Romano
12-19-2022, 08:36
Một người phụ nữ có tên Lydia Fairchild ở bang Washington, Hoa Kỳ đă từng bị kiện v́ tội gian lận phúc lợi xă hội. Mặc dù Fairchild đă đưa ra bằng chứng h́nh ảnh về quá tŕnh nuôi dạy con và người bạn đời cũ của cô, cha của bọn trẻ, cũng xác nhận rằng anh ta có mặt khi Fairchild sinh.
Nhưng có vẻ như những điều đó vẫn là chưa dủ, v́ bằng chứng xét nghiệm DNA lại cho thấy rằng DNA của cô không hề khớp với DNA của các con.
Cô không thể t́m được luật sư đại diện cho ḿnh và phải hầu ṭa một ḿnh cho đến khi cô sinh đứa con thứ ba trước sự xác thực của quan chức ṭa án. Nhưng lại một lần nữa, DNA của đứa trẻ vẫn không khớp với DNA của cô.
Do đó, ṭa án đă cho rằng cô ấy chắc chắn đă nói dối bằng cách nào đó và quyết định đứa những đứa trẻ đến trung tâm bảo trợ xă hội.
Nghi ngờ xét nghiệm của ṭa bị sai, Lydia đă xin thực hiện lại xét nghiệm ở một số pḥng thí nghiệm độc lập do chính cô lựa chọn. Tuy nhiên kết quả vẫn không có chút thay đổi nào. Kết quả xét nghiệm DNA vẫn cho thấy cô không phải mẹ ruột của những đứa trẻ.
May mắn thay, vào giây phút Lydia cảm thấy vô cùng tuyệt vọng và bất lực, th́ một luật sư thông minh đă xuất hiện và tiếp nhận vụ án của cô.Trong thời gian trước khi diễn ra vụ án, Lydia Fairchild mới chỉ 26 tuổi, thất nghiệp và vừa ly thân với cha của các con khi cô. Bởi vậy Lydia quyết định nộp đơn xin hỗ trợ của nhà nước ở bang Washington.
Và để có thể đủ điều kiện để nộp đơn, cả gia đ́nh đă phải cung cấp mẫu DNA để chứng minh mối quan hệ của họ. Khi có kết quả kiểm tra, văn pḥng dịch vụ xă hội đă gọi điện cho cô và yêu cầu cô đến văn pḥng của họ gấp.
Nhân viên xă hội và một đại diện pháp lư đă đưa ra bằng chứng DNA rằng các con của cô ấy không có quan hệ huyết thống với cô. Theo đó, Lydia Fairchild đang phạm tội gian lận phúc lợi bằng cách nói dối về mối quan hệ của cô với các con.
Lúc đó, Lydia đă bị sốc và cảm thấy vô cùng sợ hăi. Cô gọi điện cho bố mẹ của ḿnh, và cho cả các bác sĩ sản khoa, những người đă đỡ đẻ cho cô để xác minh xem có sự nhầm lẫn nào không. Tuy nhiên mọi người khẳng định chắc chắn rằng không có chuyện trao nhầm con.
Theo đó, bang đă đệ đơn kiện cô dù đang mang thai đứa con thứ ba vào thời điểm đó. Ban đầu, cơ quan công tố yêu cầu gia đ́nh thực hiện 3 xét nghiệm DNA riêng biệt để loại trừ các sai sót trong pḥng thí nghiệm. Nhưng tất cả kết quả đều cho thấy cô không phải mẹ ruột của hai đứa con cô.Mặc dù Lydia Fairchild có thể đưa ra những bức ảnh chụp cô ấy với các con cũng như những lời khai từ gia đ́nh cô ấy, nhưng bên công tố vẫn tin rằng cô ấy đă nói dối bằng cách nào đó. Ṭa án Hoa Kỳ vào thời điểm đó đă chấp nhận kết quả xét nghiệm DNA là không thể nhầm lẫn. V́ vậy, họ buộc tội Lydia Fairchild gian lận phúc lợi xă hội.
Thẩm phán khuyên Fairchild nên nhờ luật sư, nhưng tất cả họ đều từ chối với lư do rằng cô sẽ không bao giờ thắng kiện v́ bằng chứng DNA đă nói ra tất cả.
