̣n nhớ không, trong kinh sách Phật dạy rơ: ‘Chết như thế nào và chết trong hoàn cảnh nào đều là do quả báo quá khứ từ vô lượng kiếp, chúng ta phàm phu không thể can dự được.
Không phải chết trên giường là tốt hơn trên hiện trường tai nạn, tất cả chỉ là lư do để ta xa rời thân xác này để đi tới kiếp sống khác’. Anh là người Phật tử có hành tŕ, tất nhiên không nên đặt tâm vào chuyện được chết trong t́nh trạng ưng ư, mà tốt nhất là được chết khi “nhất tâm bấn loạn”, khi tâm định tĩnh, khi làm chủ tâm thức lúc lâm chung – phải thế chứ?
C̣n nữa, một nữ Phật tử gần như trọn đời tu tại gia, thọ giới Bồ tát, ăn chay trường, ngoài ra luôn luôn tham gia từ thiện không bao giờ tiếc lẫn tài sản và công sức.
Thế nhưng, khi về già, thân th́ mang trọng bệnh, gia cảnh nghèo túng, mà đạo hữu càng lúc càng thưa dần. Đă thế con cái đứa th́ bị tai nạn, đứa th́ làm ăn thất bại, phải bỏ xứ mà đi, khiến bà ta chỉ c̣n chiếc bóng thui thủi, sớm chiều chỉ biết vui với xâu chuỗi hột. Nhiều nguời chép miệng dè bỉu: “nghiệp nặng!”.
Trong cuộc sống và cả trong những buổi đàm luận chuyện đạo, chúng ta thường nghe những người xung quanh hay thốt lên hai chữ “nghiệp nặng”. Từ ngữ này được sử dụng để kết thúc một câu chuyện đời, một mẫu tin thời sự, hoặc để phê phán hành vi kém cỏi của một cá nhân nào đó.
Ở đây, chúng tôi không đánh giá việc làm ấy là đúng hay sai. Mà chỉ đơn giản thảo luận đến ư nghĩa của từ ngữ Nghiệp nặng theo quan điểm Phật giáo mà chúng tôi được học mà thôi. C̣n những ai muốn t́m hiểu sâu xa về Nghiệp th́ xin kiếm t́m trong kho tàng kinh sách Phật giáo, hoặc có thể tham vấn các bậc tôn túc.
2- Phải chăng một thực thể gọi là “Nghiệp nặng” hay là không?
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ư nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”.
Nhưng khi được Đức Thích Ca sử dụng để tŕnh bày giáo lư do Ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, th́ từ ngữ này đă mang nhiều ư nghĩa khác biệt, phong phú hơn và thâm áo hơn. Hôm nay, chúng tôi chỉ hạn chế bài viết này trong hai từ ngữ “nghiệp nặng” mà chúng ta hay sử dụng một cách tùy tiện, dễ dăi!
“Nghiệp nặng” cũng là một từ ngữ hết sức hàm hồ đa nghĩa, v́ luôn lệ thuộc vào văn cảnh , hoặc tùy thuộc vào hệ thống triết học, tư tưởng mà nó phải diễn giải. Thói thường, người ta chỉ hiểu “nghiệp nặng” nghĩa là nghiệp chướng nặng nề, hoặc là: gặp phải quả báo tệ hại, xấu xa khốn khổ.
Theo quan điểm thế gian (của những người chưa tin Phật và học Phật) th́: kẻ nào nghèo nàn túng thiếu, bệnh hoạn tật ách, tai nạn cấp kỳ, gia đạo bất an, nghịch cảnh đau đớn, đời sống khó khăn, t́nh cảm bấn loạn, sinh hoạt đời thường không được ổn định v.v.. th́ bị thiên hạ gọi là “ kẻ có nghiệp chướng nặng nề” hoặc là “kẻ bị nghiệp nặng”
Phật giáo không hề nh́n nhận một cách thiển cận và thiếu sót như vậy.
3- Nhưng Phật giáo có rất nhiều loại nhận thức tùy thuộc vào nhiều nền giáo lư; tư tưởng khác biệt. Xin được tŕnh bày lần lượt như sau:
Theo quan điểm nguyên thủy, một chúng sanh được gọi là nghiệp nặng khi kẻ ấy không có điều kiện để thực hiện một nếp sống giải thoát. Mà mục tiêu của giải thoát là chứng dắc thánh quả A-la-hán (đạt tâm vô ngă), chấm dứt sự thọ nghiệp.
