florida80
04-27-2022, 23:00
Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Ḷng Người Đi của Anh Bằng, v́ bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai thành phố Hà Nội và Sài G̣n. Hát lên hai chữ Hà Nội để lăng mạn tưởng tượng là ḿnh có một người yêu thật sự đă bỏ lại ở thành phố cũ. Nhớ đến Sài G̣n, là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng trong một thành phố mới.
“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
… Hôm nay Sài G̣n bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”
Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài G̣n là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đă cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài G̣n đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đ́nh tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Một anh bạn thân đă chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giă Từ Hà-Nội. Tôi đă phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho ḿnh. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giă Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn c̣n nhớ mang máng câu “Tôi nh́n xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.
Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài G̣n. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trong xe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nh́n xuống ḍng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ư nghĩ như Mai Thảo.
Kỷ niệm thứ hai là với ḍng sông Sài G̣n. Như những câu chuyện t́nh, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông th́ câu chuyện lăng mạn và lâm ly biết bao. Chuyện của tôi với sông Sài G̣n cũng gần như thế. Tôi đến với Sài G̣n năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài G̣n.
________
Nhớ lại từ hồi học lớp Nh́ trường Lư Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng vuông đeo bên người làm vơ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.
Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi măi mới tới nơi. Khi đó th́ toán đến trước đă đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đă rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong ḷng tháp đứng nghỉ. Nh́n quanh không c̣n ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. C̣n một ḿnh, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đă lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với ḿnh một tiếng th́ thú vị biết bao!
Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đ́nh tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đă bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đ́nh, để về trại tạm cư v́ không muốn lội bộ quá xa để đến bến đ̣ ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đ́nh Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đă bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.
Ảnh: Eden Constantino/Unsplash
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ Ngọc Cẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Kư, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đă ở lại. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh ḿ thịt nguội hay cá hộp sardine, nước th́ đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu B́nh Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có lần đi đến tận Biên Ḥa và c̣ng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.
Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi ṿng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài G̣n. Lúc đó thủy triều xuống, ḷng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài G̣n hồi đó c̣n nhỏ hẹp, không như bây giờ đă được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ư cùng bơi qua sông. Tôi nh́n xuống ḍng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ư hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quăng, ra đến giữa ḍng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo ḍng. Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy ḿnh thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào c̣n dám đùa rỡn với con sông này nữa.
Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đ́nh, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đ̣ trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền ḥa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đă lội qua.
Ḍng sông cuối cùng tôi đă bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên 1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một ḿnh tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi ḍng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đă đặt tên là “xóm B́nh Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lăo ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Ảnh: pexels-anna-tarazevich
Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài G̣n, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đă có những năm tháng thanh b́nh cũng như xáo trộn v́ t́nh h́nh đất nước. Cuối cùng, một quyết định đau ḷng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.
Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đ́nh tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quư Cáp của bà chị lớn. Tôi biết ḷng anh nóng như lửa v́ vợ con đă rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đă bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không t́m được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.
Tới nơi, một ṿng kẽm gai đă chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nh́n thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đ́nh chúng tôi lại v́ là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám v́ sợ trái lệnh trên. Không muốn nhùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi t́m vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, c̣n gia đ́nh tôi có thể trở về.
Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hăi, khóc ầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu c̣n ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.
Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bước xuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở rào th́ phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đă không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không c̣n cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa th́ thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, th́ lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đ́nh tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng c̣n phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Ảnh: pexels-spencer-lee
Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống ḍng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không t́m được Tự Do, chắc ḿnh cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.
Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lănh đầu hàng như một lời báo tử. Nh́n lại phía sau, Sài G̣n và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang ch́m sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. V́ là con tàu cuối cùng ́ ạch chạy, phải vớt thêm một số ghe c̣n lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu t́m chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải t́m cách đẩy trực thăng xuống biển.
Ngoài ra c̣n một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều ṿng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. C̣n phi công khác đă ch́m theo máy bay đi vào ḷng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đến giúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc pḥng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nḥa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.
Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái B́nh Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong ḷng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là ḿnh đă làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Ảnh: pexels-tuvictor
Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, v́ mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ. Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài G̣n khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xă hội Mỹ, con tôi đă làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài G̣n làm lễ cưới. Trong ḷng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam th́ con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.
Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến B́nh Quới Resort. Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:
“Chúng ta đang đi trên sông Sài G̣n, ḍng sông lịch sử này đă nhắc lại cho gia đ́nh tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài G̣n thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đă phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”. Nhiều bạn ngoại quốc đă lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lư do tại sao gia đ́nh cô lại sống nơi hải ngoại.
Những ngày ở Sài G̣n, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đă cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đă kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đă mở rào cản cho gia đ́nh tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đă theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành tŕnh; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đă cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đă mở đường cho chúng tôi khi t́nh thế trở nên tuyệt vọng nhất.
Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.
Sài G̣n đă đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài G̣n hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đă cặp bến này đi t́m tự do, nay không c̣n một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đ́nh tôi đă bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự t́nh cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.
Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố t́m lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đă xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngă ba để t́m cách sang đường Tự Do th́ đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường th́ rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ măi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện tṛ vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại th́ các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đă nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đă vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn c̣n cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.
_____
“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
… Hôm nay Sài G̣n bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”
Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài G̣n là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đă cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài G̣n đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đ́nh tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Một anh bạn thân đă chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giă Từ Hà-Nội. Tôi đă phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho ḿnh. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giă Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn c̣n nhớ mang máng câu “Tôi nh́n xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.
Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài G̣n. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trong xe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nh́n xuống ḍng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ư nghĩ như Mai Thảo.
Kỷ niệm thứ hai là với ḍng sông Sài G̣n. Như những câu chuyện t́nh, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông th́ câu chuyện lăng mạn và lâm ly biết bao. Chuyện của tôi với sông Sài G̣n cũng gần như thế. Tôi đến với Sài G̣n năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài G̣n.
________
Nhớ lại từ hồi học lớp Nh́ trường Lư Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng vuông đeo bên người làm vơ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.
Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi măi mới tới nơi. Khi đó th́ toán đến trước đă đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đă rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong ḷng tháp đứng nghỉ. Nh́n quanh không c̣n ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. C̣n một ḿnh, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đă lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với ḿnh một tiếng th́ thú vị biết bao!
Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đ́nh tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đă bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đ́nh, để về trại tạm cư v́ không muốn lội bộ quá xa để đến bến đ̣ ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đ́nh Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đă bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.
Ảnh: Eden Constantino/Unsplash
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ Ngọc Cẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Kư, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đă ở lại. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh ḿ thịt nguội hay cá hộp sardine, nước th́ đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu B́nh Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có lần đi đến tận Biên Ḥa và c̣ng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.
Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi ṿng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài G̣n. Lúc đó thủy triều xuống, ḷng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài G̣n hồi đó c̣n nhỏ hẹp, không như bây giờ đă được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ư cùng bơi qua sông. Tôi nh́n xuống ḍng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ư hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quăng, ra đến giữa ḍng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo ḍng. Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy ḿnh thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào c̣n dám đùa rỡn với con sông này nữa.
Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đ́nh, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đ̣ trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền ḥa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đă lội qua.
Ḍng sông cuối cùng tôi đă bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên 1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một ḿnh tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi ḍng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đă đặt tên là “xóm B́nh Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lăo ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Ảnh: pexels-anna-tarazevich
Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài G̣n, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đă có những năm tháng thanh b́nh cũng như xáo trộn v́ t́nh h́nh đất nước. Cuối cùng, một quyết định đau ḷng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.
Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đ́nh tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quư Cáp của bà chị lớn. Tôi biết ḷng anh nóng như lửa v́ vợ con đă rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đă bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không t́m được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.
Tới nơi, một ṿng kẽm gai đă chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nh́n thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đ́nh chúng tôi lại v́ là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám v́ sợ trái lệnh trên. Không muốn nhùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi t́m vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, c̣n gia đ́nh tôi có thể trở về.
Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hăi, khóc ầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu c̣n ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.
Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bước xuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở rào th́ phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đă không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không c̣n cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa th́ thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, th́ lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đ́nh tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng c̣n phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Ảnh: pexels-spencer-lee
Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống ḍng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không t́m được Tự Do, chắc ḿnh cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.
Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lănh đầu hàng như một lời báo tử. Nh́n lại phía sau, Sài G̣n và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang ch́m sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. V́ là con tàu cuối cùng ́ ạch chạy, phải vớt thêm một số ghe c̣n lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu t́m chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải t́m cách đẩy trực thăng xuống biển.
Ngoài ra c̣n một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều ṿng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. C̣n phi công khác đă ch́m theo máy bay đi vào ḷng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đến giúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc pḥng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nḥa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.
Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái B́nh Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong ḷng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là ḿnh đă làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Ảnh: pexels-tuvictor
Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, v́ mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ. Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài G̣n khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xă hội Mỹ, con tôi đă làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài G̣n làm lễ cưới. Trong ḷng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam th́ con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.
Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến B́nh Quới Resort. Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:
“Chúng ta đang đi trên sông Sài G̣n, ḍng sông lịch sử này đă nhắc lại cho gia đ́nh tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài G̣n thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đă phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”. Nhiều bạn ngoại quốc đă lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lư do tại sao gia đ́nh cô lại sống nơi hải ngoại.
Những ngày ở Sài G̣n, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đă cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đă kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đă mở rào cản cho gia đ́nh tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đă theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành tŕnh; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đă cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đă mở đường cho chúng tôi khi t́nh thế trở nên tuyệt vọng nhất.
Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.
Sài G̣n đă đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài G̣n hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đă cặp bến này đi t́m tự do, nay không c̣n một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đ́nh tôi đă bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự t́nh cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.
Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố t́m lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đă xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngă ba để t́m cách sang đường Tự Do th́ đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường th́ rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ măi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện tṛ vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại th́ các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đă nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đă vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn c̣n cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.
_____