june04
12-06-2023, 05:21
Khi xâm lược Ai Cập vào tháng 7/1798, Napoleon Bonaparte không chỉ mang theo hàng vạn quân lính mà c̣n tuyển hơn 150 nhà khoa học đi cùng. Họ đến đó với mục đích nghiên cứu và khai thác. Ngày 23/8/1798, hiệp hội khoa học mang tên Institut d'Égypte, tổ chức cuộc họp đầu tiên ở Cairo và Napoleon trở thành phó hội trưởng đầu tiên. Nhưng sau nhiều thất bại ở Ai Cập, Napoleon trở về Pháp vào năm 1799 và khiến nhiều nhà khoa học mắc kẹt.
Bất chấp những khó khăn, các kỹ sư, nhà toán học, nhà tự nhiên học và những chuyên gia khác đă dành gần ba năm để khảo sát, ghi chép và thu thập mọi thứ từ cổ vật đến xác ướp và những loài động vật mà phương Tây chưa biết đến. Công việc của họ mang đến một số phát hiện mới, giúp chính thức hóa các ngành khoa học như khảo cổ học và thúc đẩy đam mê nghiên cứu Ai Cập.
Phát hiện các phản ứng hóa học có thể đảo ngược
Trước đây, việc phản ứng hóa học có thể đảo ngược không được chấp nhận rộng răi. Tuy nhiên, nhà hóa học Claude-Louis Berthollet t́m thấy bằng chứng thuyết phục cho quan điểm này trong lúc nghiên cứu muối ở các hồ trong thung lũng Natron.
Đá vôi trong các hồ được bao phủ bởi natron, loại muối tự nhiên mà người Ai Cập sử dụng để bảo quản xác ướp v́ nó hấp thụ hơi ẩm và ḥa tan chất béo. Berthollet nhận thấy, đá vôi chứa canxi cacbonat phản ứng hóa học với muối, hay natri clorua, để tạo ra natron. Trong khi các nhà hóa học trước đó đă biết, trong điều kiện pḥng thí nghiệm, phản ứng ngược lại hoàn toàn có thể xảy ra.
Góp phần chính thức hóa ngành khảo cổ học
Vào thời Napoleon, khảo cổ chưa phải là một ngành khoa học chính thức. Đa số nhà khoa học chưa có nhiều kinh nghiệm với các đồ tạo tác. Đất cát vẫn vùi lấp nhiều ngồi đền chưa được khai quật.
Nghệ sĩ kiêm nhà văn Dominique-Vivant Denon đă rất kinh ngạc trước những di tích cổ xưa ḿnh nh́n thấy. Ông trở về Pháp với Napoleon và nhanh chóng xuất bản một cuốn sách với những mô tả và h́nh vẽ mang tên Travels in Upper and Lower Egypt (Những chuyến đi ở Thượng và Hạ Ai Cập). Những h́nh vẽ và mô tả của ông về các ngôi đền và tàn tích ở Thebes, Esna, Edfu, và Karnak trở nên nổi tiếng và rất được ưa chuộng.
Phương pháp mới để phân loại côn trùng
Khi trở về Pháp, nhà thực vật học Jules-César Savigny cần sắp xếp lại 1.500 loài côn trùng mà ông đă mang về. Thời đó chưa tồn tại phương pháp có hệ thống nào để phân biệt loài bướm này với loài bướm khác. V́ vậy Savigny đă nghĩ ra một phương pháp mới.
Ông nhận thấy, các phần phụ miệng của chúng đủ khác biệt để chia thành những loài khác nhau. Ông nghiên cứu cẩn thận những chiếc hàm nhỏ xíu của côn trùng và vẽ hơn 1.000 h́nh ảnh về các mẫu vật, trong đó một số chỉ dài một cm. Savigny áp dụng sự chính xác tương tự với các loài nhện, giun và động vật không xương sống khác. Một số phương pháp phân loại của ông vẫn được sử dụng đến nay.