Tại thời điểm này, Fairchild chỉ c̣n vài ngày nữa là sinh đứa con tiếp theo. Và khi ṭa án đề nghị đưa hai đứa con của cô vào các nhà nuôi dưỡng riêng trong khi vụ việc được kháng cáo, cô đă yêu cầu ṭa án hoăn vụ án cho đến khi cô sinh đứa con thứ ba. Thẩm phán đồng ư và yêu cầu một nhân chứng có mặt khi cô sinh.Khi đứa trẻ thứ ba được sinh ra, ṭa án tiếp túc tiến hành xét nghiệm DNA. Khoảng hai tuần sau đó, kết quả xét nghiệm DNA lại một lần nữa cho thấy không có sự tương đồng về di truyền giữa cô và đứa con mới sinh.
Mặc dù nhân chứng đă có mặt và theo dơi từ lúc cô sinh cho đến khi các bác sĩ lấy máu của cả Fairchild và đứa trẻ để tiến hành xét nghiệm. Nhưng thẩm phán vẫn giữ nguyên tuyên bố của ḿnh rằng Fairchild đă lừa dối theo một cách nào đó về việc mang thai.
Tuy nhiên, luật sư Alan Tindell, người bị hấp dẫn bởi vụ án kỳ lạ này, đă đồng ư đại diện cho cô.Tindell đă điều tra và xác nhận rằng những đứa con của cô ấy không phải do chị gái hoặc anh trai của cô ấy sinh ra. Anh ấy thậm chí c̣n hỏi Fairchild liệu có bắt cóc chúng không. Sau khi bị thuyết phục bởi câu trả lời kiên quyết của cô ấy, Tindell bắt đầu điều tra bằng chứng chống lại Fairchild.
Tindell đă đọc được một bài báo đăng trên Tạp chí Y học New England, đề cập đến một trường hợp ở Boston tương tự như của Lydia. Trong đó nói đến trường hợp của Karen Keegan, một bà mẹ 52 tuổi có hai con trai ở Boston. Khi bà cầm ghép thận, những đứa con của bà đă t́nh nguyện hiến thận của ḿnh cho mẹ. Tuy nhiên xét nghiệm DNA lại cho thấy bà và các con của ḿnh không trùng khớp.
Sau khi nghiên cứu chuyên sâu hơn, họ phát hiện ra rằng Keegan có hai bộ DNA khác nhau trong cơ thể. Điều này là do trong quá tŕnh mẹ của Keegan mang thai bà, đă có sự hợp nhất của hai quả trứng được thụ tinh độc lập ở giai đoạn phát triển rất sớm, được gọi là chimerism. Các kết quả nghiên cứu đă được công bố vào cùng năm mà cuộc điều tra Fairchild bắt đầu, năm 2002.Bằng chứng này rất quan trọng đối với trường hợp của Fairchild và ṭa án đă cho phép xét nghiệm DNA của Fairchild thêm một lần nữa. Các kỹ thuật viên pḥng thí nghiệm do ṭa chỉ định bắt đầu lấy các mẫu tóc, da và máu, nhưng tất cả đều cho thấy chúng chỉ có cùng một ḍng DNA.
Chỉ đến khi lấy một mẫu từ cổ tử cung của Fairchild, họ mới t́m thấy DNA (ḍng DNA thứ hai) khớp với các con của cô. Nhưng điều tra vẫn chưa kết thúc.
Mẹ của Fairchild phải gửi DNA của ḿnh để so sánh và kết quả cho thấy bà chính xác là bà ngoại của bọn trẻ, thẩm phán mới bác bỏ vụ kiện.Trường hợp của Fairchild là một trong những báo cáo công khai đầu tiên về hiện tượng chimerism và được sử dụng làm ví dụ trong các cuộc thảo luận sau này về tính hợp lệ và độ tin cậy của bằng chứng DNA trong các vụ kiện tại ṭa án ở Hoa Kỳ.
Các trường hợp chimerism được ghi nhận ở những người như Fairchild và Keegan là rất hiếm và tỷ lệ xuất hiện của nó vẫn chưa được biết. Một số nhà nghiên cứu suy đoán rằng hiện tượng chimerism ở người cũng phổ biến như ở các cặp song sinh khác trứng hoặc khác trứng. Tỷ lệ mắc hội chứng này có thể đang gia tăng đều đặn do việc sử dụng ngày càng nhiều các công nghệ hỗ trợ sinh sản.
