Gibbs
06-15-2022, 18:58
Nguyên tác: 6 Immigrant Stories That Will Make You Believe In The American Dream Again, của phóng viên Monte Burke, đăng trên Tạp chí Forbes
Hoa Kỳ: miền đất hứa
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2068591&stc=1&d=1655319490
Thomas Peterffy sinh ra trong một bệnh viện ở Budapest vào ngày 30 tháng 9 năm 1944. Mẹ của ông đă được chuyển đến đó v́ Liên Xô dội bom vào thành phố nầy. Sau khi Liên Xô chiếm Hungary từ tay Đức Quốc xă, Hungary trở thành một quốc gia vệ tinh, lao động dưới một h́nh thức áp bức khác: chủ nghĩa cộng sản. Peterffy và gia đ́nh, xuất thân từ quư tộc, mất tất cả. “Về cơ bản chúng tôi là tù nhân ở đó.” anh nói. Khi c̣n trẻ, Peterffy đă mơ về việc được thoát khỏi nhà tù đó.
Ở tuổi 20, anh đă ấp ủ một kế hoạch vượt biên. Vào thời điểm đó, người Hungary được cấp thị thực ngắn hạn để thăm gia đ́nh ở Tây Đức, và anh đă tận dụng lợi thế này. Khi thị thực của anh ấy hết hạn, giống như hàng triệu người đă nhập cư vào Hoa Kỳ bất hợp pháp trong những năm gần đây, anh ấy lên đường sang Hoa Kỳ. Peterffy đáp xuống sân bay quốc tế John F. Kennedy ở thành phố New York vào tháng 12 năm 1965. Anh không có tiền và không nói được tiếng Anh. Anh ta có một chiếc vali duy nhất, trong đó có một bộ quần áo thay đổi và một bức tranh vẽ về tổ tiên của anh.
Peterffy đến Spanish Harlem, nơi những người Hungary nhập cư khác đă thành lập một cộng đồng nhỏ, chuyển từ căn hộ tồi tàn này sang căn hộ tồi tàn khác. Anh rất vui, nếu không muốn nói là một chút sợ hăi. “Đó là một vấn đề lớn khi rời khỏi nhà và văn hóa cũng như ngôn ngữ của tôi,” anh nói. “Nhưng tôi tin rằng ở Mỹ, tôi thực sự có thể gặt hái những ǵ tôi đă gieo và thước đo của một người là khả năng và quyết tâm trong công việc. Đây là vùng đất của cơ hội vô bờ bến.”
Quả thực là như vậy. Anh ta nhận được một công việc như một người soạn thảo trong một công ty khảo sát. Khi công ty của anh ấy mua một chiếc máy tính, “không ai biết cách lập tŕnh nó, v́ vậy tôi t́nh nguyện thử”, anh ấy nói. Anh nhanh chóng bắt kịp và được giao cho công việc của một lập tŕnh viên cho một công ty tư vấn nhỏ ở Phố Wall Street, nơi anh đă xây dựng các mô h́nh giao dịch.
Vào cuối những năm 1970, Peterffy đă tiết kiệm được 200.000 đô la và thành lập một công ty đi tiên phong trong các giao dịch chứng khoán điện tử, thực hiện chúng trước khi các sàn giao dịch được số hóa. Trong những năm 1990, anh bắt đầu tập trung vào bên bán của doanh nghiệp, thành lập Interactive Brokers Group, có giá trị vốn hóa thị trường là 14 tỷ đô la. Peterffy, 72 tuổi, hiện có tài sản ước tính 12,6 tỷ USD.
Thomas Peterffy là hiện thân của giấc mơ Mỹ. Nhà sáng lập Google Sergey Brin (37,5 tỷ USD) cũng vậy. Và người sáng lập eBay Pierre Omidyar (8,1 tỷ USD). Và người sáng lập Tesla và SpaceX, Elon Musk (11,6 tỷ USD). Và Rupert Murdoch, George Soros, Jerry Yang, Micky Arison, Patrick Soon-Shiong, Jan Koum, Jeff Skoll, Jorge Perez, Peter Thiel. Cũng như vài chục người khác cũng nhập cư vào đất nước này, đă có quốc tịch Hoa Kỳ – và sau đó là một vị trí trên Forbes 400.
Chính xác 42 vị trí trên Forbes 400 thuộc về những công dân nhập cư vào Mỹ. Đó là 10,5% của danh sách, một sự vượt trội rất lớn khi xem xét rằng công dân nhập tịch chỉ chiếm 6% dân số Hoa Kỳ.
