Log in

View Full Version : Bệnh tự ảo tưởng về kiến thức của bản thân


vuitoichat
12-26-2022, 15:43
Theo như sau khi được yêu cầu đưa ra câu trả lời đi sâu hơn cho mỗi câu hỏi, hầu hết mọi người đều hoàn toàn bối rối – cũng như bạn vậy thôi. Có lẽ nghiêm trọng nhất, nhiều người trong chúng ta đánh giá quá cao mức độ chúng ta học được bằng cách quan sát người khác – dẫn đến ‘ảo tưởng về khả năng tiếp thu kỹ năng’. bởi nếu bạn cũng giống như nhiều người tham gia nghiên cứu tâm lư, ban đầu bạn có thể cho rằng ḿnh sẽ làm tốt.

Nếu bạn cho ḿnh là thông minh và có học thức vừa phải, bạn có thể mặc định rằng ḿnh nắm bắt vừa đủ về cách thức hoạt động cốt lơi của thế giới – kiến thức về những phát minh và các hiện tượng tự nhiên quen thuộc quanh ḿnh.

Bây giờ, hăy nghĩ về những câu hỏi sau đây: cầu vồng được h́nh thành như thế nào? Tại sao ngày nắng có thể lạnh hơn ngày âm u? Làm sao trực thăng bay được? Bồn cầu xả nước như thế nào?

Tiếp theo, hăy tự hỏi bản thân: bạn có thể có câu trả lời chi tiết cho bất kỳ hay toàn bộ những câu hỏi trên không? Hay bạn chỉ nắm bắt mơ hồ những điều cốt lơi trong mỗi trường hợp?

Nếu bạn cũng giống như nhiều người tham gia nghiên cứu tâm lư, ban đầu bạn có thể cho rằng ḿnh sẽ làm tốt. Tuy nhiên, khi được yêu cầu đưa ra câu trả lời đi sâu hơn cho mỗi câu hỏi, hầu hết mọi người đều hoàn toàn bối rối – cũng như bạn vậy.

Sự thiên lệch này được gọi là ‘ảo tưởng kiến thức’. Bạn có thể cho rằng những ví dụ cụ thể này là nhỏ nhặt – suy cho cùng, chúng là kiểu câu hỏi mà đứa trẻ ṭ ṃ có thể hỏi bạn, mà hậu quả tồi tệ nhất có thể là đỏ mặt trước mặt người thân.*

Nhưng ảo tưởng kiến thức có thể gây hại cho phán đoán chúng ta trong nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, ở nơi làm việc, nó có thể khiến chúng ta đánh giá quá cao kiến thức của ḿnh trong một cuộc phỏng vấn, bỏ qua đóng góp của đồng nghiệp và nhận những việc mà chúng ta hoàn toàn không thể làm được.

Nhiều người chúng ta trong cuộc sống hoàn toàn không biết ǵ về sự kiêu ngạo trí tuệ này và hậu quả của nó. Tin tốt là một số nhà tâm lư cho rằng có thể có một số cách đơn giản không ngờ để tránh cái bẫy tư duy phổ biến này.

Ẩn số chưa biết

Ảo tưởng kiến thức – c̣n được gọi là ‘ảo ảnh về chiều sâu giải thích’ – lần đầu tiên được đưa ra ánh sáng vào năm 2002.*

Trong một loạt các nghiên cứu, Leonid Rozenblit và Frank Keil tại Đại học Yale trước hết đưa cho người tham gia những giải thích ví dụ về các hiện tượng khoa học và cơ chế hoạt động công nghệ, được chấm theo thang điểm từ 1 (rất sơ sài) đến 7 (rất thấu đáo). Điều này đảm bảo mọi người đều thống nhất khi đánh giá thế nào là hiểu biết ‘sơ sài’ hay ‘thấu đáo’ về một chủ đề.

Kế đó là bài trắc nghiệm. Khi được hỏi thêm các câu hỏi về khoa học và công nghệ, người tham gia phải đánh giá mức độ họ nghĩ ḿnh có thể trả lời từng câu hỏi đến đâu, sử dụng cùng thang đo, trước khi viết ra câu trả lời càng chi tiết càng tốt.

Rozenblit và Keil nhận thấy đánh giá ban đầu của mọi người về hiểu biết của họ thường lạc quan quá mức. Họ cho rằng ḿnh có thể viết cả bài dài về chủ đề này, nhưng thường chỉ kể ra được ư chính cơ bản nhất – và sau đó, nhiều người ngạc nhiên về mức độ họ biết ít thế nào.

Các nhà nghiên cứu ngờ rằng sự tự tin thái quá nảy sinh từ khả năng h́nh dung các khái niệm được nói đến; chẳng hạn, không khó h́nh dung trực thăng bay thế nào, và sự xuất hiện dễ dàng của h́nh ảnh đó trong tâm trí khiến mọi người thấy tự tin hơn để giải thích cơ chế chuyển động của nó.