Vậy ta có thể kết luận rằng: ngài A-la-hán ra, tất cả chúng sanh chưa giải thoát đều là nghiệp nặng cả, v́ c̣n sinh tồn bởi nghiệp lực chứ không bằng tâm thái vô ngă (Ngay cả những bậc đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng c̣n sống bằng nghiệp lực nói chung và chưa đạt Vô ngă).
Trên đây là giáo lư dành cho bậc xuất gia, c̣n người tại gia (những người đă được thọ Tam quy và tŕ Ngũ giới) th́ ngoài việc bố thí cúng dường và đặt bát cho chư Tăng, Ni , th́ phải nỗ lực thọ tŕ Bát quan trai để được sanh Thiên ( sanh lên cơi Trời). Vậy ai không thường xuyên thọ tŕ Bát quan trai, sẽ không được “sanh Thiên”, như vậy có thể bị gọi là nghiệp nặng.
4- C̣n quan điểm Đại thừa th́ sao?
Đại thừa Phật giáo luôn luôn đặt trọng tâm nơi việc phát khởi Vô thượng Bồ-đề-tâm để giải thoát luân hồi sanh tử cho bản thân và để cứu độ tất cả chúng sanh khác, giúp mọi chúng sanh thành Phật như ḿnh.
Vậy kẻ nào không thể liên tục phát khởi Vô-thượng Bồ-đề tâm hoặc không tạo điều kiện để ḿnh cùng mọi chúng sanh thành tựu trí giác Phật-đà, th́ kẻ ấy vẫn là n gười đa mang nhiều nghiệp chướng nặng nề.
Đó là ư nghăi tạm thời của hai chữ “nghiệp nặng” được tŕnh bày tổng quát qua giáo lư Đại thừa.
Ngoài ra, tùy theo pháp môn tu hành mà người ta có thể diễn giải từ ngữ Nghiệp nặng theo nhiều ư nghĩa khác nhau, có thể sử dụng trong những văn cảnh khác nhau.
5- Ví dụ, Thiền tông chủ trương: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là tiêu chí cho tất cả môn đồ, đệ tử, không loại trừ bất cứ ai. Vậy kẻ nào chưa “thấy tánh”, nghĩa là chưa bắt gặp “cái mặt mày của ḿnh trước khi cha mẹ sinh ra” (ngôn ngữ nhà Thiền gọi là: chưa nhận chân được cái bản lai diện mục của ḿnh), và chưa thành tựu khả năng thành Phật th́ là một kẻ nghiệp nặng.
Dẫu là ḥa thượng, đại đức, thiền sư, tổ sư, nếu người nào c̣n lẩn quẩn bên ngoài cửa Đốn Ngộ th́ c̣n trầm luân sanh tử, nên gọi người ấy là kẻ có nghiệp chướng nặng nề, đáng thương đáng trách!
Hoa nghiêm tông lấy “Ly thế gian, nhập pháp giới”làm yếu chỉ tu hành. Người nào c̣n bị vương mắc bởi dây trói ngũ dục, bị ràng buộc bởi phiền năo chướng và sở tri chướng. c̣n dính líu đến những lợi ích thế gian và ngay cả những hiệu quả xuất thế gian, mà chưa nhập thế tánh siêu việt b́nh đẳng bất khả tư nghị của pháp giới th́…Hoa nghiêm tông gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề .
Thiên thai giáo tức Pháp Hoa tông th́ lấy “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” làm mục tiêu và cơ sở tu hành cho tất cả tín đồ.
Vậy, kẻ nào chưa ngộ nhập Phật tri kiến mà c̣n đang sống với quan điểm thế gian, nh́n mọi sự vật bằng con mắt phàm tục, đầy ư thức phân biệt, tách bạch thiện ác tốt xấu chỉ v́ thiếu thốn chất liệu từ bi, chưa phát huy năng lực trí tuệ của Phật, th́ vẫn là kẻ nghiệp chướng nặng nề, chưa liễu ngộ được tông chỉ của Thiên Thai giáo nói riêng và chưa cảm nhận diệu nghĩa của nhà Phật nói chung.
