florida80
04-18-2022, 01:21
Đă lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy ŕ rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn c̣n đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người t́nh bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đă thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn ĺa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe th́ rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ ǵ đâu.
Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-g̣n trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số ǵ đó là tôi đă bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-g̣n ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ gị nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng ḿnh đă lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đă thấy ṿng lại chỗ cũ, ḷng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái h́nh ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, c̣n cái h́nh ảnh năo nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ ṿ vơ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người t́nh cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ th́ mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đă thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không.
Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, ḷng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân ḿnh lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang v́ một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gơ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương v́ vệt nắng hoang, v́ tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái ǵ trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đă thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại h́nh ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi th́ háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ th́ ḷng tôi lại tŕ tŕ những kỷ niệm cũ x́. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm ḷng ṿng chơi măi cái tṛ bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho ḍng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi th́ làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài G̣n, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sơi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-g̣n chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong ḷng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đ̣ng đ̣ng nhớ lại. Người t́nh đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu th́ thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại băi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở th́ rầu muốn chết mà đi xa th́ nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là t́nh quê đó chăng?
Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đăi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dăy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. C̣n nữa, c̣n nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo ǵ đâu mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đă đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đă qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái ǵ lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nh́n ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lăng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô t́nh đă chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đă một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lư do nào, th́ đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết ḿnh khó có dịp qua lại nữa.
Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy ḿnh về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm ǵ với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4 từ Sài G̣n xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam đến đó phát đổ ṛng ṛng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc c̣n non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đ̣, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ ph́ pḥ hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy t́m mấy chỗ giải thủy cho nhẹ ḿnh, khi th́ bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân th́ xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân t́nh. Hàng quán th́ bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nh́n mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ c̣n hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đ́nh. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa t́nh qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc t́nh tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi ǵ không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đă ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây c̣n bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng ṇi t́nh như ông C̣ quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt T́nh Ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đă chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc c̣n rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu ǵ hết tới mấy cái chuyện t́nh duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số ǵ đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có ǵ là đặc sắc.
Chỉ có điều con đường đó là cái ngơ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lăng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vă lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ, những chuyến lên đường! H́nh ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lư, của kiểu đời gạo chợ nước sông đă làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
H́nh dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài G̣n. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Ḷng xe tối ṃ. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nh́n cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đă giựt ḿnh nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đ̣. Có ăn ǵ th́ xả rác trong xe bà con ơi… Đứa bé giựt ḿnh mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút năy c̣n ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đă thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí ḍm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À th́ ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cơi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đă bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa vơ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… c̣n có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mănh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe chạy chậm lại rồi rà rà t́m chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được ḥa hết ḿnh vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vă đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc ṭn teng dưới cặp đ̣n gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huưt mặt câng câng như tự thấy ḿnh quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe ḅ lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc v́ ḷng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới ṿng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” th́ ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay h́nh chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đ̣ một chút mà lại đâm thẳng ra ḍng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng ḿnh. Hèn chi ngay đầu cầu lúc năy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À th́ ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao v́ ông tài xế coi bộ b́nh tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu th́ ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích.
Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư ṿng tṛn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đă hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên pḥng lái ra lệnh dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đơi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dăy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ng̣m. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ ŕ ŕ đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục b́nh trôi băng băng ngược chiều.
Gặp mùa lũ chướng xem chừng c̣n nhàn nhă hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ́ ạch ṿng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tṛng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó c̣n mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, ḷng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết b́nh minh. Con sông hiện rơ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm ḷng nhỏ xíu của nó như đă dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm cái h́nh ảnh của thiên nhiên cựa ḿnh sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau ǵ đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vă thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ ǵ là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là h́nh ảnh một ḍng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.
Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đă giữ trong tôi cái h́nh ảnh qua lại bất tận trên ḍng sông bất tuyệt này rất lâu. Măi đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà ḷng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Ḷng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái h́nh ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. C̣n tôi th́ cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái t́nh của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước th́ vô t́nh cô ta đâm chán nản đ̣i bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giă nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng ǵ mà quyết liệt c̣n hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đ̣n rồi đày vào lănh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ cũng uổng, chỉ v́ ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số th́ giẩy nẩy đ̣i về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại th́ cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn ḥ. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được th́ hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không th́ dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu t́nh nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại th́ càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển.