Nhưng có vẻ như những điều đó vẫn là chưa dủ, v́ bằng chứng xét nghiệm DNA lại cho thấy rằng DNA của cô không hề khớp với DNA của các con.
Cô không thể t́m được luật sư đại diện cho ḿnh và phải hầu ṭa một ḿnh cho đến khi cô sinh đứa con thứ ba trước sự xác thực của quan chức ṭa án. Nhưng lại một lần nữa, DNA của đứa trẻ vẫn không khớp với DNA của cô.
Do đó, ṭa án đă cho rằng cô ấy chắc chắn đă nói dối bằng cách nào đó và quyết định đứa những đứa trẻ đến trung tâm bảo trợ xă hội.
Nghi ngờ xét nghiệm của ṭa bị sai, Lydia đă xin thực hiện lại xét nghiệm ở một số pḥng thí nghiệm độc lập do chính cô lựa chọn. Tuy nhiên kết quả vẫn không có chút thay đổi nào. Kết quả xét nghiệm DNA vẫn cho thấy cô không phải mẹ ruột của những đứa trẻ.
May mắn thay, vào giây phút Lydia cảm thấy vô cùng tuyệt vọng và bất lực, th́ một luật sư thông minh đă xuất hiện và tiếp nhận vụ án của cô.Trong thời gian trước khi diễn ra vụ án, Lydia Fairchild mới chỉ 26 tuổi, thất nghiệp và vừa ly thân với cha của các con khi cô. Bởi vậy Lydia quyết định nộp đơn xin hỗ trợ của nhà nước ở bang Washington.
Và để có thể đủ điều kiện để nộp đơn, cả gia đ́nh đă phải cung cấp mẫu DNA để chứng minh mối quan hệ của họ. Khi có kết quả kiểm tra, văn pḥng dịch vụ xă hội đă gọi điện cho cô và yêu cầu cô đến văn pḥng của họ gấp.
Nhân viên xă hội và một đại diện pháp lư đă đưa ra bằng chứng DNA rằng các con của cô ấy không có quan hệ huyết thống với cô. Theo đó, Lydia Fairchild đang phạm tội gian lận phúc lợi bằng cách nói dối về mối quan hệ của cô với các con.
Lúc đó, Lydia đă bị sốc và cảm thấy vô cùng sợ hăi. Cô gọi điện cho bố mẹ của ḿnh, và cho cả các bác sĩ sản khoa, những người đă đỡ đẻ cho cô để xác minh xem có sự nhầm lẫn nào không. Tuy nhiên mọi người khẳng định chắc chắn rằng không có chuyện trao nhầm con.
Theo đó, bang đă đệ đơn kiện cô dù đang mang thai đứa con thứ ba vào thời điểm đó. Ban đầu, cơ quan công tố yêu cầu gia đ́nh thực hiện 3 xét nghiệm DNA riêng biệt để loại trừ các sai sót trong pḥng thí nghiệm. Nhưng tất cả kết quả đều cho thấy cô không phải mẹ ruột của hai đứa con cô.Mặc dù Lydia Fairchild có thể đưa ra những bức ảnh chụp cô ấy với các con cũng như những lời khai từ gia đ́nh cô ấy, nhưng bên công tố vẫn tin rằng cô ấy đă nói dối bằng cách nào đó. Ṭa án Hoa Kỳ vào thời điểm đó đă chấp nhận kết quả xét nghiệm DNA là không thể nhầm lẫn. V́ vậy, họ buộc tội Lydia Fairchild gian lận phúc lợi xă hội.
Thẩm phán khuyên Fairchild nên nhờ luật sư, nhưng tất cả họ đều từ chối với lư do rằng cô sẽ không bao giờ thắng kiện v́ bằng chứng DNA đă nói ra tất cả.