Phát hiện loài cá sấu mới
Etienne Geoffroy Saint-Hilaire tin rằng có hai loài cá sấu ở sông Nile. Ông cũng là một nhà sưu tầm xuất sắc như Savigny. Khi ở Ai Cập, ông đă nghiên cứu dơi, ngỗng, rùa và nhiều sinh vật khác. Các giả thuyết của Geoffroy thường khiến những nhà tự nhiên học khác khó chịu, kể cả việc ông cố gắng chứng minh một con cá sấu ướp xác mà ḿnh thu thập từ Ai Cập thuộc một loài riêng biệt.
Geoffroy cho biết, hàm của nó hoàn toàn khác với cá sấu sông Nile. Thêm vào đó, nó cũng ít hung dữ hơn. Các đồng nghiệp cho rằng ông đă sai khi nói có một loài cá sấu khác tồn tại. Tuy nhiên, hơn 200 năm sau, nhà sinh vật học Evon Hekkala cùng nhóm nghiên cứu đă phân tích ADN của cá sấu hiện đại và một số xác ướp cá sấu của Geoffroy. Họ xác nhận, có hai loài riêng biệt bơi dưới sông Nile: cá sấu sông Nile (Crocodylus niloticus) và cá sấu sa mạc (Crocodylus suchus).
Sự ra đời của nhăn khoa
Các bác sĩ Pháp đi cùng Napoleon gặp phải những căn bệnh lạ ở Ai Cập. Một căn bệnh mà họ mang theo khi trở về châu Âu là "bệnh viêm mắt Ai Cập", ngày nay gọi là đau mắt hột, có thể gây ngứa, sưng mắt và dẫn đến mù. Căn bệnh trở nên phổ biến đến mức các bác sĩ khắp châu Âu bắt đầu nghiên cứu nó.
Thời đó, nhăn khoa chưa phải một nhánh nghiên cứu chính thức, nhưng cuộc chạy đua t́m ra nguồn gốc bệnh đau mắt hột đă đặt nền móng cho sự ra đời của ngành này. Cuối cùng, bác sĩ người Anh John Vetch nhận ra mủ từ mắt bị viêm có thể làm lây lan bệnh. Khi biết căn bệnh có tính lây nhiễm, Vetch đă phát triển những biện pháp pḥng chống và điều trị được coi là cột mốc quan trọng trong lịch sử nhăn khoa.
Đá Rosetta giúp giải mă chữ tượng h́nh
Suốt hàng thế kỷ, không ai có thể đọc những chữ tượng h́nh xuất hiện trên các di tích của Ai Cập. Khi t́m thấy Đá Rosetta trong cuộc xâm lược, người Pháp biết rằng có thể dùng nó làm ch́a khóa dịch thuật.
Ba văn bản được khắc trên đá bằng chữ tượng h́nh Ai Cập, chữ viết nhanh bắt nguồn từ chữ tượng h́nh Ai Cập và tiếng Hy Lạp cổ đại. Ba văn bản giống hệt nhau nên phần chữ Hy Lạp có thể giúp các nhà nghiên cứu giải mă chữ tượng h́nh. Học giả người Pháp Jean-Francois Champollion đă dịch được chúng trong hai thập kỷ.
Phát minh máy khắc giúp tăng tốc in ấn
Khi trở lại Pháp, nhiều nhà khoa học tham gia biên soạn bộ sách nhiều tập Description de l'Égypte dày tới 7.000 trang gồm những ǵ họ quan sát và nghiên cứu ở Ai Cập. Để rút ngắn quá tŕnh khắc tốn nhiều công sức, kỹ sư Nicolas-Jacques Conté chế tạo cỗ máy tự động hóa một phần quy tŕnh.
Để in hàng trăm bức tranh minh họa, trước tiên những người thợ khắc phải chuyển chúng sang các tấm đồng. Với những tấm có h́nh vẽ di tích, máy của Conté có thể khắc bầu trời ở hậu cảnh. Thợ khắc cũng có thể thiết lập máy để tạo ra các đám mây. Những thứ vốn mất 6 - 8 tháng giờ có thể hoàn thành trong vài ngày.
