Log in

View Full Version : Dấu hiệu sốc phản vệ, cần nhận biết để cấp cứu kịp thời tránh tử vong


troopy
04-02-2023, 04:46
Sốc phản vệ có thể xảy ra sau vài giây hoặc vài phút sau khi tiếp xúc với dị nguyên khiến người bệnh bị dị ứng. Khi bị sốc phản vệ cần nhận biết dấu hiệu sớm để cấp cứu nhanh, kịp thời tránh dẫn tới tử vong do suy hô hấp cấp và tụt huyết áp.

Theo GS.TS Nguyễn Gia B́nh - Chủ tịch Hội Hồi sức Cấp cứu và Chống độc Việt Nam (nguyên Trưởng khoa Hồi sức tích cực BV Bạch Mai): Sốc phản vệ có thể gặp ở khắp nơi từ những t́nh huống tưởng như rất đơn giản nhất nhưng cũng là mối đe doạ lớn đến tính mạng.

Sốc phản vệ khiến hệ thống miễn dịch giải phóng một lượng lớn chất trung gian hóa học có thể gây sốc, huyết áp giảm đột ngột, bít hẹp đường thở, gây khó thở dẫn đến tử vong.

https://www.intermati.com/forum/attachment.php?attac hmentid=2200019&stc=1&d=1680410790
Ong đốt là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người bị sốc phản vệ.

Sốc phản vệ là ǵ?
Sốc phản vệ là một phản ứng dị ứng nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mạng. Phản ứng này có thể xảy ra trong vài giây hoặc vài phút sau khi tiếp xúc với các chất dị ứng (dị nguyên) như: thuốc, nhựa mủ, nọc độc, ong chích, kiến đốt… hay là những thực phẩm hàng ngày không phù hợp với cơ thể mỗi người như: Cá ngừ, tôm, tép, ốc, trứng, sữa, khoai tây, đậu phộng, đậu nành.

Sốc phản vệ không những chỉ gặp ở trẻ nhỏ mà c̣n gặp ở người lớn. Một số trường hợp có thể xác định được nguyên nhân gây ra sốc phản vệ nhưng một số khác lại rất khó để có thể xác định bởi nguyên nhân gây ra có thể là có sự kết hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau, việc chẩn đoán càng trở nên khó khăn hơn. Khoảng 20% những trường hợp bị sốc phản vệ không xuất hiện các triệu chứng ở da hay niêm mạc, số khác lại xuất hiện triệu chứng ở hệ tuần hoàn như giảm huyết áp.

Các triệu chứng và dấu hiệu của sốc phản vệ
Theo Cẩm nang MSD dành cho Chuyên gia, các triệu chứng sốc phản vệ thường bắt đầu trong ṿng 15 phút sau khi tiếp xúc và liên quan đến da, đường hô hấp trên hoặc dưới, hệ thống tim mạch và/hoặc đường tiêu hóa.

Một hoặc nhiều khu vực có thể bị ảnh hưởng. Các triệu chứng không nhất thiết phải tiến triển từ nhẹ (như nổi mày đay) đến nghiêm trọng (như tắc nghẽn đường dẫn khí, sốc khó điều trị), mặc dù mỗi bệnh nhân biểu hiện cùng một phản ứng với tiếp xúc tiếp theo.

Các triệu chứng sốc phản vệ từ nhẹ đến nặng bao gồm: Đỏ bừng, ngứa, nổi mề đay, sổ mũi, buồn nôn, đau quặn bụng, tiêu chảy, cảm giác nghẹt thở hoặc khó thở, đánh trống ngực và chóng mặt.

Các dấu hiệu quá mẫn do sốc phản vệ gây ra bao gồm: Hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, nổi mề đay, phù mạch, thở kḥ khè, thở rít, tím tái và ngất.

Sốc phản vệ có thể tiến triển trong ṿng vài phút và bệnh nhân có thể co giật, không đáp ứng và tử vong. Trụy tim mạch có thể xảy ra mà không có triệu chứng hô hấp hoặc các triệu chứng khác.

Phản ứng giai đoạn cuối có thể xảy ra từ 4 - 8 giờ sau khi phơi nhiễm hoặc sau đó. Các triệu chứng và dấu hiệu thường ít nặng hơn ban đầu và có thể bị giới hạn ở mày đay. Tuy nhiên, chúng có thể nghiêm trọng hơn hoặc gây tử vong.

Do đó, những bệnh nhân có phản ứng phản vệ nên được quan sát trong cơ sở điều trị bệnh ở giai đoạn cấp tính trong vài giờ sau phản ứng ban đầu.

Các dấu hiệu sốc phản vệ cần nhận biết để có biện pháp xử lư kịp thời - Ảnh 2.
Các triệu chứng sốc phản vệ thường bắt đầu trong ṿng 15 phút sau khi tiếp xúc. Ảnh minh họa

Cơ chế sốc phản vệ
ThS.BS Nguyễn Thị Mỹ (Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Đà Nẵng) cho biết, cơ chế nảy sinh sốc phản vệ trải qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1 - giai đoạn mẫn cảm: Khi dị nguyên đi vào cơ thể, t́nh trạng sốc phản vệ bắt đầu xảy ra. Dị nguyên đi vào cơ thể qua đường tiêm truyền hoặc có thể do ăn uống, do hít phải hoặc tiếp xúc qua da, tại đây dị nguyên gặp đại thực bào. Đại thực bào được hoạt hóa, các thông tin được truyền qua ARN và tiết ra chất interleukin (IL 1). TCD4 được hoạt hóa bởi IL1, với sự tham gia của các phức hợp chuyển lớp 1 và 3, thứ lớp của TCD4 là TH1 và TH2 bị tác động.

Vai tṛ của TH2 được thể hiện một cách rơ rệt trong trường hợp bị sốc phản vệ do thuốc, với sự tham gia của IL 4 và IL5 dẫn đến sự sản sinh IgE.

Kháng thể IgE từ tế bào plasma chui qua màng tương báo và được gắn trên bề mặt của dưỡng bào.

Giai đoạn 2 - giai đoạn hóa sinh bệnh: Dị nguyên kết hợp với IgE giải phóng nhiều loại hoạt chất trung gian: serotonin, histamin...

Giai đoạn 3 - giai đoạn sinh lư bệnh: Các hoạt chất trung gian gây tác động khiến cho động mạch bị giăn, huyết áp giảm, phế quản bị co thắt gây nên những cơn đau ở vùng bụng, động mạch năo bị co khiến cảm thấy đau đầu, choáng hoặc có thể là hôn mê.

Hậu quả của cơ chế này chính là tăng tính thẩm thấu mao quản và việc nhạy cảm quá mức của phế quản khiến cho mạch ngoại biên bị giăn, tính thẩm thấu thành mạch tăng, thể tích tuần hoàn bị giảm dẫn đến t́nh trạng tụt huyết áp, hoạt động của cơ tim bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó phế quản bị co thắt thanh quản bị phù nề, đường hô hấp bị hẹp lại gây nên t́nh trạng suy hô hấp cấp.

Sốc phản vệ xảy ra khi cơ thể có cơ địa dị ứng, tức là có thể xảy ra với người này nhưng có thể lại không xảy ra đối với người khác.

VietBF@sưu tập