Pháp Tướng môn tức là Duy Thức tông th́ lấy “Nhiếp vạn pháp quy về Chân Duy Thức Tánh” ( tất cả không ngoài thức) làm cốt lơi cho sự hành tŕ, đồng thời làm cứu cánh tối hậu cho cuộc sống. Người nào chưa có khả năng thực hiện Chân Duy Thức Tánh, th́ gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
Luật Tông lấy “Nhiếp thân ngữ ư vào Thi-la-tánh” làm tông chỉ. Nghĩa là đi đứng nằm ngồi, tất cả mọi sinh hoạt, cử động , lời nói, tư tưởng, đều an trú trong Giới Tánh. Nếu chưa biểu hiện được như thế, th́ Luật Tông gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
Tam Luận tông lấy “Ĺa Có và Không, thẳng vào Trung đạo” làm tông chỉ, rồi tiến tới “siêu Tử Củ, tuyệt Bách Phi” làm cứu cánh tối hậu. Ai biểu hiện trái ngược lại, nghĩa là c̣n vướng víu cái Có của phàm phu, hoặc cái Không của Thánh nhân, th́ ta gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
6- Pháp môn Tịnh độ th́ sao?
Người theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực lạc th́ phải lấy “Tín Nguyện Hạnh” làm điều kiện chính yếu cho việc tu hành, và chấp nhận “ Một đời văng sanh, được bất thối chuyển” làm mục tiêu cuối cùng cho việc niệm Phật. Dù là tăng, tục, nam, nữ đều không biệt lệ.
Tín là ḷng tin chuyên nhất về sự cứu độ của chư Phật.
Nguyện là ư nguyện mong muốn được trở về sinh sống tại cơi tịnh độ.
Hạnh là, thường xuyên xưng niệm nam mô A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn.
Ai không có khả năng thực hiện được Tín Nguyện Hạnh và khi lâm chung không đuợc văng sanh Cực Lạc, th́ tông phái này sẽ gọi kẻ ấy là nghiệp chướng nặng nề v́ “c̣n vướng lụy”, phải ở lại thế gian, lăn lộn trong ba cơi sáu đường.
7- Đặc biệt ở Tịnh độ Nhật Bản, chư vị Tổ sư như Ngài Nhất Biến, Pháp Nhiên và Thân loan, đều cực lực tuyên dương 2 phần:
I- Danh hiệu Nam mô A Di Đà là phương tiện thù thắng, vừa là cứu cánh tối thượng, vừa là chỗ quy túc cho mọi hành vi, tư tưởng và lời nói của hành giả.
II- Bản nguyện A Di Đà có khả năng vĩ đại là cứu vớt tất cả kẻ “nghiệp nặng, phước khinh, chướng sâu, huệ cạn”, Hết thảy chúng sanh không phẩm tâm linh cần thiết cho mọi chúng sanh không phân biệt.
Do đó chúng ta chớ quên rằng, trong Pháp môn Tịnh độ các Tổ sư vô cùng hân hoan, thích thú khi che chở cho những kẻ thường bị thế gian miệt thị là nghiệp chướng nặng nề, là đôn căn hạ trí, là ươn hèn yếu đuối.
V́ Đức Phật A Di Đà luôn ưu ái những người tội lỗi, nghiệp nặng, va luôn luôn đối xử với họ bằng ḷng bi mẫn đặc biệt:
Nhưng thật ra, ngoại trừ những bậc thánh vào ra sanh tử cốt thị hiện để cứu độ chúng sanh th́…tất cả chúng sanh đều là kẻ nghiệp nặng hết thảy.
8- Tóm lại, từ ngữ “nghiệp nặng”không có chỗ đứng trong ḷng người Phật tử (v́ ai cũng là kẻ nghiệp nặng, dưới những h́nh thức khác nhau, trong những lốt vỏ khác nhau, trong những vị thế khác nhau-th́ cần chi phải luận bàn vô ích đến một sự kiện rất ư là hiền thiện như vậy?) hoặc nói cách khác:
Đạo Phật không có sự phân biệt “nghiệp nặng” hay là “nghiệp nhẹ”. V́ trái lại, kẻ nào nghiệp càng nặng, càng được Phật cứu độ một cách khẩn trương, càng được ưu ái bởi Bản Nguyện A Di Đà một cách triệt để, hoàn măn.