Tại thời điểm này, Fairchild chỉ c̣n vài ngày nữa là sinh đứa con tiếp theo. Và khi ṭa án đề nghị đưa hai đứa con của cô vào các nhà nuôi dưỡng riêng trong khi vụ việc được kháng cáo, cô đă yêu cầu ṭa án hoăn vụ án cho đến khi cô sinh đứa con thứ ba. Thẩm phán đồng ư và yêu cầu một nhân chứng có mặt khi cô sinh.Khi đứa trẻ thứ ba được sinh ra, ṭa án tiếp túc tiến hành xét nghiệm DNA. Khoảng hai tuần sau đó, kết quả xét nghiệm DNA lại một lần nữa cho thấy không có sự tương đồng về di truyền giữa cô và đứa con mới sinh.
Mặc dù nhân chứng đă có mặt và theo dơi từ lúc cô sinh cho đến khi các bác sĩ lấy máu của cả Fairchild và đứa trẻ để tiến hành xét nghiệm. Nhưng thẩm phán vẫn giữ nguyên tuyên bố của ḿnh rằng Fairchild đă lừa dối theo một cách nào đó về việc mang thai.
Tuy nhiên, luật sư Alan Tindell, người bị hấp dẫn bởi vụ án kỳ lạ này, đă đồng ư đại diện cho cô.Tindell đă điều tra và xác nhận rằng những đứa con của cô ấy không phải do chị gái hoặc anh trai của cô ấy sinh ra. Anh ấy thậm chí c̣n hỏi Fairchild liệu có bắt cóc chúng không. Sau khi bị thuyết phục bởi câu trả lời kiên quyết của cô ấy, Tindell bắt đầu điều tra bằng chứng chống lại Fairchild.
Tindell đă đọc được một bài báo đăng trên Tạp chí Y học New England, đề cập đến một trường hợp ở Boston tương tự như của Lydia. Trong đó nói đến trường hợp của Karen Keegan, một bà mẹ 52 tuổi có hai con trai ở Boston. Khi bà cầm ghép thận, những đứa con của bà đă t́nh nguyện hiến thận của ḿnh cho mẹ. Tuy nhiên xét nghiệm DNA lại cho thấy bà và các con của ḿnh không trùng khớp.
Sau khi nghiên cứu chuyên sâu hơn, họ phát hiện ra rằng Keegan có hai bộ DNA khác nhau trong cơ thể. Điều này là do trong quá tŕnh mẹ của Keegan mang thai bà, đă có sự hợp nhất của hai quả trứng được thụ tinh độc lập ở giai đoạn phát triển rất sớm, được gọi là chimerism. Các kết quả nghiên cứu đă được công bố vào cùng năm mà cuộc điều tra Fairchild bắt đầu, năm 2002.Bằng chứng này rất quan trọng đối với trường hợp của Fairchild và ṭa án đă cho phép xét nghiệm DNA của Fairchild thêm một lần nữa. Các kỹ thuật viên pḥng thí nghiệm do ṭa chỉ định bắt đầu lấy các mẫu tóc, da và máu, nhưng tất cả đều cho thấy chúng chỉ có cùng một ḍng DNA.
Chỉ đến khi lấy một mẫu từ cổ tử cung của Fairchild, họ mới t́m thấy DNA (ḍng DNA thứ hai) khớp với các con của cô. Nhưng điều tra vẫn chưa kết thúc.
Mẹ của Fairchild phải gửi DNA của ḿnh để so sánh và kết quả cho thấy bà chính xác là bà ngoại của bọn trẻ, thẩm phán mới bác bỏ vụ kiện.Trường hợp của Fairchild là một trong những báo cáo công khai đầu tiên về hiện tượng chimerism và được sử dụng làm ví dụ trong các cuộc thảo luận sau này về tính hợp lệ và độ tin cậy của bằng chứng DNA trong các vụ kiện tại ṭa án ở Hoa Kỳ.
Các trường hợp chimerism được ghi nhận ở những người như Fairchild và Keegan là rất hiếm và tỷ lệ xuất hiện của nó vẫn chưa được biết. Một số nhà nghiên cứu suy đoán rằng hiện tượng chimerism ở người cũng phổ biến như ở các cặp song sinh khác trứng hoặc khác trứng. Tỷ lệ mắc hội chứng này có thể đang gia tăng đều đặn do việc sử dụng ngày càng nhiều các công nghệ hỗ trợ sinh sản.