Theo thống kê, những người nhập cư có khả năng bắt đầu một công việc kinh doanh mới gần gấp đôi so với những người Mỹ gốc bản địa. Hiệp hội Đối tác cho một nền kinh tế mới của Mỹ báo cáo rằng những người nhập cư đă bắt đầu 28% tổng số doanh nghiệp mới ở Hoa Kỳ vào năm 2011. Tất nhiên, một số doanh nghiệp này có quy mô nhỏ như nhà hàng và cửa hàng sửa chữa ô tô.
Nhưng những công ty khác th́ không: Tổ chức Quốc gia về Chính sách Mỹ cho biết 44 trong số 87 công ty công nghệ Mỹ trị giá 1 tỷ USD trở lên được thành lập bởi những người nhập cư, nhiều người hiện được xếp hạng trong số những người giàu nhất ở Mỹ.
Không có ǵ là một bất ngờ. Nhờ công nghệ, việc bắt đầu một công việc kinh doanh chưa bao giờ dễ dàng hơn thế. Và tầng lớp doanh nhân của Hoa Kỳ, trong gần một phần tư thiên niên kỷ, được tạo thành từ những người nhập cư.
Robert Morris rời Liverpool năm 13 tuổi, giúp tài trợ cho Cách mạng Mỹ và kư Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp. Stephen Girard di cư từ Pháp và thành lập một ngân hàng Mỹ bảo lănh phần lớn khoản vay chiến tranh của chính phủ Hoa Kỳ trong Chiến tranh năm 1812, cứu đất nước khỏi thảm họa tài chính. John Jacob Astor, một nhà sản xuất nhạc cụ trẻ tuổi đến từ Đức, đă tạo dựng được khối tài sản từ kinh doanh lông thú và bất động sản ở Mỹ, đồng thời trở thành một trong những nhà từ thiện vĩ đại đầu tiên của đất nước.
Một người Đức khác Friederich Weyerhaeuser trở thành trùm buôn gỗ của Mỹ. Andrew Carnegie sinh ra ở Scotland đă gây dựng nên một trong những vận may lớn ở Hoa Kỳ trong lĩnh vực kinh doanh thép, đă dành cả cuộc đời sau này của ḿnh để cho đi tài sản trong việc thiện nguyện. Những người sáng lập Procter & Gamble, Kraft và DuPont đều là người nhập cư.
Chính hành động nhập cư, được Peterffy nêu gương, là một doanh nhân, một sự mạo hiểm tự lựa chọn để nỗ lực cải thiện hoàn cảnh của ḿnh. Đó là một cuộc đấu trí. Shahid Khan, thành viên Forbes 400 nói: “Bạn bỏ tất cả những ǵ ḿnh có nơi ở cũ. Bạn có thể xử lư sự thay đổi. Bạn có thể xử lư rủi ro. Và bạn muốn chứng tỏ bản thân.”
Nh́n chung, những người nhập cư của Forbes 400 rơi vào hai nhóm. Nhiều người, giống như Peterffy, đến đây để trốn tránh một thứ ǵ đó. Gia đ́nh Sergey Brin rời Nga khi anh mới 6 tuổi v́ bị phân biệt đối xử do gia đ́nh anh là người Do Thái. George Soros sống sót sau Hungary bị phát xít Đức chiếm đóng.
Những người khác có đủ đặc quyền để sống ở bất cứ đâu nhưng lại coi Mỹ là nơi có nhiều cơ hội hơn. Musk theo học các trường tư thục ở Nam Phi. Cha của Murdoch là một nhà xuất bản báo Úc. Cha của Omidyar là một bác sĩ phẫu thuật.
Giàu hay nghèo, tư duy kinh doanh liên kết tất cả mọi người ở Mỹ. Người Mỹ từng lựa chọn đánh giá cao cơ hội và hiểu hệ quả tất yếu: bạn cần tự ḿnh thực hiện giấc mơ của ḿnh.
Do Won Chang và vợ của ḿnh, Jin Sook, đến phi trường Los Angeless LAX vào một ngày thứ bảy năm 1981 với tŕnh độ lớp sáu sau khi lệnh thiết quân luật được dỡ bỏ ở Hàn Quốc. Anh ta lập tức t́m kiếm các danh sách việc làm trên báo, phỏng vấn với một quán cà phê địa phương và đến thứ Hai là rửa bát. “Tôi đang làm mức lương tối thiểu. … Nó không đủ để sống.” V́ vậy, anh ấy đă dành tám giờ mỗi ngày tại một trạm xăng và trên hết là bắt đầu một công việc dọn dẹp văn pḥng nhỏ khiến anh ấy bận rộn đến tận nửa đêm. Jin Sook làm nghề cắt tóc.
Khi đang bơm xăng, Chang nhận thấy những người đàn ông kinh doanh hàng may mặc lái những chiếc xe đẹp, khiến anh ấy cảm thấy hứng thú với việc làm trong một cửa hàng quần áo. Ba năm sau, sau khi anh ấy và Jin Sook tiết kiệm được 11.000 đô la, họ mở một cửa hàng quần áo rộng 900 mét vuông có tên là Fashion 21. Doanh thu năm đầu tiên đạt 700.000 đô la, và cặp đôi bắt đầu mở một cửa hàng mới sau mỗi sáu tháng. Hiện họ trị giá 3 tỷ đô la.