Ḥa thượng Quảng Khâm, một cao tăng trong thiền môn thời nay, đă dạy rằng:
“Danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chứa đựng vô biên năng lực bất khả tư ngh́, há không thể tẩy rửa mọi nghiệp chướng của chúng sanh dẫu sâu nặng tới đâu chăng nữa hay sao?
Vậy mà chúng ta chớ e sợ ḿnh nghiệp chướng nặng nề, mà hăy tự hỏi: chúng ta hành tŕ sáu chữ hồng danh đă thực thà, chân thật hay chưa?
Lại nữa, Đức Phật A Di Đà tựa như Bà Mẹ tràn đầy yêu thương, thế nên đứa con nào gặp phải nguy nan, khốn cùng, tai họa thê thảm mà lớn tiếng kêu cứu th́ Bà mẹ ấy đương nhiên phải quan tâm ngay lập tức, phải bày tỏ ḷng xót xa và cứu trợ cấp kỳ. Và điều này cũng không phải khó hiểu!
Cho nên chúng ta đừng ngại rằng ḿnh nghiệp nặng, mà cũng đứng miệt thị kẻ khác là “nghiệp nặng”, v́ nếu chủ trương như vậy, e rằng chúng ta dường như chưa hiểu và chưa tin vào Bản Nguyện A Di Đà! Ngài Thân Loan lại bảo:
May mắn thay cho những kẻ chất chứa nhiều ác nghiệp, bởi v́ họ sẽ được Đức Phật cứu độ khẩn cấp!
Bởi v́ tôi là một chúng sanh không chồng nghiệp nặng, tôi c̣n biết ơn sâu xa hơn đối với Bản Nguyện, nó đích thực được thiết lập ra để cứu độ tôi.
(Trích Sông Lửa Sông Nước của Taitetsu Unno, bản dịch An Cư)
Vâng, phài một danh hiệu thù thắng nhiệm màu như vậy, mới thừa khả năng cải biến tâm linh chún ta, chuyển hóa cái tâm dơ bẩn xấu ác này trở thành Niết-bàn vi diệu, bằng cách vận chuyển những kẻ u mê ám chướng tội lỗi nghiệp nặng sang định cư tại cơi Cực lạc chứ?
9- Chúng ta cần khẳng định rằng đạo Phật không những chỉ dành cho những người thông minh, đạo đức (hạng này rất ít, không mấy người), mà là đặc biệt dành cho những con người yếu đuối trước cám dỗ của tội lỗi, cưu mang lắm nghiệp nặng, hành vi xấu ác, tâm lư mê đắm. Nhờ vậy, mới làm sáng tỏ đức từ bi vô hạn của chư Phật, chư Bồ Tát.
Như Angulimala từng giết 999 người, c̣n âm mưu sát hại Đức Phật Thích Ca, thế mà c̣n được Phật khai ngộ và dạy dỗ cho đến khi chứng đạo.
Như Yasa, một công tử giàu có đam mê dục lạc, vẫn được Ngài thâu nhận làm đệ tử, rồi chẳng bao lâu đă chứng quả. Như Châu-lợi Bàn-đà-già là người u mê, si độn , vẫn được Phật đưa vào giáo đoàn. Sau này trở thành người có tài biện luận sắc sảo, nổi tiếng là bậc Nhớ Nghĩa Hay đệ nhất.
Cho nên chúng ta nên lạc quan, không cần biết nghiệp ḿnh nhẹ hay nặng, hăy hành tŕ chắc thật và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu độ không giới hạn của chư Phật.
Nguyễn Xuân Chiến
Hôm nọ tin dữ loan truyền khắp thành phố khiến mọi người sửng sốt: Khi đi hóa duyên trở về, ngài đă gặp tai nạn bất ngờ, một chiếc xe gắn máy đụng phải. Ngài đă thâu thần nhập diệt ngay tại hiện trường.
Chúng tôi nghe rất nhiều Phật tử x́ xào to nhỏ: “Ngài tu hành tinh tấn và nghiêm túc, tại sao lại chết thảm như vậy? Chắc là nghiệp của Ngài quá nặng? Nghiệp nặng?