Kể từ nghiên cứu bản lề này, các nhà tâm lư đă cho thấy ảo tưởng kiến thức trong nhiều bối cảnh khác nhau. Ví dụ, Matthew Fisher, phó giáo sư tiếp thị tại Đại học Southern Methodist, Texas, phát hiện rằng nhiều sinh viên ra trường đánh giá quá cao khả năng nắm bắt chuyên ngành đại học của họ, khi họ đă học xong.

Giống bài trắc nghiệm đầu tiên, người tham gia được yêu cầu đánh giá hiểu biết của họ về các khái niệm khác nhau trước khi giải thích chi tiết. Tuy nhiên, lần này, các câu hỏi thuộc chủ đề họ đă học nhiều năm trước. (Ví dụ, sinh viên vật lư cố giải thích định luật nhiệt động lực học).*

Nhờ sự tiêu hao trí nhớ tự nhiên, các sinh viên dường như đă quên nhiều chi tiết quan trọng, nhưng họ không thấy ḿnh đă mất bao nhiêu kiến thức – khiến họ quá tự tin vào dự đoán ban đầu của ḿnh. Khi đánh giá hiểu biết của ḿnh, họ cho rằng họ vẫn biết nhiều như lúc họ hoàn toàn ch́m đắm trong việc học.

Nghiên cứu sâu hơn chỉ ra rằng việc có sẵn tài nguyên trực tuyến có thể nuôi dưỡng sự tự tin thái quá của chúng ta, v́ chúng ta nhầm lẫn kho tàng kiến thức trên mạng với trí nhớ của ḿnh.*

Fisher đă yêu cầu một nhóm trả lời các câu hỏi – chẳng hạn ‘dây kéo phéc-mơ-tuya hoạt động thế nào?’ – với sự hỗ trợ của công cụ t́m kiếm, trong khi nhóm khác chỉ được yêu cầu đánh giá hiểu biết của họ về chủ đề này mà không dựa thêm vào bất cứ nguồn nào. Sau đó, cả hai nhóm đă trải qua bài trắc nghiệm ban đầu về ảo ảnh kiến thức với bốn câu hỏi bổ sung – chẳng hạn ‘lốc xoáy h́nh thành thế nào?’ và ‘tại sao những đêm nhiều mây ấm hơn?’. Ông nhận thấy những ai dùng Internet trong câu hỏi ban đầu của họ thể hiện sự tự tin thái quá trong nhiệm vụ ngay sau đó.**

Ảo tưởng về tiếp thu kỹ năng

Có lẽ nghiêm trọng nhất, nhiều người trong chúng ta đánh giá quá cao mức độ chúng ta học được bằng cách quan sát người khác – dẫn đến ‘ảo tưởng về khả năng tiếp thu kỹ năng’.

Michael Kardas, nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ về quản lư và tiếp thị tại Đại học Northwestern, Hoa Kỳ, đă yêu cầu người tham gia xem các video lặp đi lặp lại về các kỹ năng khác nhau, chẳng hạn ném phi tiêu hoặc nhảy điệu moonwalk, đến 20 lần. Sau đó, họ phải ước tính khả năng của ḿnh, trước khi tự ḿnh làm việc đó. Hầu hết mọi người cho rằng chỉ cần quan sát các đoạn video họ sẽ làm được. Và càng xem nhiều, sự tự tin ban đầu của họ càng lớn.

Tuy nhiên, thực tế rơ ràng đáng thất vọng. “Mọi người nghĩ họ sẽ ghi điểm cao hơn nếu họ xem video 20 lần so với xem một lần,” Kardas nói. “Nhưng màn thể hiện của họ không cho thấy bằng chứng nào là họ đă học được.”

Khá kinh ngạc, quan sát thụ động c̣n có thể làm tăng sự tự tin của mọi người vào khả năng họ làm được các công việc phức tạp mang tính sống c̣n, chẳng hạn hạ cánh máy bay.*

Kayla Jordan, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Waikato, New Zealand, người đứng đầu nghiên cứu này, đă được thôi thúc trực tiếp từ nghiên cứu của Kardas. “Chúng tôi muốn kiểm tra giới hạn của hiện tượng này - liệu nó có áp dụng cho các kỹ năng chuyên môn không.” Bà chỉ ra rằng phi công cần hàng trăm giờ huấn luyện và hiểu biết sâu sắc về vật lư, khí tượng và kỹ thuật, mà không thể tiếp thu được thông qua đoạn video ngắn.

