PDA

View Full Version : Người Do Thái trải qua bi kịch 2.000 năm mất nước v́ trận chiến này


pizza
09-11-2022, 23:59
Trận chiến nào khiến người Do Thái trải qua bi kịch 2.000 năm mất nước? Người Do Thái sống dưới sự kiểm soát của đế chế La Mă, duy tŕ bản sắc và ngôn ngữ riêng trong hàng trăm năm lịch sử. Nhưng cho đến khi cuộc chiến quyết định nổ ra khiến cộng đồng người Do Thái vong quốc trong gần 2.000 năm.

Cuộc nổi dậy Bar Kochba (132-136) là cuộc chiến cuối cùng giữa người Do Thái và đế chế La Mă, chấm dứt giai đoạn lịch sử đầy biến động ở vùng Judea (nay là Israel).

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thời La Mă, người Do Thái tập hợp thành lực lượng thống nhất dưới sự lănh đạo của thủ lĩnh Simon Bar Kochba.

https://intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2109807&stc=1&d=1662940695
Trong cuộc chiến cuối cùng với người Do Thái, các chiến binh La Mă tinh nhuệ hứng chịu tổn thất nặng nề.

Ở giai đoạn đầu, cuộc nổi dậy thành công bất ngờ, khiến toàn bộ một quân đoàn La Mă thiện chiến bị xóa sổ.

Quân nổi dậy người Do Thái một lần nữa chiếm thành Jerusalem và mở rộng quyền kiểm soát tới toàn bộ vùng Judea.

Tuy nhiên, La Mă ở thời điểm này vẫn là đế chế hùng mạnh nhất thế giới. Đội quân La Mă nhanh chóng được tái lập, quay trở lại vùng Judea trong chiến dịch quân sự giai đoạn 133-135.

Nguồn gốc xung đột
Simon Bar Kochba, người anh hùng thống nhất người Do Thái chiến đấu chống quân La Mă là một trong những nhân vật quan trọng bậc nhất trong lịch sử Do Thái.

Người Do Thái tin Bar Kochba là một đấng cứu thế cứu giúp dân tộc khỏi ách thống trị của La Mă, theo World History. Những tài liệu cổ do các nhà khảo cổ thu thập được, cho thấy Bar Kochba là “hoàng tử Israel”, có nghĩa là ḍng tộc hoàng gia của người Do Thái tái xuất sau hơn một trăm năm bị La Mă đô hộ.

Cuộc nổi dậy nổ ra khi hoàng đế La Mă Hadrian (trị v́ năm 117-138) muốn tái thiết Jerusalem như một thành phố đa thần giáo, với một ngôi đền thờ thần Jupiter trên địa điểm năm xưa từng là nơi tọa lạc Đền Thánh của người Do Thái.

Bên cạnh đó, hoàng đế Hadrian c̣n áp dụng các biện pháp hà khắc nhằm hạn chế tôn giáo của người Do Thái, dẫn đến sự phẫn nộ trong dân chúng. Người Do Thái khi đó cũng đứng trước sức ép lớn về mặt nhân khẩu học v́ làn sóng người Hy lạp và người La Mă chuyển đến sinh sống ở Jerusalem.

Quintus Tineius Rufus, thống đốc vùng Judea lúc bấy giờ được coi là một kẻ “bạo chúa”, coi người Do Thái chỉ là nô lệ.

Khác với những cuộc nổi dậy diễn ra tự phát trước đây, cuộc nổi dậy cuối cùng của người Do Thái đă được lên kế hoạch cẩn thận. Người Do Thái âm thầm thu thập vũ khí, đào mạng lưới đường hầm phức tạp, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến kéo dài.

Người Do Thái chờ đợi đến khi hoàng đế Hadrian quay trở về Rome sau chuyến thị sát các tỉnh phía đông, mới phát động nổi dậy.

Cuộc nổi dậy rung chuyển La Mă
Theo ghi chép của sử gia La Mă Cassius Dio, người Do Thái thuần thục chiến thuật chiến tranh du kích, sử dụng mạng lưới đường hầm để đánh úp quân La Mă.