C̣n cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ th́ giữa cảnh tên bay đạn lạc đó th́ c̣n đâu tâm trí mà nói chuyện tâm t́nh. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại c̣n đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch th́ hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập ŕnh, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngă tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang th́ thôi chớ c̣n xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đă gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đă thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cơi đời này mà một ông Tàu xưa đă cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giă, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lư dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh th́ cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, ḍm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, ḍng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đă triết lư vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ c̣n ḿnh tôi là đi lại chung t́nh với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi v́ ở đó tôi đă sống bao nhiêu cảnh t́nh mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Băi trường năm 66, 67 ǵ đó, tôi từ Sài G̣n về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đ̣ về t́m tôi từ giă. Không biết lúc ấy ḷng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-g̣n, một ḿnh đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong ḷng.
Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong ḷng. C̣n tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông th́ sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay th́ chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi c̣n cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết.
Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận th́ ông ta đă có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong ṿng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái ǵ oan nghiệt nhất, cái ǵ đoạn trường nhất, cái ǵ tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng ḷng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên t́m chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ư tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ ǵ lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết ǵ hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, c̣n bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đă lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản ǵ chỉ nghe được cái năo nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt ḿnh đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cơi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng ḿnh muốn phát lănh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi ṿng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt.
Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. C̣n đa số th́ chắc quá vội đi mà không kể ǵ đến tiếng đàn bỏ lại. C̣n tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đă là một thiệt tḥi. Mù mà tài hoa th́ đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đă gởi tâm sự ḿnh trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nh́n ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, ḷng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu.
Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay ǵ ǵ nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại x́-lô. Đă nói tôi c̣n dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. C̣n người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nh́n thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đă có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ c̣n tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi t́m bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt ḿnh thấy ḿnh ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đă chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đă dốc hết tiền c̣n lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực th́ xăm “hận kẻ bạc t́nh” sau lưng th́ xăm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đă thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đ̣i rạch bụng khi người yêu đ̣i “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân t́nh bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đă thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín c̣n hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đ̣ ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, b́nh chuyện đời xưa không thua ǵ Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi th́ đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người t́nh chung thủy, như một người thầy lăo luyện đă dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy ḿnh giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá ḷng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thọng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo ṭn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại ḍm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi c̣n nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đă bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đă cất cầu treo ở trên ḍng sông lớn. Những chuyến phà chắc đă kéo vào ụ hay ră ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đă đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đă nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội t́nh. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đ̣ thôi đâu. Chắc chắn ông c̣n rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng ḿnh. Bởi v́ nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi c̣n bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời.
Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho ḿnh những h́nh ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phứt cái cho được việc. Cuộc đời c̣n hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ x́, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường t́nh, trăm họ có khốn khó th́ cũng là vận số thôi. Th́ vâng. Nhưng vận số ǵ mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc th́ cứ ngày một phủ phê. C̣n bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt th́ cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số th́ cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng liêng th́ phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy th́ đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, ḷng đạm bạc đă đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi th́ thử hỏi có lạ không. Đă không c̣n giặc giă để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy th́ tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cơi tạm. Vậy th́ tại ai? Hỏi th́ cứ hỏi chớ câu trả lời đă sờ sờ ra đó.
Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm h́nh chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nh́n ngất ngưởng chẳng thua ǵ Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nh́n trong h́nh chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc c̣n đẹp hơn nữa. Ở xa tôi h́nh dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đă mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không c̣n nữa th́ những vóc dáng xưa chắc cũng đă biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc t́nh xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đă mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vă hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không c̣n bung thùa như thuở tôi c̣n đi lại. Có thể cái bến nước đó đă mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đă khác th́ nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ th́ sông nước cũng chỉ là một cơi bơ vơ có lấy ǵ làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu th́ cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lư cái cuộc sống đă bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nh́n tấm h́nh chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng th́ có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đă ăn sâu trong ḷng của một số không ít người.
Và nhất là cứ tự hỏi, sao c̣n hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong ḷng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm ḷng người Việt không c̣n những bờ bến phân chia?
Chính v́ những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.