Một vị Ni sư gần 60, xuất gia từ nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, luôn phát tâm hoằng pháp, bố thí, cúng dường. Hôm nọ ngồi sau xe gắn máy, té xuống bị xe hơi cán dập nửa thân ḿnh. Tuy vậy Ni sư vẫn c̣n tỉnh táo, chắp tay niệm Phật và căn dặn đệ tử nên tha thứ cho ngời tài xế vừa gây án, xong mới nhẹ nhàng tắt thở.
Người bạn tôi vô cùng rúng động, vội vă về tường thuật mọi sự và gào to: “Không thể chịu nổi, một người tu hành như vậy sao lại nhận lấy nghiệp nặng như thế?”
Tôi chờ anh ta hết xúc động mới nói: “anh c̣n nhớ không, trong kinh sách Phật dạy rơ: ‘Chết như thế nào và chết trong hoàn cảnh nào đều là do quả báo quá khứ từ vô lượng kiếp, chúng ta phàm phu không thể can dự được.
Không phải chết trên giường là tốt hơn trên hiện trường tai nạn, tất cả chỉ là lư do để ta xa rời thân xác này để đi tới kiếp sống khác’. Anh là người Phật tử có hành tŕ, tất nhiên không nên đặt tâm vào chuyện được chết trong t́nh trạng ưng ư, mà tốt nhất là được chết khi “nhất tâm bấn loạn”, khi tâm định tĩnh, khi làm chủ tâm thức lúc lâm chung – phải thế chứ?
C̣n nữa, một nữ Phật tử gần như trọn đời tu tại gia, thọ giới Bồ tát, ăn chay trường, ngoài ra luôn luôn tham gia từ thiện không bao giờ tiếc lẫn tài sản và công sức.
Thế nhưng, khi về già, thân th́ mang trọng bệnh, gia cảnh nghèo túng, mà đạo hữu càng lúc càng thưa dần. Đă thế con cái đứa th́ bị tai nạn, đứa th́ làm ăn thất bại, phải bỏ xứ mà đi, khiến bà ta chỉ c̣n chiếc bóng thui thủi, sớm chiều chỉ biết vui với xâu chuỗi hột. Nhiều nguời chép miệng dè bỉu: “nghiệp nặng!”.
Trong cuộc sống và cả trong những buổi đàm luận chuyện đạo, chúng ta thường nghe những người xung quanh hay thốt lên hai chữ “nghiệp nặng”. Từ ngữ này được sử dụng để kết thúc một câu chuyện đời, một mẫu tin thời sự, hoặc để phê phán hành vi kém cỏi của một cá nhân nào đó.
Ở đây, chúng tôi không đánh giá việc làm ấy là đúng hay sai. Mà chỉ đơn giản thảo luận đến ư nghĩa của từ ngữ Nghiệp nặng theo quan điểm Phật giáo mà chúng tôi được học mà thôi. C̣n những ai muốn t́m hiểu sâu xa về Nghiệp th́ xin kiếm t́m trong kho tàng kinh sách Phật giáo, hoặc có thể tham vấn các bậc tôn túc.
2- Phải chăng một thực thể gọi là “Nghiệp nặng” hay là không?
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ư nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”.
Nhưng khi được Đức Thích Ca sử dụng để tŕnh bày giáo lư do Ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, th́ từ ngữ này đă mang nhiều ư nghĩa khác biệt, phong phú hơn và thâm áo hơn. Hôm nay, chúng tôi chỉ hạn chế bài viết này trong hai từ ngữ “nghiệp nặng” mà chúng ta hay sử dụng một cách tùy tiện, dễ dăi!
“Nghiệp nặng” cũng là một từ ngữ hết sức hàm hồ đa nghĩa, v́ luôn lệ thuộc vào văn cảnh , hoặc tùy thuộc vào hệ thống triết học, tư tưởng mà nó phải diễn giải. Thói thường, người ta chỉ hiểu “nghiệp nặng” nghĩa là nghiệp chướng nặng nề, hoặc là: gặp phải quả báo tệ hại, xấu xa khốn khổ.
Theo quan điểm thế gian (của những người chưa tin Phật và học Phật) th́: kẻ nào nghèo nàn túng thiếu, bệnh hoạn tật ách, tai nạn cấp kỳ, gia đạo bất an, nghịch cảnh đau đớn, đời sống khó khăn, t́nh cảm bấn loạn, sinh hoạt đời thường không được ổn định v.v.. th́ bị thiên hạ gọi là “ kẻ có nghiệp chướng nặng nề” hoặc là “kẻ bị nghiệp nặng”
Phật giáo không hề nh́n nhận một cách thiển cận và thiếu sót như vậy.