Chang nói: “Tôi đến đây gần như không có ǵ cả. Tôi sẽ luôn có một trái tim biết ơn đối với nước Mỹ v́ những cơ hội mà nó đă mang lại cho tôi.”
Đối với Shahid Khan, một người Pakistan, địa điểm hợp lư để nhập cư là Vương quốc Anh, nhưng Hoa Kỳ luôn là miền đất hứa đối với tôi.” Vào tháng 1 năm 1967 Khan hạ cánh tại phi trường Kennedy ở Nữu Ước. Anh đăng kư học đại học ở Chicago. Anh ta có 500 đô la trong túi. Khan kiếm được công việc rửa bát đĩa vào buổi tối sau giờ học với mức lương 1,20 đô la một giờ. “Tôi rất vui mừng. Bạn chỉ không thể kiếm được một công việc như vậy ở nơi tôi đến,” anh nói. “Suy nghĩ ngay lập tức của tôi là – Chà, tôi có thể làm việc. Tôi có thể là chính ḿnh. Tôi kiểm soát số phận của ḿnh.”
Khan cuối cùng đă nhận được một công việc như một giám đốc kỹ thuật tại Flex-N-Gate, một công ty sản xuất ô tô. Vài năm sau, với 16.000 USD tiền tiết kiệm và khoản vay từ Cơ quan Quản lư Doanh nghiệp Nhỏ, ông thành lập công ty riêng của ḿnh để chế tạo những bộ phận cản hích cho các hăng sản xuất ô tô. Công ty của anh ấy hiện có doanh thu 6,1 tỷ đô la và sử dụng khoảng 12.000 nhân viên ở Mỹ.
Một nhà máy mà anh ta đang xây dựng ở Detroit sẽ sử dụng tới 1.000 công nhân, những người sẽ được trả 25 đô la một giờ. Khan có giá trị ước tính khoảng 6,9 tỷ USD.
Anh ấy vẫn nhập cư vào Vương quốc Anh theo con đường nhỏ: Anh ấy mua đội bóng đá Fulham của Anh. Nhưng để tránh bất kỳ ai thách thức sở thích của ḿnh, anh ấy cũng sở hữu Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia – Jacksonville Jaguars ở phía nam nước Mỹ.
Mỹ có một lợi thế tự nhiên khác giúp giải thích tại sao rất nhiều người nhập cư có thể biến ḿnh thành tỷ phú. Hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ từ trước đến nay là một ngọn hải đăng, thu hút những người trẻ tự lập thông minh nhất và đầy tham vọng nhất từ khắp nơi trên thế giới. Trong vài thập kỷ qua, công thức của tỷ phú ngày càng đơn giản: Đến Mỹ học đại học, yêu đất nước và cơ hội (và có thể kết hôn ở đây), và ở lại đây sau khi tốt nghiệp, sử dụng nền giáo dục đó để tạo ra những đổi mới (và những công việc) mang lại vận may cả đời.
Số lượng người nhập cư có tŕnh độ đại học ở Hoa Kỳ đă tăng 78% từ năm 2000 đến năm 2014. Gần 30% người nhập cư từ 25 tuổi trở lên hiện có bằng cử nhân hoặc cao hơn, theo Viện Chính sách Di cư – một con số gần như phản ánh chính xác tỷ lệ phần trăm của những người lớn sinh ra ở Mỹ.
Và một số lượng không tương xứng trong số những người nhập cư này theo học toán, khoa học và các ngành STEM khác, những nguồn cung cấp nhiên liệu cho hầu hết các vận may và cơ hội hiện đại. Năm 2011, ba phần tư bằng sáng chế từ mười trường đại học có bằng sáng chế hàng đầu trên toàn quốc là từ một nhà phát minh nhập cư.
Romesh Wadhwani rơi vào truyền thống đó. Ông theo học trường cao đẳng kỹ thuật IIT Bombay của Ấn Độ nhưng năm 1969 đến Mỹ để theo đuổi bằng Tiến sĩ tại trường Carnegie Mellon. Ông không bao giờ rời đi, thành lập Aspect Development, một công ty phần mềm và Symphony Technology Group, một công ty cổ phần tư nhân tập trung vào công nghệ, trên con đường đạt được khối tài sản 3 tỷ đô la.