Cao Vị Khanh
Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-g̣n trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số ǵ đó là tôi đă bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-g̣n ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ gị nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng ḿnh đă lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đă thấy ṿng lại chỗ cũ, ḷng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái h́nh ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, c̣n cái h́nh ảnh năo nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ ṿ vơ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người t́nh cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ th́ mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đă thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không.
Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, ḷng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân ḿnh lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang v́ một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gơ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương v́ vệt nắng hoang, v́ tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái ǵ trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đă thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại h́nh ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi th́ háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ th́ ḷng tôi lại tŕ tŕ những kỷ niệm cũ x́. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm ḷng ṿng chơi măi cái tṛ bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho ḍng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi th́ làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!
Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài G̣n, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sơi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-g̣n chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong ḷng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đ̣ng đ̣ng nhớ lại. Người t́nh đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu th́ thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại băi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở th́ rầu muốn chết mà đi xa th́ nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là t́nh quê đó chăng?
Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đăi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dăy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. C̣n nữa, c̣n nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo ǵ đâu mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!
Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đă đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đă qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái ǵ lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nh́n ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lăng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô t́nh đă chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đă một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lư do nào, th́ đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết ḿnh khó có dịp qua lại nữa.
Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy ḿnh về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm ǵ với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4 từ Sài G̣n xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam đến đó phát đổ ṛng ṛng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc c̣n non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đ̣, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ ph́ pḥ hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy t́m mấy chỗ giải thủy cho nhẹ ḿnh, khi th́ bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm.
Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân th́ xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân t́nh. Hàng quán th́ bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nh́n mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ c̣n hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đ́nh. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa t́nh qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc t́nh tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi ǵ không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đă ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.
Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây c̣n bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng ṇi t́nh như ông C̣ quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt T́nh Ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đă chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc c̣n rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu ǵ hết tới mấy cái chuyện t́nh duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số ǵ đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có ǵ là đặc sắc.
Chỉ có điều con đường đó là cái ngơ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lăng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vă lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.
Ờ, những chuyến lên đường! H́nh ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lư, của kiểu đời gạo chợ nước sông đă làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.
H́nh dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài G̣n. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Ḷng xe tối ṃ. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nh́n cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đă giựt ḿnh nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đ̣. Có ăn ǵ th́ xả rác trong xe bà con ơi… Đứa bé giựt ḿnh mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút năy c̣n ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đă thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.
Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí ḍm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À th́ ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cơi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đă bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa vơ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… c̣n có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mănh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.
Xe chạy chậm lại rồi rà rà t́m chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được ḥa hết ḿnh vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vă đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc ṭn teng dưới cặp đ̣n gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huưt mặt câng câng như tự thấy ḿnh quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe ḅ lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc v́ ḷng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.
Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới ṿng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” th́ ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay h́nh chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đ̣ một chút mà lại đâm thẳng ra ḍng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng ḿnh. Hèn chi ngay đầu cầu lúc năy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À th́ ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao v́ ông tài xế coi bộ b́nh tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu th́ ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích.
Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư ṿng tṛn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đă hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên pḥng lái ra lệnh dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đơi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dăy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ng̣m. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ ŕ ŕ đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục b́nh trôi băng băng ngược chiều.
Gặp mùa lũ chướng xem chừng c̣n nhàn nhă hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ́ ạch ṿng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tṛng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó c̣n mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, ḷng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết b́nh minh. Con sông hiện rơ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm ḷng nhỏ xíu của nó như đă dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm cái h́nh ảnh của thiên nhiên cựa ḿnh sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.
Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau ǵ đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vă thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ ǵ là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là h́nh ảnh một ḍng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.
Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đă giữ trong tôi cái h́nh ảnh qua lại bất tận trên ḍng sông bất tuyệt này rất lâu. Măi đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà ḷng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Ḷng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái h́nh ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.
Năm học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. C̣n tôi th́ cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái t́nh của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước th́ vô t́nh cô ta đâm chán nản đ̣i bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giă nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng ǵ mà quyết liệt c̣n hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đ̣n rồi đày vào lănh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”
Nghĩ cũng uổng, chỉ v́ ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số th́ giẩy nẩy đ̣i về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại th́ cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn ḥ. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được th́ hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không th́ dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu t́nh nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại th́ càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển.