3- Nhưng Phật giáo có rất nhiều loại nhận thức tùy thuộc vào nhiều nền giáo lư; tư tưởng khác biệt. Xin được tŕnh bày lần lượt như sau:
Theo quan điểm nguyên thủy, một chúng sanh được gọi là nghiệp nặng khi kẻ ấy không có điều kiện để thực hiện một nếp sống giải thoát. Mà mục tiêu của giải thoát là chứng dắc thánh quả A-la-hán (đạt tâm vô ngă), chấm dứt sự thọ nghiệp.
Vậy ta có thể kết luận rằng: ngài A-la-hán ra, tất cả chúng sanh chưa giải thoát đều là nghiệp nặng cả, v́ c̣n sinh tồn bởi nghiệp lực chứ không bằng tâm thái vô ngă (Ngay cả những bậc đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng c̣n sống bằng nghiệp lực nói chung và chưa đạt Vô ngă).
Trên đây là giáo lư dành cho bậc xuất gia, c̣n người tại gia (những người đă được thọ Tam quy và tŕ Ngũ giới) th́ ngoài việc bố thí cúng dường và đặt bát cho chư Tăng, Ni , th́ phải nỗ lực thọ tŕ Bát quan trai để được sanh Thiên ( sanh lên cơi Trời). Vậy ai không thường xuyên thọ tŕ Bát quan trai, sẽ không được “sanh Thiên”, như vậy có thể bị gọi là nghiệp nặng.
4- C̣n quan điểm Đại thừa th́ sao?
Đại thừa Phật giáo luôn luôn đặt trọng tâm nơi việc phát khởi Vô thượng Bồ-đề-tâm để giải thoát luân hồi sanh tử cho bản thân và để cứu độ tất cả chúng sanh khác, giúp mọi chúng sanh thành Phật như ḿnh.
Vậy kẻ nào không thể liên tục phát khởi Vô-thượng Bồ-đề tâm hoặc không tạo điều kiện để ḿnh cùng mọi chúng sanh thành tựu trí giác Phật-đà, th́ kẻ ấy vẫn là n gười đa mang nhiều nghiệp chướng nặng nề.
Đó là ư nghăi tạm thời của hai chữ “nghiệp nặng” được tŕnh bày tổng quát qua giáo lư Đại thừa.
Ngoài ra, tùy theo pháp môn tu hành mà người ta có thể diễn giải từ ngữ Nghiệp nặng theo nhiều ư nghĩa khác nhau, có thể sử dụng trong những văn cảnh khác nhau.
5- Ví dụ, Thiền tông chủ trương: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là tiêu chí cho tất cả môn đồ, đệ tử, không loại trừ bất cứ ai. Vậy kẻ nào chưa “thấy tánh”, nghĩa là chưa bắt gặp “cái mặt mày của ḿnh trước khi cha mẹ sinh ra” (ngôn ngữ nhà Thiền gọi là: chưa nhận chân được cái bản lai diện mục của ḿnh), và chưa thành tựu khả năng thành Phật th́ là một kẻ nghiệp nặng.
Dẫu là ḥa thượng, đại đức, thiền sư, tổ sư, nếu người nào c̣n lẩn quẩn bên ngoài cửa Đốn Ngộ th́ c̣n trầm luân sanh tử, nên gọi người ấy là kẻ có nghiệp chướng nặng nề, đáng thương đáng trách!
Hoa nghiêm tông lấy “Ly thế gian, nhập pháp giới”làm yếu chỉ tu hành. Người nào c̣n bị vương mắc bởi dây trói ngũ dục, bị ràng buộc bởi phiền năo chướng và sở tri chướng. c̣n dính líu đến những lợi ích thế gian và ngay cả những hiệu quả xuất thế gian, mà chưa nhập thế tánh siêu việt b́nh đẳng bất khả tư nghị của pháp giới th́…Hoa nghiêm tông gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề .
Thiên thai giáo tức Pháp Hoa tông th́ lấy “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” làm mục tiêu và cơ sở tu hành cho tất cả tín đồ.