Trước hết người tham gia được yêu cầu "tưởng tượng ḿnh đang ở trên máy bay nhỏ. Do trường hợp khẩn cấp, phi công trở nên bất lực, và bạn là người duy nhất c̣n lại để hạ cánh". Sau đó, một nửa được cho xem đoạn băng dài bốn phút cảnh phi công hạ cánh, trong khi nửa c̣n lại không xem.

Quan trọng là đoạn băng thậm chí c̣n không cho thấy bàn tay phi công làm ǵ trong quá tŕnh – nó không có giá trị hướng dẫn nào. Tuy nhiên, nhiều người xem đoạn clip trở nên lạc quan hơn nhiều về khả năng tự hạ cánh an toàn. “Họ tự tin hơn khoảng 30%, so với những người không xem,” Jordan nói.
https://i.postimg.cc/SNLQ9X23/fdb24f30-8443-11ed-90a7-556e529f9f89.jpg
Thế lưỡng nan ngoài đời thực

Ảo tưởng về kiến thức có thể có những hậu quả quan trọng. Quá tự tin vào kiến thức có thể có nghĩa là bạn chuẩn bị ít hơn chẳng hạn cho phỏng vấn hay thuyết tŕnh, khiến bạn xấu hổ khi bị ép phải thể hiện chuyên môn.

Tự tin thái quá có thể là vấn đề khi bạn muốn thăng chức. Khi quan sát mọi người từ xa, bạn có thể mặc định ḿnh biết công việc đó làm thế nào và bạn đă tiếp thu các kỹ năng cần thiết. Tuy nhiên, một khi bắt tay vào việc, bạn có thể nhận ra rằng công việc này có nhiều thứ mà chỉ nh́n thôi th́ không biết được.

Nó cũng có thể khiến chúng ta đánh giá thấp đồng nghiệp. Giống như cách chúng ta nhầm lẫn kiến thức trên Google với kiến thức chính ḿnh, chúng ta có thể không nhận ra ḿnh dựa vào kỹ năng và khả năng của người xung quanh đến mức nào. “Khi thấy kỹ năng và nền tảng kiến thức của người khác – đôi khi mọi người có thể nhầm lẫn đó phần mở rộng của những ǵ họ bản thân biết,” Jordan nói.

Nếu chúng ta bắt đầu cho rằng kiến thức của đồng nghiệp là của ḿnh, chúng ta ít có khả năng nhớ và thể hiện ḷng biết ơn đối với đóng góp của họ - h́nh thức kiêu ngạo vốn là lỗi phổ biến nơi công sở. Đánh giá quá cao kiến thức bản thân và quên đi sự hỗ trợ mà bản thân nhận được từ người khác cũng có thể gây vấn đề nghiêm trọng khi chúng ta cố gắng một ḿnh một chợ với dự án solo.

Có thể làm ǵ để tránh những cái bẫy này?*

Một giải pháp rất đơn giản: kiểm tra bản thân. Ví dụ: nếu bạn đánh giá năng lực bản thân trong việc thực hiện một công việc không quen, đừng chỉ dựa vào ư tưởng mơ hồ, chung chung về nó sẽ là như thế nào.*

Thay vào đó, hăy bỏ thêm chút thời gian suy nghĩ cẩn thận về các bước phải làm để đạt mục tiêu. Bạn có thể thấy có những lỗ hổng lớn trong kiến thức của bạn mà bạn cần phải lấp đầy trước khi tung ḿnh ra.*

Tốt hơn nữa, bạn có thể t́m đến chuyên gia và hỏi họ làm ǵ – cuộc tṛ chuyện có thể dằn lại bất kỳ những ǵ mà bạn có thể kiêu ngạo rằng ḿnh biết.

Do công nghệ có khả năng thổi phồng niềm tin vào kiến thức của bạn, bạn cũng có thể tiết chế thói quen lên mạng của ḿnh.*

Fisher cho rằng nên dừng lại một chút và cố gắng hết sức để nhớ trước khi t́m kiếm trên mạng. Bằng cách ư thức những khiếm khuyết kiến thức của ḿnh, bạn có thể bắt đầu có đánh giá thực tế hơn về trí nhớ của ḿnh và giới hạn của nó.*

“Bạn cần chấp nhận t́nh trạng ḿnh thấy bối rối,” ông nói. “Bạn phải cảm nhận được sự thiếu hụt kiến thức của ḿnh, là điều vốn mấy không dễ chịu.”

Mục tiêu của tất cả những việc này, là để trở nên khiêm tốn thêm một chút - một trong các ‘đức tính trí tuệ’ cổ điển được các triết gia tôn vinh.*

Bằng cách nhận ra ảo tưởng kiến thức của chúng ta về và thừa nhận giới hạn trong hiểu biết của ḿnh, tất cả chúng ta có thể gạt qua các bẫy tư duy đáng tiếc để có được suy nghĩ và quyết định khôn ngoan hơn.