C̣n cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ th́ giữa cảnh tên bay đạn lạc đó th́ c̣n đâu tâm trí mà nói chuyện tâm t́nh. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại c̣n đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch th́ hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập ŕnh, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngă tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang th́ thôi chớ c̣n xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đă gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đă thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cơi đời này mà một ông Tàu xưa đă cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giă, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.
Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lư dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh th́ cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, ḍm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, ḍng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đă triết lư vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ c̣n ḿnh tôi là đi lại chung t́nh với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi v́ ở đó tôi đă sống bao nhiêu cảnh t́nh mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Băi trường năm 66, 67 ǵ đó, tôi từ Sài G̣n về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đ̣ về t́m tôi từ giă. Không biết lúc ấy ḷng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-g̣n, một ḿnh đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong ḷng.
Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong ḷng. C̣n tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông th́ sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay th́ chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi c̣n cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết.
Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận th́ ông ta đă có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong ṿng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái ǵ oan nghiệt nhất, cái ǵ đoạn trường nhất, cái ǵ tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng ḷng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.
Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên t́m chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ư tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ ǵ lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết ǵ hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, c̣n bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đă lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản ǵ chỉ nghe được cái năo nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt ḿnh đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cơi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng ḿnh muốn phát lănh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi ṿng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt.
Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. C̣n đa số th́ chắc quá vội đi mà không kể ǵ đến tiếng đàn bỏ lại. C̣n tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đă là một thiệt tḥi. Mù mà tài hoa th́ đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đă gởi tâm sự ḿnh trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nh́n ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, ḷng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu.
Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay ǵ ǵ nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại x́-lô. Đă nói tôi c̣n dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. C̣n người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nh́n thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đă có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ c̣n tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi t́m bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt ḿnh thấy ḿnh ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đă chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đă dốc hết tiền c̣n lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.
Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực th́ xăm “hận kẻ bạc t́nh” sau lưng th́ xăm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đă thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đ̣i rạch bụng khi người yêu đ̣i “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân t́nh bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đă thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín c̣n hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đ̣ ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, b́nh chuyện đời xưa không thua ǵ Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi th́ đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người t́nh chung thủy, như một người thầy lăo luyện đă dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy ḿnh giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.
Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá ḷng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thọng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo ṭn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại ḍm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.
Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi c̣n nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đă bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đă cất cầu treo ở trên ḍng sông lớn. Những chuyến phà chắc đă kéo vào ụ hay ră ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đă đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đă nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội t́nh. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đ̣ thôi đâu. Chắc chắn ông c̣n rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng ḿnh. Bởi v́ nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi c̣n bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời.
Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho ḿnh những h́nh ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phứt cái cho được việc. Cuộc đời c̣n hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ x́, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường t́nh, trăm họ có khốn khó th́ cũng là vận số thôi. Th́ vâng. Nhưng vận số ǵ mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc th́ cứ ngày một phủ phê. C̣n bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt th́ cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số th́ cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng liêng th́ phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy th́ đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, ḷng đạm bạc đă đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi th́ thử hỏi có lạ không. Đă không c̣n giặc giă để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy th́ tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cơi tạm. Vậy th́ tại ai? Hỏi th́ cứ hỏi chớ câu trả lời đă sờ sờ ra đó.
Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm h́nh chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nh́n ngất ngưởng chẳng thua ǵ Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nh́n trong h́nh chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc c̣n đẹp hơn nữa. Ở xa tôi h́nh dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đă mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không c̣n nữa th́ những vóc dáng xưa chắc cũng đă biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc t́nh xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.
Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đă mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vă hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không c̣n bung thùa như thuở tôi c̣n đi lại. Có thể cái bến nước đó đă mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đă khác th́ nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ th́ sông nước cũng chỉ là một cơi bơ vơ có lấy ǵ làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu th́ cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lư cái cuộc sống đă bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nh́n tấm h́nh chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng th́ có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đă ăn sâu trong ḷng của một số không ít người.
Và nhất là cứ tự hỏi, sao c̣n hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong ḷng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm ḷng người Việt không c̣n những bờ bến phân chia?
Chính v́ những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.
Cao Vị Khanh