Vậy, kẻ nào chưa ngộ nhập Phật tri kiến mà c̣n đang sống với quan điểm thế gian, nh́n mọi sự vật bằng con mắt phàm tục, đầy ư thức phân biệt, tách bạch thiện ác tốt xấu chỉ v́ thiếu thốn chất liệu từ bi, chưa phát huy năng lực trí tuệ của Phật, th́ vẫn là kẻ nghiệp chướng nặng nề, chưa liễu ngộ được tông chỉ của Thiên Thai giáo nói riêng và chưa cảm nhận diệu nghĩa của nhà Phật nói chung.
Pháp Tướng môn tức là Duy Thức tông th́ lấy “Nhiếp vạn pháp quy về Chân Duy Thức Tánh” ( tất cả không ngoài thức) làm cốt lơi cho sự hành tŕ, đồng thời làm cứu cánh tối hậu cho cuộc sống. Người nào chưa có khả năng thực hiện Chân Duy Thức Tánh, th́ gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
Luật Tông lấy “Nhiếp thân ngữ ư vào Thi-la-tánh” làm tông chỉ. Nghĩa là đi đứng nằm ngồi, tất cả mọi sinh hoạt, cử động , lời nói, tư tưởng, đều an trú trong Giới Tánh. Nếu chưa biểu hiện được như thế, th́ Luật Tông gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
Tam Luận tông lấy “Ĺa Có và Không, thẳng vào Trung đạo” làm tông chỉ, rồi tiến tới “siêu Tử Củ, tuyệt Bách Phi” làm cứu cánh tối hậu. Ai biểu hiện trái ngược lại, nghĩa là c̣n vướng víu cái Có của phàm phu, hoặc cái Không của Thánh nhân, th́ ta gọi kẻ ấy c̣n nghiệp chướng nặng nề.
6- Pháp môn Tịnh độ th́ sao?
Người theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực lạc th́ phải lấy “Tín Nguyện Hạnh” làm điều kiện chính yếu cho việc tu hành, và chấp nhận “ Một đời văng sanh, được bất thối chuyển” làm mục tiêu cuối cùng cho việc niệm Phật. Dù là tăng, tục, nam, nữ đều không biệt lệ.
Tín là ḷng tin chuyên nhất về sự cứu độ của chư Phật.
Nguyện là ư nguyện mong muốn được trở về sinh sống tại cơi tịnh độ.
Hạnh là, thường xuyên xưng niệm nam mô A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn.
Ai không có khả năng thực hiện được Tín Nguyện Hạnh và khi lâm chung không đuợc văng sanh Cực Lạc, th́ tông phái này sẽ gọi kẻ ấy là nghiệp chướng nặng nề v́ “c̣n vướng lụy”, phải ở lại thế gian, lăn lộn trong ba cơi sáu đường.
7- Đặc biệt ở Tịnh độ Nhật Bản, chư vị Tổ sư như Ngài Nhất Biến, Pháp Nhiên và Thân loan, đều cực lực tuyên dương 2 phần:
I- Danh hiệu Nam mô A Di Đà là phương tiện thù thắng, vừa là cứu cánh tối thượng, vừa là chỗ quy túc cho mọi hành vi, tư tưởng và lời nói của hành giả.
II- Bản nguyện A Di Đà có khả năng vĩ đại là cứu vớt tất cả kẻ “nghiệp nặng, phước khinh, chướng sâu, huệ cạn”, Hết thảy chúng sanh không phẩm tâm linh cần thiết cho mọi chúng sanh không phân biệt.
Do đó chúng ta chớ quên rằng, trong Pháp môn Tịnh độ các Tổ sư vô cùng hân hoan, thích thú khi che chở cho những kẻ thường bị thế gian miệt thị là nghiệp chướng nặng nề, là đôn căn hạ trí, là ươn hèn yếu đuối.
V́ Đức Phật A Di Đà luôn ưu ái những người tội lỗi, nghiệp nặng, va luôn luôn đối xử với họ bằng ḷng bi mẫn đặc biệt:
Nhưng thật ra, ngoại trừ những bậc thánh vào ra sanh tử cốt thị hiện để cứu độ chúng sanh th́…tất cả chúng sanh đều là kẻ nghiệp nặng hết thảy.