Wadhwani nói: “Tôi hầu như không thể thành lập công ty của riêng ḿnh ở Ấn Độ trong những ngày đó. Không có sự hỗ trợ nào cho các doanh nhân. Ở Hoa Kỳ có sự tự do để mơ những giấc mơ lớn, sự tự do để đạt được hoàn toàn dựa trên thành tích của chính ḿnh thay v́ nền tảng gia đ́nh, sự giàu có hoặc địa vị xă hội trước đó.”
Andrew Cherng sinh ra ở Trung Quốc đă quan sát thấy một chế độ xứng đáng tương tự khi ông đến Baldwin, Kansas vào năm 1966 để theo học Đại học Baker với học bổng toán học. Anh ấy đă đi học trung học ở Nhật Bản và nhận thấy “rất khó để người Trung Quốc có thể ḥa nhập với người Nhật.” Một năm sau, anh gặp một sinh viên năm nhất đến từ Miến Điện tên là Peggy, người mà sau này anh sẽ kết hôn. Cherng nói: “Tôi không có bất kỳ tài sản cá nhân nào khi tôi đến. Động lực của tôi đến từ sự kiện tôi là người nghèo.”
Năm 1973 Cherng mở một nhà hàng, Panda Inn, ở California cùng với cha của ḿnh, một đầu bếp bậc thầy đă di cư đến làm việc cùng ông. Mười năm sau, ông và vợ, Peggy, mở Panda Express đầu tiên tại một trung tâm mua sắm ở Glendale, California. Sau khi lấy bằng tiến sĩ về kỹ thuật điện và làm kỹ sư phát triển phần mềm trong công nghệ hàng không vũ trụ, bà Peggy đă kết hợp các hệ thống để biến Panda Express thành một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh với 1.900 cửa hàng, một trong những chuỗi cửa hàng lớn nhất ở Mỹ, với doanh thu 2,4 tỷ USD. Cherng tuyển dụng 30.000 nhân viên và đă quyên góp được hơn 100 triệu đô la cho các tổ chức từ thiện. Cherng nói: “Ở Mỹ, không có ǵ có thể ngăn cản bạn ngoài chính bạn.”
Douglas Leone là một thành viên Forbes 400 khác, người mà nền giáo dục Hoa Kỳ đă mở ra cho anh một bước ngoặt. Anh ấy đang học cấp hai khi rời Ư vào năm 1968. Cha mẹ anh ấy đă h́nh dung ra một cuộc sống cho anh ấy bao gồm “khả năng làm việc để đi lên, một điều không thể có ở châu Âu”. Anh đi du học tại Cornell và sau đó lấy bằng sau đại học của Columbia và MIT. Anh nói: “Giấc mơ Mỹ sẽ thành hiện thực nếu bạn biết tận dụng cơ hội. Tôi đă sử dụng giáo dục của ḿnh như một phương tiện để đưa tôi vào vị trí để làm điều ǵ đó.”
Leone đă làm công việc bán hàng cho các công ty như Sun Microsystems và Hewlett-Packard trước khi gia nhập công ty đầu tư mạo hiểm Sequoia Capital vào năm 1988. Ông trở thành đối tác quản lư vào năm 1996. Trong nhiệm kỳ của ḿnh, Sequoia đă đầu tư vào Google, YouTube, Zappos, LinkedIn và WhatsApp, và đă đóng một vai tṛ trong việc tạo ra vô số việc làm cho người khác.
Leone hiện có giá trị ước tính 2,7 tỷ USD. Kinh nghiệm nhập cư của anh ấy, anh ấy nói, là vô giá. “Là một người nhập cư cung cấp cho bạn một động lực, một động lực không bao giờ mất đi. Tôi vẫn cảm thấy điều đó cho đến ngày nay,” anh nói. “Thất bại không phải là một lựa chọn. Tôi nói với các con tôi rằng điều duy nhất tôi không thể cho chúng là sự tuyệt vọng. Và tôi xin lỗi chúng v́ điều đó.”
Tuy nhiên, cần lưu ư rằng ngoài 42 người nhập cư, Forbes 400 bao gồm 57 người là con của những người nhập cư, chiếm 14% trong danh sách (so với 6% công dân Hoa Kỳ trên 18 tuổi), phá vỡ khá nhiều h́nh ảnh tầng lớp tỷ phú nước Mỹ như kiểu cha truyền con nối. Khát khao kinh doanh đó dường như sẽ tiếp tục trong ít nhất một thế hệ. Cha mẹ người Do Thái của Sam Zell đă trốn thoát khỏi Ba Lan trước khi quân Đức xâm lược trong Thế chiến thứ hai và đến Hoa Kỳ. “Cha tôi thường nói rằng ở Hoa Kỳ, gia đ́nh tôi đă được phép đến đây và làm ăn phát đạt”.
Zell, người đă kiếm được 4,7 tỷ đô la từ vốn cổ phần tư nhân và đầu tư bất động sản, cho biết. “Cha mẹ tôi đă làm việc rất chăm chỉ và rất yêu nước và chắc chắn tấm gương của họ đă thấm nhuần trong chúng tôi.”