Dưới sự chỉ huy của Bar Kochba, người Do Thái xóa sổ hoàn toàn quân đoàn Fretensis số 10 thiện chiến, đóng quân ở thành Jerusalem. Ở thời điểm đó, quân đoàn Ferrata số 6 được huy động từ khu vực lân cận.

Quân số La Mă lên tới 20.000 người nhưng vẫn không dập tắt được cuộc nổi dậy.

Giới lănh đạo La Mă sau đó huy động đến vùng Judea 5 quân đoàn, tổng binh lực gồm 80.000 người. Theo các tài liệu lịch sử, quân đoàn Deiotariana số 22 trên đường hành quân tới Jerusalem bị người Do Thái mai phục và đánh tan, biến mất hoàn toàn khỏi lịch sử.

Trong khi đó, ở giai đoạn đỉnh cao, lực lượng người Do Thái do Bar Kochba lănh đạo lên tới 400.000 người.

Theo sử gia Cassius Dio, sự kiên cường của người Do Thái “khiến cả thế giới chấn động”.

Hoàng đế Hadrian lúc này huy động danh tướng Sextus Julius Severus, người khi đó là thống đốc lănh thổ Anh, đem đại quân từ nơi xa xôi tập hợp về Judea.

Các quân đoàn La Mă thiện chiến đóng quân ở tận sông Danube cũng về tiếp ứng. Tháng 4.133, Severus đặt chân tới vùng Judea cùng 3 quân đoàn từ châu Âu, được trao toàn quyền chỉ huy chiến dịch.

Các sử gia ước tính 10 quân đoàn La Mă tham gia chiến dịch do Severus chỉ huy cùng các đơn vị hậu cần, quân số tổng cộng lên tới 120.000. Binh lực hùng hậu phản ánh việc hoàng đế La Mă quyết đánh trận quyết định với người Do Thái.

Severus áp dụng chiến thuật đánh chậm, nhưng hết sức chắc chắn và tàn bạo. Quân La Mă đi đến đâu, tàn sát người Do Thái đến đó, đốt cháy toàn bộ nhà cửa.

Trước đội quân đông đảo và kỷ luật, Bar Kochba liên tục hứng hết thất bại này đến thất bại khác. Trong trận công thành trên đồi Herodium, Severus cho quân bao vây từ cuối năm 134 đến đầu năm 135 mới hạ được thành.

Mùa hè năm 135, Bar Kochba và tàn quân rút về thành Betar, là nơi tử thủ cuối cùng trước quân La Mă. Các sử gia mô tả đó là một cuộc tàn sát thực sự sau khi quân La Mă phá vỡ tường thành. Không rơ số phận của Bar Kochba nhưng nhiều khả năng thủ lĩnh của người Do Thái đă tử thủ đến giây phút cuối cùng.

Theo ghi chép của sử gia Cassius Dio, các thành lũy kiên cố, 50 thị trấn, 985 ngôi làng của người Do Thái bị quân La Mă thiêu rụi. Tổng số người chết trong toàn bộ chiến dịch lên tới 580.000.

Quân La Mă cũng hứng chịu thiệt hại nặng nề dù không rơ số binh sĩ tử trận. Ngoài tổn thất của quân đoàn số 22 và số 10, quân đoàn Hispana số 9 hành quân từ Anh cùng Severus cũng được cho là bị xóa sổ. Không lâu sau, La Mă phải tổng động viên, chiêu mộ một lượng lớn binh sĩ trên toàn cơi để bù đắp tổn thất trong chiến dịch quân sự năm 132-136.

Căm phẫn v́ sức kháng cự của người Do Thái, hoàng đế Hadrian ra lệnh đổi tên vùng Judea thành Palestina. Người Do Thái bị trục xuất hoàn toàn khỏi Jerusalem và cộng đồng người Do Thái từ vùng Judea chuyển đi sinh sống ở khắp nơi trên thế giới.

Kể từ đây, người Do Thái mất hoàn toàn lănh thổ quê hương trong gần 2.000 năm, cho đến khi nhà nước Israel xuất hiện vào năm 1948.

VietBF@ sưu tập