8- Tóm lại, từ ngữ “nghiệp nặng”không có chỗ đứng trong ḷng người Phật tử (v́ ai cũng là kẻ nghiệp nặng, dưới những h́nh thức khác nhau, trong những lốt vỏ khác nhau, trong những vị thế khác nhau-th́ cần chi phải luận bàn vô ích đến một sự kiện rất ư là hiền thiện như vậy?) hoặc nói cách khác:
Đạo Phật không có sự phân biệt “nghiệp nặng” hay là “nghiệp nhẹ”. V́ trái lại, kẻ nào nghiệp càng nặng, càng được Phật cứu độ một cách khẩn trương, càng được ưu ái bởi Bản Nguyện A Di Đà một cách triệt để, hoàn măn.
Ḥa thượng Quảng Khâm, một cao tăng trong thiền môn thời nay, đă dạy rằng:
“Danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chứa đựng vô biên năng lực bất khả tư ngh́, há không thể tẩy rửa mọi nghiệp chướng của chúng sanh dẫu sâu nặng tới đâu chăng nữa hay sao?
Vậy mà chúng ta chớ e sợ ḿnh nghiệp chướng nặng nề, mà hăy tự hỏi: chúng ta hành tŕ sáu chữ hồng danh đă thực thà, chân thật hay chưa?
Lại nữa, Đức Phật A Di Đà tựa như Bà Mẹ tràn đầy yêu thương, thế nên đứa con nào gặp phải nguy nan, khốn cùng, tai họa thê thảm mà lớn tiếng kêu cứu th́ Bà mẹ ấy đương nhiên phải quan tâm ngay lập tức, phải bày tỏ ḷng xót xa và cứu trợ cấp kỳ. Và điều này cũng không phải khó hiểu!
Cho nên chúng ta đừng ngại rằng ḿnh nghiệp nặng, mà cũng đứng miệt thị kẻ khác là “nghiệp nặng”, v́ nếu chủ trương như vậy, e rằng chúng ta dường như chưa hiểu và chưa tin vào Bản Nguyện A Di Đà! Ngài Thân Loan lại bảo:
May mắn thay cho những kẻ chất chứa nhiều ác nghiệp, bởi v́ họ sẽ được Đức Phật cứu độ khẩn cấp!
Bởi v́ tôi là một chúng sanh không chồng nghiệp nặng, tôi c̣n biết ơn sâu xa hơn đối với Bản Nguyện, nó đích thực được thiết lập ra để cứu độ tôi.
(Trích Sông Lửa Sông Nước của Taitetsu Unno, bản dịch An Cư)
Vâng, phài một danh hiệu thù thắng nhiệm màu như vậy, mới thừa khả năng cải biến tâm linh chún ta, chuyển hóa cái tâm dơ bẩn xấu ác này trở thành Niết-bàn vi diệu, bằng cách vận chuyển những kẻ u mê ám chướng tội lỗi nghiệp nặng sang định cư tại cơi Cực lạc chứ?
9- Chúng ta cần khẳng định rằng đạo Phật không những chỉ dành cho những người thông minh, đạo đức (hạng này rất ít, không mấy người), mà là đặc biệt dành cho những con người yếu đuối trước cám dỗ của tội lỗi, cưu mang lắm nghiệp nặng, hành vi xấu ác, tâm lư mê đắm. Nhờ vậy, mới làm sáng tỏ đức từ bi vô hạn của chư Phật, chư Bồ Tát.
Như Angulimala từng giết 999 người, c̣n âm mưu sát hại Đức Phật Thích Ca, thế mà c̣n được Phật khai ngộ và dạy dỗ cho đến khi chứng đạo.
Như Yasa, một công tử giàu có đam mê dục lạc, vẫn được Ngài thâu nhận làm đệ tử, rồi chẳng bao lâu đă chứng quả. Như Châu-lợi Bàn-đà-già là người u mê, si độn , vẫn được Phật đưa vào giáo đoàn. Sau này trở thành người có tài biện luận sắc sảo, nổi tiếng là bậc Nhớ Nghĩa Hay đệ nhất.
Cho nên chúng ta nên lạc quan, không cần biết nghiệp ḿnh nhẹ hay nặng, hăy hành tŕ chắc thật và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu độ không giới hạn của chư Phật.
Nguyễn Xuân Chiến