Hoa Kỳ: miền đất hứa
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2068591&stc=1&d=1655319490
Thomas Peterffy sinh ra trong một bệnh viện ở Budapest vào ngày 30 tháng 9 năm 1944. Mẹ của ông đă được chuyển đến đó v́ Liên Xô dội bom vào thành phố nầy. Sau khi Liên Xô chiếm Hungary từ tay Đức Quốc xă, Hungary trở thành một quốc gia vệ tinh, lao động dưới một h́nh thức áp bức khác: chủ nghĩa cộng sản. Peterffy và gia đ́nh, xuất thân từ quư tộc, mất tất cả. “Về cơ bản chúng tôi là tù nhân ở đó.” anh nói. Khi c̣n trẻ, Peterffy đă mơ về việc được thoát khỏi nhà tù đó.
Ở tuổi 20, anh đă ấp ủ một kế hoạch vượt biên. Vào thời điểm đó, người Hungary được cấp thị thực ngắn hạn để thăm gia đ́nh ở Tây Đức, và anh đă tận dụng lợi thế này. Khi thị thực của anh ấy hết hạn, giống như hàng triệu người đă nhập cư vào Hoa Kỳ bất hợp pháp trong những năm gần đây, anh ấy lên đường sang Hoa Kỳ. Peterffy đáp xuống sân bay quốc tế John F. Kennedy ở thành phố New York vào tháng 12 năm 1965. Anh không có tiền và không nói được tiếng Anh. Anh ta có một chiếc vali duy nhất, trong đó có một bộ quần áo thay đổi và một bức tranh vẽ về tổ tiên của anh.
Peterffy đến Spanish Harlem, nơi những người Hungary nhập cư khác đă thành lập một cộng đồng nhỏ, chuyển từ căn hộ tồi tàn này sang căn hộ tồi tàn khác. Anh rất vui, nếu không muốn nói là một chút sợ hăi. “Đó là một vấn đề lớn khi rời khỏi nhà và văn hóa cũng như ngôn ngữ của tôi,” anh nói. “Nhưng tôi tin rằng ở Mỹ, tôi thực sự có thể gặt hái những ǵ tôi đă gieo và thước đo của một người là khả năng và quyết tâm trong công việc. Đây là vùng đất của cơ hội vô bờ bến.”
Quả thực là như vậy. Anh ta nhận được một công việc như một người soạn thảo trong một công ty khảo sát. Khi công ty của anh ấy mua một chiếc máy tính, “không ai biết cách lập tŕnh nó, v́ vậy tôi t́nh nguyện thử”, anh ấy nói. Anh nhanh chóng bắt kịp và được giao cho công việc của một lập tŕnh viên cho một công ty tư vấn nhỏ ở Phố Wall Street, nơi anh đă xây dựng các mô h́nh giao dịch.
Vào cuối những năm 1970, Peterffy đă tiết kiệm được 200.000 đô la và thành lập một công ty đi tiên phong trong các giao dịch chứng khoán điện tử, thực hiện chúng trước khi các sàn giao dịch được số hóa. Trong những năm 1990, anh bắt đầu tập trung vào bên bán của doanh nghiệp, thành lập Interactive Brokers Group, có giá trị vốn hóa thị trường là 14 tỷ đô la. Peterffy, 72 tuổi, hiện có tài sản ước tính 12,6 tỷ USD.
Thomas Peterffy là hiện thân của giấc mơ Mỹ. Nhà sáng lập Google Sergey Brin (37,5 tỷ USD) cũng vậy. Và người sáng lập eBay Pierre Omidyar (8,1 tỷ USD). Và người sáng lập Tesla và SpaceX, Elon Musk (11,6 tỷ USD). Và Rupert Murdoch, George Soros, Jerry Yang, Micky Arison, Patrick Soon-Shiong, Jan Koum, Jeff Skoll, Jorge Perez, Peter Thiel. Cũng như vài chục người khác cũng nhập cư vào đất nước này, đă có quốc tịch Hoa Kỳ – và sau đó là một vị trí trên Forbes 400.
Chính xác 42 vị trí trên Forbes 400 thuộc về những công dân nhập cư vào Mỹ. Đó là 10,5% của danh sách, một sự vượt trội rất lớn khi xem xét rằng công dân nhập tịch chỉ chiếm 6% dân số Hoa Kỳ.
Theo thống kê, những người nhập cư có khả năng bắt đầu một công việc kinh doanh mới gần gấp đôi so với những người Mỹ gốc bản địa. Hiệp hội Đối tác cho một nền kinh tế mới của Mỹ báo cáo rằng những người nhập cư đă bắt đầu 28% tổng số doanh nghiệp mới ở Hoa Kỳ vào năm 2011. Tất nhiên, một số doanh nghiệp này có quy mô nhỏ như nhà hàng và cửa hàng sửa chữa ô tô.
