Log in

View Full Version : Tấm bia cổ nhất Việt Nam giữa đống tàn tích, chuyên gia Pháp cũng đau đầu khi 'giải mật'


therealrtz
04-19-2022, 15:31
Đây là nguồn sử liệu quư báu về vương quốc cổ Champa, đồng thời cũng là tấm bia cổ nhất được t́m thấy ở vùng Đông Nam Á tính cho tới nay.

Bia kư Vơ Cạnh được xem là tấm bia cổ nhất Việt Nam, có niên đại từ rất sớm (khoảng thế kỷ III – IV). Tấm bia kư Vơ Cạnh này được đánh giá là một nguồn sử liệu quư báu về vương quốc cổ Champa, đồng thời đây cũng là tấm bia cổ nhất ở vùng Đông Nam Á được t́m thấy cho tới nay.

Điều đặc biệt là bài minh văn khắc trên bia vẫn chưa được giải mă – đây là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu.

BẢO VẬT GIỮA ĐỐNG TÀN TÍCH

https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2041029&stc=1&d=1650382267
Bia Vơ Cạnh – Tấm bia cổ nhất Việt Nam. (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Bia Vơ Cạnh được phát hiện ở một khu tàn tích bằng gạch tại làng Vơ Cạnh (xă Vĩnh Trung, huyện Diên Khánh, Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Ḥa). Một thời gian sau, tấm bia này được Viện Viễn Đông Bác cổ đưa về Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) vào năm 1910.

Niên đại chính xác của bia Vơ Cạnh vẫn là sự tranh luận lớn cho đến ngày nay.

Ông A.Bergaigne - người đầu tiên nghiên cứu về bia Vơ Cạnh trong giai đoạn 1888 đến 1893, cho rằng bia có nguồn gốc từ Nam Ấn (L’Inde du Sud). Ông lư giải rằng chữ viết trên bia rất giống với văn tự Satakarni Vasisthiputra ở Kanheri và bia kư ở Godavari thuộc miền Nam Ấn Độ, có niên đại khoảng thế kỷ II – III. Như vậy theo quan điểm của Bergaigne bia Vơ Cạnh có niên đại vào khoảng thế kỷ II đến III.

Nhưng nhà nghiên cứu G. Buhler th́ lại cho rằng bia Vơ Cạnh mang ảnh hưởng của nhiều loại văn tự khác nhau, kéo dài từ thế kỷ I – IV.

Mặt A của bia Vơ Cạnh dựa vào bia kư Rudradama ở Girnar có niên đại khoảng thế kỷ I, nhưng mặt B th́ lại giống với bia Satavahanas ở Nasik và Vanheri có niên đại khoảng thế kỷ II và III, c̣n mặt C th́ có nét tương đồng với chữ của vương triều Iksvaku ở Amaravati vào khoảng thế kỷ III và mặt D th́ giống các bia kư của vua Vijayabuddhavarman và Sivaskandavarman ở Tamil Nadu có niên đại khoảng thế kỷ thứ IV.

Ngoài ra c̣n một số quan điểm khác của các nhà nghiên cứu như Sircar, Coedes, Kalyan Kumar Sarkar, M. K. Bhattachary... tranh luận về niên đại của bia Vơ Cạnh.

Tuy nhiên, theo Bảo tàng lịch sử Quốc gia đă tạm xác định niên đại của bia Vơ Cạnh là khoảng thế kỷ III – IV.

BÀI MINH VĂN VỚI NỘI DUNG BÍ ẨN

Bia Vơ Cạnh là một khối đá tự nhiên h́nh trụ, được xác định là đá cát, tạo tác 4 mặt với chiều cao là 270cm, rộng 110cm và dày 80cm. Trên tấm bia có 15 ḍng chữ, mỗi ḍng cao khoảng 4cm. Các ḍng đều được khắc liền từ mặt này tới mặt kia, trong đó có hai câu được xác định là viết theo thể thơ Vasantatilaka, c̣n lại là văn xuôi.

Giá trị của bia c̣n được thể hiện qua bài minh văn khắc trên bia. Theo nghiên cứu của ông Louis Finot, phần bài minh được viết bằng văn vần, niêm luật theo lối thơ vasantalilaka. Đặc điểm của thể thơ này nằm ở những chỗ sang ḍng ở ḍng thứ 8, 9, 10, 11 là đánh dấu sự chấm dứt một nửa của câu. Nhà nghiên cứu Claude Jacques cho rằng có những đoạn trong bài minh văn được viết bằng văn xuôi, có những đoạn được viết theo niêm luật thơ cổ sardulavukridita.