Tuy nhiên, bộ sách vẫn rất kỳ công và được coi là tác phẩm tham vọng nhất của Pháp đầu thế kỷ 19. Tập đầu tiên được in vào năm 1809, tập cuối cùng ra mắt cuối những năm 1820, gần một thập kỷ sau cái chết của Napoleon.
Bất chấp những khó khăn, các kỹ sư, nhà toán học, nhà tự nhiên học và những chuyên gia khác đă dành gần ba năm để khảo sát, ghi chép và thu thập mọi thứ từ cổ vật đến xác ướp và những loài động vật mà phương Tây chưa biết đến. Công việc của họ mang đến một số phát hiện mới, giúp chính thức hóa các ngành khoa học như khảo cổ học và thúc đẩy đam mê nghiên cứu Ai Cập.
Phát hiện các phản ứng hóa học có thể đảo ngược
Trước đây, việc phản ứng hóa học có thể đảo ngược không được chấp nhận rộng răi. Tuy nhiên, nhà hóa học Claude-Louis Berthollet t́m thấy bằng chứng thuyết phục cho quan điểm này trong lúc nghiên cứu muối ở các hồ trong thung lũng Natron.
Đá vôi trong các hồ được bao phủ bởi natron, loại muối tự nhiên mà người Ai Cập sử dụng để bảo quản xác ướp v́ nó hấp thụ hơi ẩm và ḥa tan chất béo. Berthollet nhận thấy, đá vôi chứa canxi cacbonat phản ứng hóa học với muối, hay natri clorua, để tạo ra natron. Trong khi các nhà hóa học trước đó đă biết, trong điều kiện pḥng thí nghiệm, phản ứng ngược lại hoàn toàn có thể xảy ra.
Góp phần chính thức hóa ngành khảo cổ học
Vào thời Napoleon, khảo cổ chưa phải là một ngành khoa học chính thức. Đa số nhà khoa học chưa có nhiều kinh nghiệm với các đồ tạo tác. Đất cát vẫn vùi lấp nhiều ngồi đền chưa được khai quật.
Nghệ sĩ kiêm nhà văn Dominique-Vivant Denon đă rất kinh ngạc trước những di tích cổ xưa ḿnh nh́n thấy. Ông trở về Pháp với Napoleon và nhanh chóng xuất bản một cuốn sách với những mô tả và h́nh vẽ mang tên Travels in Upper and Lower Egypt (Những chuyến đi ở Thượng và Hạ Ai Cập). Những h́nh vẽ và mô tả của ông về các ngôi đền và tàn tích ở Thebes, Esna, Edfu, và Karnak trở nên nổi tiếng và rất được ưa chuộng.
Phương pháp mới để phân loại côn trùng
Khi trở về Pháp, nhà thực vật học Jules-César Savigny cần sắp xếp lại 1.500 loài côn trùng mà ông đă mang về. Thời đó chưa tồn tại phương pháp có hệ thống nào để phân biệt loài bướm này với loài bướm khác. V́ vậy Savigny đă nghĩ ra một phương pháp mới.
Ông nhận thấy, các phần phụ miệng của chúng đủ khác biệt để chia thành những loài khác nhau. Ông nghiên cứu cẩn thận những chiếc hàm nhỏ xíu của côn trùng và vẽ hơn 1.000 h́nh ảnh về các mẫu vật, trong đó một số chỉ dài một cm. Savigny áp dụng sự chính xác tương tự với các loài nhện, giun và động vật không xương sống khác. Một số phương pháp phân loại của ông vẫn được sử dụng đến nay.
Phát hiện loài cá sấu mới
Etienne Geoffroy Saint-Hilaire tin rằng có hai loài cá sấu ở sông Nile. Ông cũng là một nhà sưu tầm xuất sắc như Savigny. Khi ở Ai Cập, ông đă nghiên cứu dơi, ngỗng, rùa và nhiều sinh vật khác. Các giả thuyết của Geoffroy thường khiến những nhà tự nhiên học khác khó chịu, kể cả việc ông cố gắng chứng minh một con cá sấu ướp xác mà ḿnh thu thập từ Ai Cập thuộc một loài riêng biệt.