Nhưng những công ty khác th́ không: Tổ chức Quốc gia về Chính sách Mỹ cho biết 44 trong số 87 công ty công nghệ Mỹ trị giá 1 tỷ USD trở lên được thành lập bởi những người nhập cư, nhiều người hiện được xếp hạng trong số những người giàu nhất ở Mỹ.
Không có ǵ là một bất ngờ. Nhờ công nghệ, việc bắt đầu một công việc kinh doanh chưa bao giờ dễ dàng hơn thế. Và tầng lớp doanh nhân của Hoa Kỳ, trong gần một phần tư thiên niên kỷ, được tạo thành từ những người nhập cư.
Robert Morris rời Liverpool năm 13 tuổi, giúp tài trợ cho Cách mạng Mỹ và kư Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp. Stephen Girard di cư từ Pháp và thành lập một ngân hàng Mỹ bảo lănh phần lớn khoản vay chiến tranh của chính phủ Hoa Kỳ trong Chiến tranh năm 1812, cứu đất nước khỏi thảm họa tài chính. John Jacob Astor, một nhà sản xuất nhạc cụ trẻ tuổi đến từ Đức, đă tạo dựng được khối tài sản từ kinh doanh lông thú và bất động sản ở Mỹ, đồng thời trở thành một trong những nhà từ thiện vĩ đại đầu tiên của đất nước.
Một người Đức khác Friederich Weyerhaeuser trở thành trùm buôn gỗ của Mỹ. Andrew Carnegie sinh ra ở Scotland đă gây dựng nên một trong những vận may lớn ở Hoa Kỳ trong lĩnh vực kinh doanh thép, đă dành cả cuộc đời sau này của ḿnh để cho đi tài sản trong việc thiện nguyện. Những người sáng lập Procter & Gamble, Kraft và DuPont đều là người nhập cư.
Chính hành động nhập cư, được Peterffy nêu gương, là một doanh nhân, một sự mạo hiểm tự lựa chọn để nỗ lực cải thiện hoàn cảnh của ḿnh. Đó là một cuộc đấu trí. Shahid Khan, thành viên Forbes 400 nói: “Bạn bỏ tất cả những ǵ ḿnh có nơi ở cũ. Bạn có thể xử lư sự thay đổi. Bạn có thể xử lư rủi ro. Và bạn muốn chứng tỏ bản thân.”
Nh́n chung, những người nhập cư của Forbes 400 rơi vào hai nhóm. Nhiều người, giống như Peterffy, đến đây để trốn tránh một thứ ǵ đó. Gia đ́nh Sergey Brin rời Nga khi anh mới 6 tuổi v́ bị phân biệt đối xử do gia đ́nh anh là người Do Thái. George Soros sống sót sau Hungary bị phát xít Đức chiếm đóng.
Những người khác có đủ đặc quyền để sống ở bất cứ đâu nhưng lại coi Mỹ là nơi có nhiều cơ hội hơn. Musk theo học các trường tư thục ở Nam Phi. Cha của Murdoch là một nhà xuất bản báo Úc. Cha của Omidyar là một bác sĩ phẫu thuật.
Giàu hay nghèo, tư duy kinh doanh liên kết tất cả mọi người ở Mỹ. Người Mỹ từng lựa chọn đánh giá cao cơ hội và hiểu hệ quả tất yếu: bạn cần tự ḿnh thực hiện giấc mơ của ḿnh.
Do Won Chang và vợ của ḿnh, Jin Sook, đến phi trường Los Angeless LAX vào một ngày thứ bảy năm 1981 với tŕnh độ lớp sáu sau khi lệnh thiết quân luật được dỡ bỏ ở Hàn Quốc. Anh ta lập tức t́m kiếm các danh sách việc làm trên báo, phỏng vấn với một quán cà phê địa phương và đến thứ Hai là rửa bát. “Tôi đang làm mức lương tối thiểu. … Nó không đủ để sống.” V́ vậy, anh ấy đă dành tám giờ mỗi ngày tại một trạm xăng và trên hết là bắt đầu một công việc dọn dẹp văn pḥng nhỏ khiến anh ấy bận rộn đến tận nửa đêm. Jin Sook làm nghề cắt tóc.
Khi đang bơm xăng, Chang nhận thấy những người đàn ông kinh doanh hàng may mặc lái những chiếc xe đẹp, khiến anh ấy cảm thấy hứng thú với việc làm trong một cửa hàng quần áo. Ba năm sau, sau khi anh ấy và Jin Sook tiết kiệm được 11.000 đô la, họ mở một cửa hàng quần áo rộng 900 mét vuông có tên là Fashion 21. Doanh thu năm đầu tiên đạt 700.000 đô la, và cặp đôi bắt đầu mở một cửa hàng mới sau mỗi sáu tháng. Hiện họ trị giá 3 tỷ đô la.