Tuy nhiên v́ bia có niên đại từ rất lâu nên hiện trạng không c̣n được nguyên vẹn, đă bị ṃn, chữ bị mờ rất khó đọc và có nhiều vết sứt trên bia. Chính v́ vậy, nội dung chính xác của bài minh văn trên bia Vơ Cạnh vẫn chưa được dịch nghĩa đầy đủ.

Các nhà nghiên cứu đă đưa ra nội dung khái quát của bài minh văn dựa theo những ghi chép về văn khắc của Louis Finot, trong "Études épigraphiques sur le pays Cham", năm 1995 của tác giả Claude Jacques.

Nội dung này đă được Cục Di sản Văn hoá dịch lại như sau: "Ư tưởng về sự ổn định, đến rồi đi, ở thế giới này, ḷng khoan dung đối với con người. Sự hy sinh v́ lợi ích của người khác, tất cả những nét đó làm nổi bật sự phóng khoáng ở Cri-Mara, xuất phát từ một thần cảm Phật giáo rơ nét khiến người ta thoát khỏi ư nghĩ rằng vị thủ lĩnh này rao giảng học thuyết về sự khoan dung độ lượng. Những vị thủ lĩnh Braman đă làm rất nhiều cho những khu đền. Họ không bao giờ có những suy nghĩ đă chu cấp đầy đủ nhu cầu cho gia đ́nh họ. Thừa nhận việc sở hữu số dư thừa trong tài sản của con người nói chung. Tinh thần của Acoka đă trở lại như trong chỉ dụ này. Nó cũng không tồn tại đến thời kỳ ban bố trước hội đồng trong những đêm trăng tṛn, đây là một trong hai lễ hội hàng tháng của tín đồ Phật giáo."

Dựa vào nội dung đă dịch được của bài minh văn, các nhà nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Cục Di sản Văn hoá đă cho biết: Sri Mara là người đă sáng lập triều đại đầu tiên của tiểu quốc Nam Chăm, thủ phủ đóng tại vùng Panduranga (vùng Phan Rang, Ninh Thuận ngày nay), c̣n tiểu quốc Bắc Chăm th́ thủ phủ ở Simhapura (Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay).

Sau đó, vào khoảng thế kỷ VII, hai tiểu quốc này hợp thành vương quốc Chăm Pa, Simhapura được chọn làm kinh đô. Tấm bia đă cho biết ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh Ấn Độ cũng như vai tṛ của giới tăng lữ ở tiểu quốc này.

C̉N ĐÓ NHỮNG ẨN SỐ

Bia Vơ Cạnh được xem là tấm bia cổ nhất c̣n lại của Vương quốc Champa, là bằng chứng lịch sử cho thấy sự du nhập của Phật giáo và chữ Phạn tới người dân Champa. Đồng thời bài minh văn c̣n thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn minh Ấn Độ và văn hoá Phật giáo tới Champa từ rất sớm.

Cho tới nay chưa t́m được một văn tự nào tại Đông Nam Á có cùng niên đại với bài minh văn trên bia Vơ Cạnh nên bài minh văn này được đánh giá là cổ nhất.

Bia có giá trị lịch sử vô cùng lớn, là nguồn sử liệu quư giá cho giới nghiên cứu về văn hoá Champa thời kỳ sơ khai. Thể hiện sự độc đáo của ngôn ngữ cổ Champa, bia c̣n cho biết nhiều thông tin có giá trị về lịch sử Vương triều Tiền vương quốc Nam Chăm. Cho đến nay vẫn cần thêm thời gian nghiên cứu để xác định tác giả, niên đại chính xác của bia và nội dung hoàn chỉnh của bài minh văn trên bia.

Sự bí ẩn của bài minh văn luôn là tâm điểm của sự ṭ ṃ và khám phá của công chúng và các nhà nghiên cứu.

Với giá trị lịch sử, văn hoá vô cùng to lớn bia Vơ Cạnh đă được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg ngày 30/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ.

VietBF @ Sưu tầm