Geoffroy cho biết, hàm của nó hoàn toàn khác với cá sấu sông Nile. Thêm vào đó, nó cũng ít hung dữ hơn. Các đồng nghiệp cho rằng ông đă sai khi nói có một loài cá sấu khác tồn tại. Tuy nhiên, hơn 200 năm sau, nhà sinh vật học Evon Hekkala cùng nhóm nghiên cứu đă phân tích ADN của cá sấu hiện đại và một số xác ướp cá sấu của Geoffroy. Họ xác nhận, có hai loài riêng biệt bơi dưới sông Nile: cá sấu sông Nile (Crocodylus niloticus) và cá sấu sa mạc (Crocodylus suchus).
Sự ra đời của nhăn khoa
Các bác sĩ Pháp đi cùng Napoleon gặp phải những căn bệnh lạ ở Ai Cập. Một căn bệnh mà họ mang theo khi trở về châu Âu là "bệnh viêm mắt Ai Cập", ngày nay gọi là đau mắt hột, có thể gây ngứa, sưng mắt và dẫn đến mù. Căn bệnh trở nên phổ biến đến mức các bác sĩ khắp châu Âu bắt đầu nghiên cứu nó.
Thời đó, nhăn khoa chưa phải một nhánh nghiên cứu chính thức, nhưng cuộc chạy đua t́m ra nguồn gốc bệnh đau mắt hột đă đặt nền móng cho sự ra đời của ngành này. Cuối cùng, bác sĩ người Anh John Vetch nhận ra mủ từ mắt bị viêm có thể làm lây lan bệnh. Khi biết căn bệnh có tính lây nhiễm, Vetch đă phát triển những biện pháp pḥng chống và điều trị được coi là cột mốc quan trọng trong lịch sử nhăn khoa.
Đá Rosetta giúp giải mă chữ tượng h́nh
Suốt hàng thế kỷ, không ai có thể đọc những chữ tượng h́nh xuất hiện trên các di tích của Ai Cập. Khi t́m thấy Đá Rosetta trong cuộc xâm lược, người Pháp biết rằng có thể dùng nó làm ch́a khóa dịch thuật.
Ba văn bản được khắc trên đá bằng chữ tượng h́nh Ai Cập, chữ viết nhanh bắt nguồn từ chữ tượng h́nh Ai Cập và tiếng Hy Lạp cổ đại. Ba văn bản giống hệt nhau nên phần chữ Hy Lạp có thể giúp các nhà nghiên cứu giải mă chữ tượng h́nh. Học giả người Pháp Jean-Francois Champollion đă dịch được chúng trong hai thập kỷ.
Phát minh máy khắc giúp tăng tốc in ấn
Khi trở lại Pháp, nhiều nhà khoa học tham gia biên soạn bộ sách nhiều tập Description de l'Égypte dày tới 7.000 trang gồm những ǵ họ quan sát và nghiên cứu ở Ai Cập. Để rút ngắn quá tŕnh khắc tốn nhiều công sức, kỹ sư Nicolas-Jacques Conté chế tạo cỗ máy tự động hóa một phần quy tŕnh.
Để in hàng trăm bức tranh minh họa, trước tiên những người thợ khắc phải chuyển chúng sang các tấm đồng. Với những tấm có h́nh vẽ di tích, máy của Conté có thể khắc bầu trời ở hậu cảnh. Thợ khắc cũng có thể thiết lập máy để tạo ra các đám mây. Những thứ vốn mất 6 - 8 tháng giờ có thể hoàn thành trong vài ngày.
Tuy nhiên, bộ sách vẫn rất kỳ công và được coi là tác phẩm tham vọng nhất của Pháp đầu thế kỷ 19. Tập đầu tiên được in vào năm 1809, tập cuối cùng ra mắt cuối những năm 1820, gần một thập kỷ sau cái chết của Napoleon.