Chang nói: “Tôi đến đây gần như không có ǵ cả. Tôi sẽ luôn có một trái tim biết ơn đối với nước Mỹ v́ những cơ hội mà nó đă mang lại cho tôi.”
Đối với Shahid Khan, một người Pakistan, địa điểm hợp lư để nhập cư là Vương quốc Anh, nhưng Hoa Kỳ luôn là miền đất hứa đối với tôi.” Vào tháng 1 năm 1967 Khan hạ cánh tại phi trường Kennedy ở Nữu Ước. Anh đăng kư học đại học ở Chicago. Anh ta có 500 đô la trong túi. Khan kiếm được công việc rửa bát đĩa vào buổi tối sau giờ học với mức lương 1,20 đô la một giờ. “Tôi rất vui mừng. Bạn chỉ không thể kiếm được một công việc như vậy ở nơi tôi đến,” anh nói. “Suy nghĩ ngay lập tức của tôi là – Chà, tôi có thể làm việc. Tôi có thể là chính ḿnh. Tôi kiểm soát số phận của ḿnh.”
Khan cuối cùng đă nhận được một công việc như một giám đốc kỹ thuật tại Flex-N-Gate, một công ty sản xuất ô tô. Vài năm sau, với 16.000 USD tiền tiết kiệm và khoản vay từ Cơ quan Quản lư Doanh nghiệp Nhỏ, ông thành lập công ty riêng của ḿnh để chế tạo những bộ phận cản hích cho các hăng sản xuất ô tô. Công ty của anh ấy hiện có doanh thu 6,1 tỷ đô la và sử dụng khoảng 12.000 nhân viên ở Mỹ.
Một nhà máy mà anh ta đang xây dựng ở Detroit sẽ sử dụng tới 1.000 công nhân, những người sẽ được trả 25 đô la một giờ. Khan có giá trị ước tính khoảng 6,9 tỷ USD.
Anh ấy vẫn nhập cư vào Vương quốc Anh theo con đường nhỏ: Anh ấy mua đội bóng đá Fulham của Anh. Nhưng để tránh bất kỳ ai thách thức sở thích của ḿnh, anh ấy cũng sở hữu Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia – Jacksonville Jaguars ở phía nam nước Mỹ.
Mỹ có một lợi thế tự nhiên khác giúp giải thích tại sao rất nhiều người nhập cư có thể biến ḿnh thành tỷ phú. Hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ từ trước đến nay là một ngọn hải đăng, thu hút những người trẻ tự lập thông minh nhất và đầy tham vọng nhất từ khắp nơi trên thế giới. Trong vài thập kỷ qua, công thức của tỷ phú ngày càng đơn giản: Đến Mỹ học đại học, yêu đất nước và cơ hội (và có thể kết hôn ở đây), và ở lại đây sau khi tốt nghiệp, sử dụng nền giáo dục đó để tạo ra những đổi mới (và những công việc) mang lại vận may cả đời.
Số lượng người nhập cư có tŕnh độ đại học ở Hoa Kỳ đă tăng 78% từ năm 2000 đến năm 2014. Gần 30% người nhập cư từ 25 tuổi trở lên hiện có bằng cử nhân hoặc cao hơn, theo Viện Chính sách Di cư – một con số gần như phản ánh chính xác tỷ lệ phần trăm của những người lớn sinh ra ở Mỹ.
Và một số lượng không tương xứng trong số những người nhập cư này theo học toán, khoa học và các ngành STEM khác, những nguồn cung cấp nhiên liệu cho hầu hết các vận may và cơ hội hiện đại. Năm 2011, ba phần tư bằng sáng chế từ mười trường đại học có bằng sáng chế hàng đầu trên toàn quốc là từ một nhà phát minh nhập cư.
Romesh Wadhwani rơi vào truyền thống đó. Ông theo học trường cao đẳng kỹ thuật IIT Bombay của Ấn Độ nhưng năm 1969 đến Mỹ để theo đuổi bằng Tiến sĩ tại trường Carnegie Mellon. Ông không bao giờ rời đi, thành lập Aspect Development, một công ty phần mềm và Symphony Technology Group, một công ty cổ phần tư nhân tập trung vào công nghệ, trên con đường đạt được khối tài sản 3 tỷ đô la.
Wadhwani nói: “Tôi hầu như không thể thành lập công ty của riêng ḿnh ở Ấn Độ trong những ngày đó. Không có sự hỗ trợ nào cho các doanh nhân. Ở Hoa Kỳ có sự tự do để mơ những giấc mơ lớn, sự tự do để đạt được hoàn toàn dựa trên thành tích của chính ḿnh thay v́ nền tảng gia đ́nh, sự giàu có hoặc địa vị xă hội trước đó.”
Andrew Cherng sinh ra ở Trung Quốc đă quan sát thấy một chế độ xứng đáng tương tự khi ông đến Baldwin, Kansas vào năm 1966 để theo học Đại học Baker với học bổng toán học. Anh ấy đă đi học trung học ở Nhật Bản và nhận thấy “rất khó để người Trung Quốc có thể ḥa nhập với người Nhật.” Một năm sau, anh gặp một sinh viên năm nhất đến từ Miến Điện tên là Peggy, người mà sau này anh sẽ kết hôn. Cherng nói: “Tôi không có bất kỳ tài sản cá nhân nào khi tôi đến. Động lực của tôi đến từ sự kiện tôi là người nghèo.”
Năm 1973 Cherng mở một nhà hàng, Panda Inn, ở California cùng với cha của ḿnh, một đầu bếp bậc thầy đă di cư đến làm việc cùng ông. Mười năm sau, ông và vợ, Peggy, mở Panda Express đầu tiên tại một trung tâm mua sắm ở Glendale, California. Sau khi lấy bằng tiến sĩ về kỹ thuật điện và làm kỹ sư phát triển phần mềm trong công nghệ hàng không vũ trụ, bà Peggy đă kết hợp các hệ thống để biến Panda Express thành một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh với 1.900 cửa hàng, một trong những chuỗi cửa hàng lớn nhất ở Mỹ, với doanh thu 2,4 tỷ USD. Cherng tuyển dụng 30.000 nhân viên và đă quyên góp được hơn 100 triệu đô la cho các tổ chức từ thiện. Cherng nói: “Ở Mỹ, không có ǵ có thể ngăn cản bạn ngoài chính bạn.”
Douglas Leone là một thành viên Forbes 400 khác, người mà nền giáo dục Hoa Kỳ đă mở ra cho anh một bước ngoặt. Anh ấy đang học cấp hai khi rời Ư vào năm 1968. Cha mẹ anh ấy đă h́nh dung ra một cuộc sống cho anh ấy bao gồm “khả năng làm việc để đi lên, một điều không thể có ở châu Âu”. Anh đi du học tại Cornell và sau đó lấy bằng sau đại học của Columbia và MIT. Anh nói: “Giấc mơ Mỹ sẽ thành hiện thực nếu bạn biết tận dụng cơ hội. Tôi đă sử dụng giáo dục của ḿnh như một phương tiện để đưa tôi vào vị trí để làm điều ǵ đó.”
Leone đă làm công việc bán hàng cho các công ty như Sun Microsystems và Hewlett-Packard trước khi gia nhập công ty đầu tư mạo hiểm Sequoia Capital vào năm 1988. Ông trở thành đối tác quản lư vào năm 1996. Trong nhiệm kỳ của ḿnh, Sequoia đă đầu tư vào Google, YouTube, Zappos, LinkedIn và WhatsApp, và đă đóng một vai tṛ trong việc tạo ra vô số việc làm cho người khác.
Leone hiện có giá trị ước tính 2,7 tỷ USD. Kinh nghiệm nhập cư của anh ấy, anh ấy nói, là vô giá. “Là một người nhập cư cung cấp cho bạn một động lực, một động lực không bao giờ mất đi. Tôi vẫn cảm thấy điều đó cho đến ngày nay,” anh nói. “Thất bại không phải là một lựa chọn. Tôi nói với các con tôi rằng điều duy nhất tôi không thể cho chúng là sự tuyệt vọng. Và tôi xin lỗi chúng v́ điều đó.”
Tuy nhiên, cần lưu ư rằng ngoài 42 người nhập cư, Forbes 400 bao gồm 57 người là con của những người nhập cư, chiếm 14% trong danh sách (so với 6% công dân Hoa Kỳ trên 18 tuổi), phá vỡ khá nhiều h́nh ảnh tầng lớp tỷ phú nước Mỹ như kiểu cha truyền con nối. Khát khao kinh doanh đó dường như sẽ tiếp tục trong ít nhất một thế hệ. Cha mẹ người Do Thái của Sam Zell đă trốn thoát khỏi Ba Lan trước khi quân Đức xâm lược trong Thế chiến thứ hai và đến Hoa Kỳ. “Cha tôi thường nói rằng ở Hoa Kỳ, gia đ́nh tôi đă được phép đến đây và làm ăn phát đạt”.
Zell, người đă kiếm được 4,7 tỷ đô la từ vốn cổ phần tư nhân và đầu tư bất động sản, cho biết. “Cha mẹ tôi đă làm việc rất chăm chỉ và rất yêu nước và chắc chắn tấm gương của họ đă thấm nhuần trong chúng tôi.”